Vào hồi mười một giờ hôm sau, bá tước xuống nhà rồi lên xe, cho xe dừng lại trước dinh thự của ông chủ ngân hàng Danglars, đậu bên cạnh một cỗ ngựa khác cũng đẹp gần như cỗ ngựa của mình.
Danglars đang làm chủ tọa một hội đồng được cử ra để làm một đường xe lửa, thì người ta báo cho hắn cuộc viếng thăm của bá tước Monte Cristo.
– Thưa các ông, hắn nói với các đồng nghiệp, thứ lỗi cho tôi nếu tôi phải cáo biệt các ông như thế này nhưng xin hãy hình dung là hãng Thom-son và French ở Rome giới thiệu đến chỗ tôi một bá tước Monte Cristo nào đó, để mở cho ông ta một khoản tín dụng vô hạn. Về phần tôi các ông hiểu cho vì bị tính tò mò ám ảnh nên phải vội gặp con người này.
Và hắn rời khỏi đám khách khứa của mình để đi sang một phòng khách.
Nghe thấy tiếng Danglars đi vào, bá tước ngoảnh lại. Danglars khẽ gật đầu chào rồi ra hiệu mời bá tước ngồi. Monte Cristo nói:
– Hẳn ông đã nhận được bức thư yêu cầu ngân hàng của ông cấp tín dụng cho tôi?
– Vâng, Danglars nói, nhưng tôi phải thú thật với ông rằng về chuyện này tôi chưa hoàn toàn hiểu rõ. Lá thư này mở một tín dụng vô hạn cho ông ở ngân hàng của tôi.
– Vậy thì, thưa ông nam tước, ông thấy có gì tối nghĩa trong đó?
– Không có gì, thưa ông, chỉ có điều cái từ vô hạn…
– Này, từ ấy không phải tiếng Pháp à?
– Rút cục, thưa ông, Danglars nói sau một lúc suy nghĩ, tôi sẽ cố để ông hiểu tôi bằng cách đề nghị ông tự mình ấn định khoản tiền mà ông định nhận ở tôi.
– Nhưng, ông ạ, Monte Cristo nói thêm, nếu tôi yêu cầu một tín dụng vô hạn ở ông tức là tôi chẳng biết chính xác tôi cần bao nhiêu tiền.
Lão chủ ngân hàng cho rằng thế là đã đến lúc thắng thế, hắn ngả người trong chiếc ghế bành của mình và nói với một nụ cười nặng nề và ngạo nghễ:.- ồ! Thưa ông, đừng ngại và ông muốn gì cũng được. Ngân hàng Danglars có thể thỏa mãn những yêu cầu lớn nhất, cho dù ông có yêu cầu tới một triệu. Tôi nói rõ là: một triệu, Danglars lặp lại với cái vẻ chững chạc của sự ngu xuẩn.
– Một triệu thì tôi sẽ làm cái gì chứ? Bá tước nói. Lạy Chúa! Thưa ông, nếu tôi chỉ cần có mỗi một triệu thì tôi sẽ chẳng phải mở tín dụng cho một món tiền còm như thế. Một triệu à? Mà bao giờ tôi chả có một triệu trong ví hoặc là trong hộp đựng đồ đi đường.
Và Monte Cristo rút từ một cuốn sổ tay nhỏ đựng các danh thiếp của mình ra hai phiếu chi mỗi phiếu năm trăm ngàn frăng trực tiếp chi cho người cầm phiếu, ở kho bạc.
Danglars ngước hai con mắt ngây dại nhìn Monte Cristo.
– Xin tha lỗi cho tôi, thưa bá tước.
– Vậy thì, bây giờ khi ta đã hiểu nhau, hãy ấn định, nếu ông vui lòng, một khoản tiền đại khái cho năm đầu: sáu triệu chẳng hạn.
– Sáu triệu, được! – Danglars nói, sửng sốt.
– Để mở đầu, xin vui lòng cho mang lại năm trăm ngàn frăng vào ngày mai, tôi sẽ ở nhà đến trưa.
– Điều đó sẽ được thực hiện, Danglars nói.
Và bá tước đứng lên.
Danglars tiễn ông ra tận thềm.
– Này nam tước, cho tôi biết cỗ ngựa đẹp tuyệt vời màu xám đốm kia là thuộc về ai?
– Của bà Danglars. Chúng được thắng sẵn để cho bà de Villefort mượn chiều nay vào rừng chơi.
Về đến nhà, bá tước lập tức gọi Ali.
– Ali này, anh bảo hắn, anh hay kể với tôi về tài ném thòng lọng của anh phải không?
Ali ra hiệu là vâng rồi đứng thẳng người, tỏ vẻ hãnh diện Ali mỉm cười.
– Vậy thì nghe đây, bá tước nói. Lát nữa sẽ có chiếc xe thắng hai ngựa màu xám đốm chạy qua. Dù anh có bị nghiền nát thì cũng phải làm cho cái xe ấy dừng lại ở cửa nhà tôi.
Người Nubie chạy ra ngồi trên khúc gỗ ở góc hợp thành bởi tòa nhà với đường phố, hút cái ống điếu Thổ Nhĩ Kỳ của mình, trong khi ấy Monte Cristo quay vào nhà chẳng còn quan tâm đến gì hết.
Đột nhiên, vào quãng năm giờ, thấy có tiếng bánh xe lăn từ đàng xa, rồi lại gần với sự mau lẹ của sấm sét. Một chiếc xe mui gấp xuất hiện, người đánh xe đang cố kìm ngựa lại một cách vô.hiệu, chúng chạy hung hăng, bờm dựng ngược, vọt lên bằng những cái vươn mình điên dại.
Trong xe, một thiếu phụ trẻ và một đứa bé khoảng bảy tám tuổi ngồi ôm lấy nhau, co quắp.
Bất chợt Ali đặt ống điếu xuống, cầm cuộn dây thòng lọng vung ra, quấn ba vòng vào các chân trước của con ngựa chạy bên trái, để mình bị kéo theo sự chuyển động mạnh mẽ của con ngựa, nhưng sau ba hay bốn bước con ngựa bị trói ngã khuỵu xuống làm tê liệt mọi cố gắng của con ngựa còn đứng muốn chạy tiếp. Ali đã nắm được mũi con ngựa thứ hai và con vật nằm dài ra co giật bên cạnh bạn đồng hành.
Tất cả việc này chỉ cần một thời gian đủ cho một viên đạn chạm vào đích. Nhưng mấy giây ấy cũng đủ để Monte Cristo kịp lao ra, theo sau là nhiều người hầu, đem hai người khách qua đường vào trong phòng khách. Đặt họ lên một tràng kỷ, ông nói:
– Đừng sợ, thưa bà, bà đã thoát nạn.
Thiếu phụ đã hoàn hồn và hỏi thăm về cậu con trai còn đang bất tỉnh.
Monte Cristo đưa tay phác một cử chỉ để làm yên lòng người mẹ đang khóc sướt mướt và mở một cái hộp lấy chiếc lọ thủy tinh Bohème nạm vàng đựng một thứ nước màu đỏ rồi rỏ có mỗi một giọt lên môi đứa trẻ.
Đứa trẻ dù còn tái xanh, lập tức mở mắt ra.
Thấy thế người mẹ vui sướng gần như phát điên.
– ồ! Chỉ tại cái tính hiếu kỳ đáng nguyền rủa! Người thiếu phụ nói. Cả Paris bàn tán về những con ngựa tuyệt vời của bà Danglars và tôi đã điên rồ muốn đi thử. Nhưng tôi đang ở đâu đây?
– Bà đang ở nhà bá tước Monte Cristo.
– Thưa ông, tôi là bà Héloise de Villefort.
Bá tước chào trong vai một người hoàn toàn không biết gì khi nghe nói đến cái tên này.
– Thưa ông, chúng tôi đội ơn ông cứu mạng.
Chắc chắn là nếu không nhờ có người hầu dũng cảm của ông thì đứa con yêu dấu này và tôi đều đã bị giết chết.
– Ôi chao! Thưa bà! Tôi vẫn còn run vì hiểm họa mà bà đã trải qua.
Trong phút im lặng này, bá tước có thể tha hồ nhìn kỹ đứa trẻ mà người mẹ đang ra sức hôn hít. Nó bé nhỏ, mảnh khảnh, nước da trắng với mái tóc đen, cặp mắt đầy vẻ tinh ranh khéo vờ vĩnh và ưa chơi ác.
– Tôi thấy bà đã hoàn toàn lại sức và bà muốn ra về. Tôi vừa sai thắng chính cặp ngựa ấy vào xe của tôi và Ali sẽ đánh xe đưa bà về nhà..Tối hôm ấy sự kiện Auteuil thành đề tài trong mọi cuộc trò chuyện: Albert kể lại chuyện ấy với mẹ, Château-Renaud kể ở câu lạc bộ đua ngựa, Debray ở phòng khách của ông bộ trưởng; Beauchamp tự mình xử sự phong nhã với bá tước bằng một cái tin hai chục dòng đăng trên tờ báo của mình, đưa nhà quý tộc ngoại quốc lên thành bậc anh hùng đối với các phu nhân trong giới quý tộc.
Ngày hôm sau, bá tước đến phố Meslay xin gặp ông bà Herbault và ông Maximilien Morrel.
– A! Thưa bá tước, Maximilien nói, cám ơn, trăm lần cám ơn ông đã không quên lời hứa. Mời ông vào trong vườn, chị tôi đang cắt những bông hồng héo.
Tiếng chân bước làm cho người thiếu phụ trẻ chừng hai mươi đến hai mươi nhăm tuổi, mặc một chiếc áo dài trong nhà, ngẩng đầu lên. Cô chính là Julie và nay đã là bà Emmanuel Herbault.
Emmanuel bước đến chào bá tước. Rồi cả ba người đưa anh đi dạo trong vườn và dẫn vào phòng khách.
Từ lúc bước vào căn nhà này, bá tước đã thấy lòng mình tràn ngập niềm hạnh phúc. Bởi vậy ông lặng thinh không nói, chỉ ngồi im mơ mộng. Lát sau ông cố bứt mình ra khỏi mơ màng:
– Xin bà thứ lỗi cho tôi, cuối cùng ông nói, đối với tôi, vẻ mãn nguyện hiện trên gương mặt của con người là điều hết sức mới mẻ, thành thử tôi ngắm hai vị, bà và chồng bà, mà không biết chán.
– Chúng tôi rất sung sướng, đúng thế, thưa ông, Julie đáp, nhưng chúng tôi cũng đã trải qua nhiều thời gian đau khổ và ít có ai trả giá đắt cho hạnh phúc như chúng tôi.
Sự tò mò thoáng hiện ra trên nét mặt của bá tước.
– Và Chúa đã ban cho các vị, như Người từng ban cho tất cả mọi người, nguồn an ủi cho nỗi đau khổ đúng không? – Monte Cristo hỏi.
– Vâng thưa bá tước, Julie nói; chúng tôi có thể nói như vậy, vì Người đã làm cho chúng tôi điều mà Người chỉ làm cho những người được ân sủng. Người đã ban cho chúng tôi một trong các thiên thần của Người.
Monte Cristo đứng dậy chẳng đáp lại một lời vì nếu nói thì giọng run run của anh sẽ làm lộ rõ những xúc động đang khuấy động lòng anh, anh liền đi từng bước một khắp phòng khách.
– Bà nói là một thiên thần? Monte Cristo tái mặt và đưa tay cố nén nhịp đập của trái tim mình..- Vâng, một thiên thần mà những di vật duy nhất đang ở đây.
Julie chỉ cho bá tước xem một hình cầu bằng pha lê úp lên một cái túi bằng tơ, một lá thư và một viên kim cương được đặt nằm trang trọng trên một cái gối nhỏ bằng nhung đen.
– Vật này, thưa bá tước, là quý giá nhất trong kho báu của gia đình, Maximilien vừa nói vừa nhấc quả cầu pha lê lên. Cái túi này đã cứu cha tôi khỏi chết, cứu chúng tôi khỏi sự phá sản, cứu tên tuổi chúng tôi khỏi nỗi ô nhục. Lá thư này được viết vào hôm mà cha tôi đã chọn một giải pháp thật tuyệt vọng, và viên kim cương này tặng em gái tôi làm của hồi môn bởi con người không quen biết hào hiệp ấy.
– ông nói không quen biết? Con người đã giúp các vị trong việc này vẫn cứ còn là không quen biết đối với các bạn?
– Vâng, thưa ông, chưa bao giờ chúng tôi có diễm phúc được cám ơn ông ta, Julie nói. Nhưng tôi còn chưa mất hết hy vọng một ngày kia được hôn bàn tay đã cứu vớt chúng tôi.
– Cha chúng tôi đã tin chắc ai là người đem lại hạnh phúc này cho chúng tôi, Maximilien nói.
Monte Cristo rùng mình.
– Cha tôi thấy ở hành động này một chuyện thần kỳ. Cha tôi tin vào một ân nhân đã vì chúng tôi mà ra khỏi nấm mồ. ý tưởng này cho đến ngày ấy vẫn chỉ là một mối hoài nghi nhưng rồi nó trở thành niềm xác tín, và những lời cuối cùng mà cha tôi nói ra lúc lâm chung là: “Maximilien, đó là Edmond Dantès!”.
Những lời này làm cho vẻ xanh xao của bá tước vốn đã tăng lên từ mấy giây đồng hồ trước, nay trở nên đáng sợ.
Anh rút đồng hồ ra cứ như là anh quên mất giờ giấc, cầm lấy mũ, nói với bà Herbault một lời chúc tụng bối rối và ngắn gọn, rồi bắt tay Emmanuel và Maximilien:
– Thưa bà, anh nói, xin phép bà cho tôi được thỉnh thoảng ghé lại thăm bà. Tôi yêu ngôi nhà của các vị, và tôi cám ơn về sự đón tiếp của các vị, vì đây là lần đầu tiên sau bao nhiêu năm dài quên mất mình, tôi được đón tiếp như vậy.
Ngay lúc bá tước rời khỏi ngôi nhà ở phố Meslay thì Maximilien đến lượt mình cũng đi ra, và bằng những bước chân khẽ khàng bước vào một khu vườn đã trở lại hoang dã liền kề ngôi nhà lộng lẫy của ngoại ô Saint-Honoré.
Trong vườn hoa của tòa dinh thự sang trọng bậc nhất này, ở một góc cây cối đặc biệt um tùm có một người đàn bà trẻ đứng nhìn đăm đăm qua một khe giữa lùm cây vào phía vườn hoang..Đó là một thiếu nữ khoảng mười chín tuổi, cao dong dỏng, tóc màu hạt dẻ sáng, cặp mắt xanh thẫm, có dáng đi uể oải thấm đượm vẻ quý phái tao nhã. Cô là con gái của cuộc hôn nhân đầu tiên giữa ông de Villefort và bà de Saint-Méran.
Với cái nhìn chỉ có ở những người đang yêu chàng trai đã thấy phấp phới tà áo trắng và chiếc thắt lưng dài màu thanh thiên. Anh lao về phía tường chắn và ghé miệng vào một khe nứt.
– Đừng sợ, Valentine, anh nói, tôi đây mà.
– ồ! Thưa ông, cô nói, tại sao hôm nay ông đến muộn thế? ông có biết là sắp đến giờ ăn tối rồi không và tôi đã phải khéo biện bạch để đem đồ thêu ra đây làm.
– Valentine thân mến, chàng trai nói, đối với tôi cô quá kiêu xa để tôi dám ngỏ lời với cô, tuy nhiên mỗi lần gặp cô, khi nghĩ đến cô, máu tôi sôi sục, ngực tôi căng lên, trái tim tôi chan chứa niềm yêu. Tôi yêu cô, Valentine.
– Tình yêu của anh không được phải lẽ lắm vì anh biết rằng tôi đã được hứa gả cho ông Franz d’Epinay.
– Nghe nói là ông Franz d’Epinay còn đi vắng một năm nữa; trong một năm trời biết bao nhiêu cơ may có thể giúp ta biết bao nhiêu sự kiện có thể hỗ trợ cho ta! Vậy hãy luôn luôn hy vọng, thật là tốt đẹp và thật là dịu ngọt khi người ta hy vọng!
Bất thần Valentine thốt lên:
– Xuỵt! Trốn đi anh, có người đến đấy!
– Cô ơi! Cô ơi! – Có tiếng gọi sau đám cây.
Bà de Villefort đang tìm cô khắp nơi. Có khách đến thăm đang ở phòng khách. Một đại lãnh chúa, một ông hoàng ấy chứ, theo như người ta đồn, đó là ngài bá tước Monte Cristo.
– Tôi đến đây. Valentine nói to.
Cái tên đó làm Maximilien rùng mình.
– Này! Anh tự nhủ, sao bá tước Monte Cristo lại quen ông de Villefort nhỉ?
Bà de Villefort đang ở trong phòng khách lúc người ta báo bá tước đến thăm, liền lập tức cho gọi con trai để cho con cám ơn bá tước một lần nữa. ông de Villefort vắng nhà vì đi dự bữa tối ở nhà ông chưởng ấn.
Valentine đã được bà hầu phòng báo trước, bước vào, thấy người ngoại quốc mà cô đã nghe nói đến nhiều đang ngồi cạnh bà mẹ kế, cô liền chào rất duyên dáng làm tăng gấp bội sự chú ý của bá tước.
Lúc đó chuông điểm sáu giờ.
– Sáu giờ rồi đấy, bà Villefort nói, rõ ràng là muốn lợi dụng cái cớ này để ngồi lại một mình.với Monte Cristo, Valentine này sao con không đến xem ông nội con đã sẵn sàng để ăn tối chưa?
Valentine đứng dậy và vừa chào bá tước, vừa ra khỏi phòng không nói một lời.
– Xin ông vui lòng tha lỗi cho cô de Villefort, thiếu phụ sôi nổi nói tiếp; vì đã đến giờ chúng tôi phải dọn cho cụ Noirtier cái bữa ăn buồn tẻ để duy trì sự sống buồn tẻ của cụ. Chao ôi! Cụ già tội nghiệp hoàn toàn không cử động được nữa, riêng chỉ có tinh thần còn sáng suốt trong cỗ máy con người này. Nhưng, bà ta nói tiếp, ông chắc phải là một nhà hóa học lớn. Thứ rượu thuốc mà ông đã cho con trai tôi uống…
– ồ! Tôi không nói thế, thưa bà, bá tước trả lời với một nụ cười; tuy tôi có nghiên cứu hóa học vì đã quyết định cư trú đặc biệt ở phương Đông, tôi muốn biết nhiều hơn về các độc dược.
Vì những người phương Đông là những chuyên gia đáng sợ trong lĩnh vực ấy: chẳng phải là chẳng có một người đàn bà Ai Cập, Thổ Nhĩ Kỳ hay Hy Lạp nào là không biết về lĩnh vực hóa học đến nỗi làm sững sờ một người thầy thuốc đấy thôi.
– Thật thế ư! – Bà de Villefort nói, mà cặp mắt ánh lên một ngọn lửa lạ lùng khi nghe lời trò chuyện này.
– Chẳng hạn thứ rượu thuốc mà bà vừa nói, thưa bà; một giọt rượu ấy đủ để đưa cậu bé sắp chết kia trở về với cuộc sống, nhưng ba giọt ắt đẩy máu vào phổi làm cho cậu bé đánh trống ngực; sáu giọt ắt làm cho cậu ngừng thở, và gây ra một cơn ngất nặng hơn nhiều cơn cậu vừa trải qua; sau rốt mười giọt ắt gây đột tử.
– Tôi cho rằng cách điều chế ra nó là một bí mật, và tôi không thiếu tế nhị để hỏi xin ông đơn thuốc ấy.
– Nhưng tôi, thưa bà, Monte Cristo vừa nói vừa đứng dậy, tôi lại đủ lịch thiệp để tặng bà đơn thuốc này. Chỉ xin nhắc bà một điều là: ở liều thấp, đó là một phương thuốc; ở liều cao, đó là thuốc độc. Một giọt đem lại mạng sống; chin hay mười giọt chắc chắn là chết người, và bằng một cách còn khủng khiếp hơn, là nếu pha vào một ly rượu vang nó chẳng hề làm thay đổi hương vị của rượu chút nào. Nhưng tôi xin dừng lại đây, vì thưa bà, gần như có vẻ là tôi chỉ dẫn cho bà rồi.
Chuông đồng hồ vừa báo sáu giờ rưỡi.
– Tôi phải cáo biệt bà, Monte Cristo nói; tôi có một lời hứa mà tôi không thể bỏ qua được.
Tôi nhận lời với một công chúa Hy Lạp trong số bạn gái của tôi, cô ấy chưa từng thấy nhà hát lớn và nhờ cậy tôi đưa cô đi xem.
– Vậy ông đi đi, thưa ông. Nhưng đừng có quên đơn thuốc của tôi..Monte Cristo chào và ra về. Kết quả thật vượt quá mong đợi của ông. Và hôm sau, giữ đúng lời hứa, ông gửi đơn thuốc bà ta đã hỏi xin.
Nhà hát nhạc vũ kịch đêm hôm ấy chào mừng Levasseur, và tác phẩm của nhạc sĩ thiên tài hợp thời thượng như mọi khi đã thu hút cả xã hội thanh lịch nhất Paris.
Morcerf có khoang ghế riêng ở gần dàn nhạc, Château-Renaud cũng có khoang ghế sát cạnh đó. Beauchamp với tư cách nhà báo, là chúa tể của nhà hát, có thể ngồi ở bất cứ đâu. Nữ nam tước Danglars và cô con gái Eugénie được Lucien Debray mời vào lô của ông bộ trưởng.
Bước vào phòng diễn, họ thấy khán giả ở khu trước sân khấu đều đứng, mắt nhìn đăm đăm về cùng một điểm trong phòng; họ đưa mắt theo hướng ấy và dừng lại ở lô trước đây của đại sứ Nga.
– Này! Albert nói, đó là Monte Cristo và cô gái Hy Lạp của ông ta.
Một lát sau, người đàn bà trẻ là đối tượng chú ý không những của khu trước sân khấu mà của cả phòng diễn; các bà nhoài người khỏi lô của mình để ngắm cái dòng thác kim cương ấy chảy dưới ánh sáng của các ngọn đèn chùm. Bà Danglars hỏi:
– Lucien, cái người đàn ông này anh có biết là ai không?
– Đó là một cô nô lệ, theo như chính bá tước nói với chúng tôi.
– Lucien thân mến, bà nam tước nói, hãy thừa nhận là cô ta có vẻ như một công chúa của Nghìn một đêm lẻ thì đúng hơn. Anh biết mình phải làm gì rồi chứ? Anh phải ghé thăm bá tước Monte Cristo va đưa ông ta đến với chúng tôi.
– Tôi xin hết lòng. Debray nói.
Lucien Debray nhân dịp nghỉ giữa hai màn bèn đến lô của Monte Cristo và mời ông sang lô của bà Danglars.
– Hãy nói với bà nam tước rằng tôi sẽ rất hân hạnh, nếu bà cho phép được đến để bày tỏ lòng kính trọng của tôi đối với bà. Nhưng thỉnh thoảng bá tước de Morcerf có đến nhà hát Nhạc vũ kịch chứ? Tôi đã để mắt tìm mà chẳng thấy ông ta đâu.
– ông ta sẽ đến tối nay.
Cuối màn ba, bá tước ra khỏi lô của mình và một lát sau ông xuất hiện trong lô của bà nam tước Danglars và bá tước de Morcerf đã đến giữa chừng. Bà nam tước không nén được một tiếng reo ngạc nhiên xen chút mừng rỡ.
– Xin cho biết con người tuyệt diệu kia là ai vậy?.- Đó là Haydée, một cô gái Hy Lạp mà tôi là người đỡ đầu.
– Một cô gái Hy Lạp! – Bá tước de Morcerf lẩm bẩm.
– Vâng, thưa bá tước de Morcerf, bà Danglars nói; và xin cho biết ông có bao giờ thấy ở triều đình Pacha nơi ông đã phục vụ vẻ vang đến thế, có một sắc đẹp nào được như vậy không.
– A! Monte Cristo nói, ông đã từng phục vụ ở Janina ư, thưa bá tước?
– Tôi đã từng là tướng thanh tra trong quân đội của Pacha, Morcerf trả lời, và tài sản ít ỏi của tôi, chẳng giấu gì ông, là do sự hào phóng của thủ lĩnh nổi tiếng người Anbani ấy.
– Hãy nhìn kìa! – Bà Danglars nhắc.
Viên tướng nhoài người ra ngoài lô để nhìn rõ Haydée.
Lúc này, Haydée đưa mắt tìm bá tước Monte Cristo, thấy gương mặt tái của ông bên cạnh ông de Morcerf. Cái nhìn này gây ra ở người thiếu nữ một tác động lạ thường. Cô vừa ngả người về phía sau vừa thốt lên một tiếng kêu.
– Này, Eugénie nói, có chuyện gì xảy ra cho người được ông giám hộ thế thưa bá tước? Có vẻ là cô ta khó ở.
– Đúng thế, Haydée rất mẫn cảm. Tôi phải trở lại với cô ta. Bá tước vừa nói vừa chào bà Danglars.
Khi ông bước vào lô, Haydée vẫn còn rất nhợt nhạt.
– Đức ông vừa nói chuyện với ai thế? Thiếu nữ hỏi.
– Với bá tước de Morcerf, Monte Cristo trả lời, người đã từng phục vụ người cha nổi tiếng của em, hắn thừa nhận rằng tài sản của hắn là nhờ ở cha em.
– A! Tên khốn nạn! Haydée kêu lên, chính nó đã phản cha em vì bọn Thổ, còn cái cơ nghiệp ấy là cái giá của sự phản bội. Đức ông thân yêu lại không biết thế hay sao?
– Ta đã từng nghe nói đôi điều về chuyện này ở Hy Lạp, Monte Cristo nói, nhưng không biết chi tiết. Về đi, con gái, kể tỉ mỉ cho ta nghe, chắc phải kỳ lạ lắm.
– ồ! Vâng, em về, em về đây. Có lẽ em chết mất nếu còn ở lại lâu trước mặt con người này..