An Nam Chí Lược

Gia thế Họ Lý

Gia thế Họ Lý

Lý Công Uẩn (tức Lý Thái Tổ)

Người Giao-Châu (có kẻ bảo là người Phúc-Kiến, không đúng), có tài thao lược, Lê-Chí-Trung dùng làm đại-tướng, rất thân tín. Năm Canh-Tuất, niên hiệu Đại-Trung-tường-phù thứ 3 (1010), Chí- Trung mất, con đương nhỏ, em là Minh-Vĩnh tranh ngôi, Công-Uẩn đuổi và giết Minh-Vĩnh, tự lĩnh công việc Giao-Châu, xưng An-nam Tịnh-Hải-quân quyền lưu-hậu.

Chuyển-vận-sứ Quảng-tây Hà-Lượng tâu nói rằng: "Công-Uẩn có đưa giấy nói xin đưa phương vật tiến cống, xin vua xuống chiếu chỉ".

Tống-Chân-Tông nói rằng: "Chí-Trung bất nghĩa mà được ngôi, nay Công-Uẩn bắt chước làm bậy, lại càng đáng ghét". Tức thì xuống chiếu khiến Hà Lượng yên vỗ dân biên thùy, xem xét sự cơ để tâu lên.

Tháng 10, sắc phong Lý-Công-Uẩn quyền chức Tịnh-hải-quân lưu-hậu; được đặc cách tiến chức Kiểm-hiệu Thái phó, An-nam đô-hộ, tiết-độ quan-sát, sử-trí đẳng sứ, Giao-Chỉ quận-vương, thực ấp 3000 hộ, thiệt phong 1000 hộ, kiêm Ngự-sử đại-phu, Thượng-trụ-quốc, đặc biệt ân tứ cho hiệu là Suy-thành Thuận-hóa công thần, lại cho áo cùng đồ bằng vàng và tiền tệ.

Tháng 12, Công-Uẩn khiến sứ mừng lễ tế Phần-âm hậu thổ,lại dâng biểu xin Kinh Đại-Tạng và tám thể ngự-bút. Vua y ban cho Kinh Đại-Tạng cùng Thái-Tông ngự thư, (nghĩa là chữ của vua Thái-Tông viết), một trăm bức, và ban chiếu thư khen ngợi.

Tháng giêng năm thứ 4 (1011), ban tước cho bọn Lương-Nhiệm-Văn, Tiến-phụng-sứ An-nam, và khiến theo dự lễ phần-âm; ân-chế gia phong Lý-Công-Uẩn chức Đồng-Trung-Thư-Môn-hạ Bình-Chương-Sự. 

Tháng 4 năm thứ 5 (1012), Công-Uẩn khiến Lý-Nhân-Mỹ cống các vật vàng bạc, the lụa, sừng tê, ngà voi, được vào tâu đối ở đền Sùng-Chính. Nhân-Mỹ xin phép đi các chùa đền hành hương xem lễ và xem sư-tử của nước Thiên-Trúc tiến cống. Vua y cho và cho người đi theo. Tháng 5, ban tước cho Nhân-Mỹ. Tháng 11, ban chế-sắc gia-phong Công-Uẩn tước Bảo-tiết-thủ-chính công-thần.

Mùng 10 tháng 7, xuống chiếu khiến từ nay các nước Giao-Chỉ, Chiêm-Thành, Đại-Thực, Đồ-Bà và Tam-Phật-Tề, sai sứ tiến cống, các nơi sở tại phải khiến người đón tiếp sứ-thần và các trạm quán, quan ải, phải cung cấp cho đầy đủ. Vì lúc ấy sứ-thần Giao-Chỉ tiến cống, quán trạm dọc đường, cung cấp rất sơ sài, nên mới có lệnh ấy.

Ngày mồng 10 tháng 7, năm thứ 7 (1014), Công-Uẩn dâng thơ nói có quân Mán Hạc-Thác1 30.000 người, từ biên giới bản-châu đến đóng trại, toan dòm ngó bản đạo, tôi đem quân mã cùng giao chiến ở Mao-Lâm, quân giặc cả thua, bắt được chủ-quân họ Dương và người ngựa của man-động. Nay khiến sứ đến cửa quyết cống 60 con ngựa, để dâng cống thắng trận. Vua vời sứ-giả đến đền Sùng-Đức, ban cho đai mão, đồ dùng theo thứ bậc.

Tháng 8, Công-Uẩn tiến cống đồ thổ-sản, cầu xin giáp trụ và Kinh Đại-Tạng. Vua y cho.

Tháng 12, Chuyển-Vận-Sứ Quảng-Tây Cao-Huệ-Liên dâng thơ nói Giao-Châu vào cướp trại Như-Hồng thuộc châu Khâm, bắt người và súc vật rất nhiều. Vua xuống chiếu khiến Huệ-Liên tư điệp-văn cho Giao-Châu và sai sứ theo đòi lại. Nguyên trước đây có dân Mường là Trương-Phố, lánh tội chạy đến đầu ngụ, quan cai trị Khâm-Châu là Mục-Trọng vời vào, đi đến nửa đường lại ngăn không cho vào. Đô-Tuần-Kiểm Tàng-Tự bèn khiến trại Như-Hồng khao đãi trâu rượu. Giao-Châu dò biết được việc ấy, bèn nhân đuổi bắt  dân Mường, đánh cướp luôn trại Như-Hồng. Vua xuống chiếu-thư bảo các châu từ nay không được dụ vời quân mán rợ và khao đãi yến tiệc, đến đỗi sanh sự.

Tháng 3 niên-hiệu Thiên-Hy năm đầu (1017), lễ Thượng-Kim-hiệu xong, phong Công-Uẩn tước Nam-Bình-vương, gia thực-ấy 1000 hộ.

Tháng 5 năm thứ 2 (1018), theo lời thỉnh cầu, cho Công-Uẩn Kinh Đại-Tạng.

Năm thứ 3 (1019), Công-Uẩn khiến em tên Hạc vào cống.

Tháng 12, gia phong Công-Uẩn chức Kiểm-hiệu Thái-uý. Càn-hưng năm đầu, xuống chiếu gia phong Công-Uẩn chức Thái-sư, Sùng-nhơn công-thần. Vì vua Nhân-Tôn mới lên ngôi nên mới có ân chiếu ấy. Công-Uẩn khiến Lý-Khoan-Thái vào mừng, vua thưởng cho rất hậu, rồi khiến về.

Tháng 12, năm Thiên-Thánh thứ 2 (1024), gia phong cho Công-Uẩn thực-ấp, công-thần.

Tháng 3 năm thứ 6 (1028), Tam-ty tâu nói: lúc làm kho vật-liệu, định giá cho người Giao-Châu, tiến nạp thuốc thơm, trị giá tiền 2760 quan. Vua xuống chiếu khiến trả cho 5000 quan, tỏ ý cưu mến người xa.

Tháng 5, Chuyển vận-sứ Quảng-Tây tâu nói: "Công-Uẩn tự tiện khiến con em và rể là bọn Thân-Thừa-Quý đem quân vào bản đạo, cướp bóc dân biên thùy. Chúng tôi nhiều lần cho theo tìm, đều không chịu thả về những người đã bị cướp đi, e lâu dần sẽ trở nên việc đáng lo cho biên cảnh. Nay chúng tôi muốn tăng thêm binh sĩ đã huấn luyện cho Bản-lộ, cùng quân sĩ Bộ tuần-kiểm, hội hợp với tráng đinh các khe động, lấy tiếng đi đòi hỏi các người bị cướp, thừa tiện kiểm tra trừ khử ác đảng. Nên hạ lệnh cho Bản-lộ thiết thực hợp sức đánh giặc, nếu bọn Thừa-Quý ra mặt kháng-cự, cố-ý giữ những người đã cướp đi, không chịu trả lại, tức thì cùng với Ung-Châu, cũng đồng phái số binh như Bản-lộ, hiệp binh tiểu trừ. Về các người bị cướp đi, chúng tôi cho bí mật dò xét trước, để sau nầy quân cướp khỏi chống chế. Nếu lời tâu thỉnh được y, chúng tôi xin lập tức thi hành.

Ngày mồng 3 tháng 3 năm thứ 6 (1028), Công-Uẩn mất, con là Đức-Chính khiến sứ đến báo tang và tự lĩnh chức Lưu-Hậu.

Lý-Đức-Chính (tức Lý-Thái-Tông)

Tên cũ là Khai-Thiên, kế tập ngôi của cha.

Lúc ấy, Chuyển-vận-sứ Quảng-Tây tâu nói: "Em Khai-Thiên là Khai-Quốc triệu-tập binh-mã, thế ắt tranh ngôi, xin khiến các châu Ung, Khâm, Quảng, Huệ, tăng binh phòng thủ để ngừa việc phi thường". Vua xuống chiếu khiến Ty Quảng-Tây tạm phái tuần-kiểm các Châu Quế, Nghi, bọn Trương-Bân đem binh-sĩ bản bộ ra gần biên thuỳ phòng thủ, chờ yên tĩnh, lại về chỗ cũ.

Tháng 4 năm Thiên-Thánh (Tống-Nhơn-Tông) thứ 7 (1029), Lĩnh An-nam Tịnh-Hải-quân lưu hậu-sứ Lý-Đức-Chính tâu nói cha đã mất, tham-tá tướng-sĩ, kỳ-lão toàn trấn yêu cầu tôi quyền lĩnh châu trấn và khiến sứ vào cống. Vua xuống chiếu khiến Chuyển-Vận-sứ Quảng-Tây Chương-Tần qua điếu-tế, tặng Công-Uẩn chức Thị-Trung, truy phong Nam-Việt-Vương, phong quan cho Đức-Chính cũng như Công-Uẩn.

Năm Cảnh-Hựu thứ 3 (1036), Giao-Chỉ đánh các châu Tư-Lăng, cướp ngựa trâu, đốt nhà cửa, rồi bỏ đi. Vua xuống chiếu trách hỏi, khiến bắt kẻ cầm đầu trị tội.

Mùa đông tháng 12, niên hiệu Bửu-Nguyên năm đầu (1038), phong Đức-Chính làm Nam-Bình-Vương.

Mùa thu tháng 9, năm đầu niên hiệu Hoàng-Hựu (1049), mán Lĩnh-Nam là Nồng-Trí-Cao đánh cướp biên thùy, Giao-Chỉ xin đem binh đánh giúp. Ban đầu Dư-Tỉnh cho thế là tiện lợi, đem vấn đề ra bàn ở triều đình. Đến lúc Địch-Thanh làm đại tướng bèn tâu rằng: "Mượn binh ngoài để trừ giặc bên trong, chẳng phải là việc có lợi cho ta. Vì Trí-Cao giày phá hai Châu, không chế ngự nỗi, phải nhờ binh ngoại viện, giả thử binh ấy nhân đó mà dấy loạn, thì ta biết lấy gì mà chế ngự. Vậy xin bãi viện binh của Giao-Chỉ".

Tháng giêng năm thứ 5 (1053), xuống chiếu đình chỉ viện binh của Giao-Chỉ theo lời thỉnh-cầu của Địch-Thanh.

Năm Chí-Hoà thứ 2 (1055), Đức-Chính mất, con là Nhật-Tông nối ngôi.

(Đức-Chính ở ngôi 30 năm thì mất, thuỵ-hiệu Thái-Tông).

Nhật-Tông (tức Lý-Thánh-Tông) lên ngôi.

Nhân-Tông nhà Tống xuống chiếu phong làm Tịnh-Hải-Quân Tiết-Độ-Sứ, Giao-Chỉ quận-vương.

Năm Gia-Hữu thứ 3, (1058), tiến cống một con dị-thú, gọi là lân trắng. Anh-Tông nhà Tống lên ngôi, gia phong Nhật-Tông chức Đồng-Bình-Chương-Sự. Thần-Tông tiến phong tước Nam-Bình quận-vương, gia chức Khai-Phủ-Nghi-Đồng-Tam-Ty.

 Năm Hy-Ninh thứ 4 (1071), Nhật-Tông mất, con là Càn-Đức khiến sứ báo tang với nhà Tống.

Càn-Đức (tức Lý-Nhân-Tông): lên ngôi.

Nhà Tống gia phong làm Giao-Chỉ quận-vương.

Năm Hy-Ninh thứ 8 (1075), mùa đông tháng 11, Giao-Chỉ cướp biên cảnh, đánh hãm mấy châu Khâm, Liêm. Vua Thần-Tông nhà Tống khiến Triệu-Tiết và Nội-Thị Lý-Hiến ra đánh. Nguyên trước quan coi Quế-Châu là Trầm-Khởi, Lưu-Di nối nhau khiến quan vào hải-động, hợp thổ-binh, đặt quân bảo-giáp từng làng, lại khiến họp binh thuyền ở bờ biển, chuẩn bị tập thủy chiến, ra lệnh cấm chỉ các châu huyện không cho mua bán với người Giao-Châu. Người Giao-Châu sinh nghi, bèn cất quân chia đường vào đánh cướp, quân số 8 vạn người, tiến vây Ung-Châu. Tháng 10, hãm Khâm-Châu, đến nay lại hãm Liêm-Châu. Đánh phá thành ấp nào cũng làm tờ bố-cáo niêm yết dọc đường nói rằng: "Quân bộ hạ của ta làm phản chạy về Trung-Quốc, bọn quan lại che giấu, ta đã bố cáo với Quế-Quản, không trả lời, cho nên quân ta đuổi theo, để bắt kẻ làm phản". Lại nói rằng: "Quế-Quản điểm duyệt dân binh các khê động, có ý muốn đánh Giao-Châu". Lại nói rằng: "Trung-Quốc lập phép "thanh-miêu trợ-địch2 làm cho nhân dân đau khổ, ta nay ra quân, muốn cứu dân khỏi khổ". An-Thạch nổi giận, sai Triệu-Tiết làm An-nam Chiêu-Thảo-Sứ điều khiển chín viên tướng tiến đánh, Lý-Hiến, Yên-Đạt làm phó. Nhưng An-Thạch lại tự tay thảo lời chế-dụ. Lời chế có câu rằng: "Thiên thị trợ thuận, ký triệu bố tân chi tường. Nhân tri hối vong, hàm hoài địch khái chí khí". Nghĩa là: "Trời tỏ lòng giúp kẻ thuận lý, đã cho thấy điềm lành. Người biết ăn-năn sự bại vong, đều quyết chí đánh giặc". An-Thạch vẫn không tin thuyết tai dĩ trong thiên  Hồng-Phạm, nhưng nay thấy sao chổi, bèn suy toán cho đây là điềm dữ chiếu về Giao-Chỉ vậy. Tháng giêng, Ung-Châu bị hãm, Đô-Giám Quảng-Tây Trương-Thủ-Tiết đem quân cứu Ung-Châu đánh thua ở ải Côn-Lôn, bị tử trận. Châu bị vây 40 ngày, Tri-Châu Tô-Giam ngày đêm thân hành an ủi quân lính. Giam lấy cung Thần-tý bắn chết người Giao-Châu chẳng biết bao nhiêu mà kể. Người Giao-Châu muốn kéo đi, gặp có người dạy chết bao cát mà lên thành, thành bèn bị hãm. Tô-Giam nói rằng: "Ta giữ nghĩa chẳng chịu chết vào tay giặc". Bèn về doanh, khiến gia nhơn 36 người đều tự tử trước, giấu thây vào hầm, rồi phóng hoả tự đốt mình. Giặc đến tìm Giam không được, giết quan lại, quân dân, hơn 5 vạn người. Còn số người chết ở Châu Khâm, Châu Liêm cộng 10 vạn, thành trì đều bị phá huỷ. Lúc đầu Ung-Châu bị vây đã lâu, lương thực hết ráo, giếng ao đều cạn; đói khát sinh tật bệnh, người chết nằm gối vào nhau, thế mà dân không có ý làm phản. Sau vua phong tặng Tô-Giam chức Phụng-quốc quân tiết-độ, đặt tên Thụy là Trung-Dũng, ban cho một khu nhà lớn ở Kinh-thành, ruộng thượng-hạng 10 khoảnh và cho bảy mươi người thân tộc làm quan, con là Tô-Nguyên làm Các-Môn-Chi-Hậu,... Châu-Sư phó-tướng, cho vào tâu chuyện nơi tiện-điện. Vua vỗ-về an-ủi rất mực và nói rằng: "Ung-Châu, nếu chẳng có cha nhà ngươi ngăn giữ, như hai châu Khâm, Liêm, giặc vừa đến đã bị phá, giặc thừa thắng ruỗi tiến, thì Tượng-Quận, Quế-Lâm đều đã thất-thủ cả rồi. Xưa Trương-Tuần, Hứa-Viễn lấy quân bì-tệ thành Thư-Dương ngăn giữ sông Giang, sông Hoài, so với cha của ngươi còn thua xa vậy". Lúc đầu Vương-An-Thạch cầm chính-quyền, muốn lập chiến-công ở biên-thùy, lúc ấy có kẻ dâng lời bảo rằng: "Giao-Chỉ đã bị Chiêm-Thành đánh bại, binh chúng còn không đầy vạn người, có thể khắc kỳ thâu phục. An-Thạch bèn cho Trầm-Khởi ra coi Quế-Châu. Khởi ở phương nam thường làm quấy, tự chuyên chiêu họa, bị tội phải bãi chức. An-Thạch lại dùng Lưu-Dy ra thay thế. Dy đến, lại sanh sự, rồi thì người Giao-Châu vào đánh cướp. Bèn đày Khởi đi Trình-Châu, Di đi Tuỳ-Châu.

Ngày mồng 2 tháng 9, lấy Quách-Quỳ làm An-nam Chiêu-Thảo-Sứ, Triệu-Tiết làm phó.

Mùa đông, tháng 11, Giao-Chỉ nạp khoản (nạp lễ xin hoà-hảo).

Mùa thu tháng chín, năm đầu hiệu Nguyên-Phong (1078), Giao-Chỉ vào cống. Triết-Tông lên ngôi, gia phong Càn-Đức chức Bình-Chương-Sự, khoảng niên hiệu Nguyên-Hựu (1086-1096), tiến tước Nam-Bình-Vương. Càn-Đức ở triều Thần-Tông hằng xâm phạm biên-cảnh. Sau trải hai triều Triết-Tông và Huy-Tông mới thôi quấy nhiễu.

Năm Tuyên-Hoà thứ 9 3, đời vua Huy-Tông, gia-phong chức Tư-Không. Đầu niên hiệu Tĩnh-Khương (1126), Càn-Đức còn mạnh khỏe. Năm đầu hiệu Thiệu-Hưng (1131), đời vua Cao-Tông, Càn-Đức mất.

(Ở ngôi 59 năm, thụy hiệu là Nhân-Vương).

Dương-Hoán (tức Thần-Tông):

Con của Nhân-Vương, lập lên làm vua. Mùa xuân tháng 3 năm Thiệu-Hưng thứ 2 (1132), phong tước Giao-Chỉ quận-vương. Năm thứ 7, (1137) Dương-Hoán mất.

(Ở ngôi 7 năm, thụy hiệu Thần-Vương).

Thiên-Tộ (tức Anh-Tông).

Con của Thần-Vương, lập lên làm vua.

Mùa xuân tháng 3 năm Thiệu-Hưng thứ 8 (1138), phong tước Giao-Chỉ Quận-vương.

 Mùa thu tháng 7 năm thứ 25 (1155), gia phong Nam-Bình-Vương, cho hai bộ áo và 6 món đồ: hoa ngự-tiên, đai vàng, trắp bạc, đồ bằng vàng thếp bạc hai trăm lượng, vải để may áo mặc 200 cây, yên cương một bộ, ngựa 2 con. Vì Thiên-Tộ tiến cống, cho nên có lệnh ban thưởng như vậy.

 Năm thứ 26 (1156), Thiên-Tộ khiến sứ vào cống. Mùa thu tháng 8, gia phong Kiểm-hiệu Thái-sư.

 Mùa đông tháng 12 năm thứ 30 (1160), dâng thuần tượng. Cao-Tông bảo các quan đại-thần rằng: "Ta chẳng muốn vì con thú lạ mà phải làm nhọc người xa, nên khiến suý-thần ra hiểu dụ: từ nay về sau, chớ đem vật ấy vào cống".

Năm Long-Hưng thứ 2 (1164), đời vua Hiếu-Tông, Giao-Chỉ vào cống, được cho tên là nước An-nam (An-nam xưng quốc bắt đầu từ đó), gia phong Nam-Bình-Vương.

Năm thứ 3 (1165), Thiên-Tộ mất.

 (Ở ngôi 39 năm, xưng Thụy-hiệu Anh-Vương).

Long-Trát (tức Cao-Tôn):

Con của Anh-Vương, lập lên làm vua.

Mùa đông tháng 10 năm Thuần-Hy thứ 6 (1179), Tống-đế phong làm An-nam quốc-vương.

 Ngày Ất-Mão tháng 8 mùa thu năm Thiệu-Hy thứ 5 (1194), đời vua Quang-Tông, gia phong Tư-trung công-thần.

 Ngày Giáp-Tý tháng 12 mùa đông năm ấy, lại gia phong Tế-Mỹ công-thần. Sau oai thanh họ Lý sa sút, giặc trộm nổi dậy khắp nơi, hợp vây La-Thành, Long-Trát chạy qua Quy-Hóa-giang, nương tựa nhà Hà-Vạn. Nhờ ngoại-thích anh em họ Trần hộp hương-binh dẹp loạn, rước vua về cung.

Ngày quí-dậu mùa hạ, tháng 5 năm Gia-Định thứ 5 (1212) đời vua Tống-Ninh-Tông, Long-Trát mất, nhà Tống khiến sứ qua điếu.

(Long-Trát ở ngôi 30 năm, thụy-hiệu Cao-Vương, con là Hạo-Sám nối ngôi).

Hạo-Sám (tức Huệ-Tông)

Lúc ấy tướng giặc châu Quốc-Oai là Nguyễn-Niên, xưng hiệu Kim-Thiên Đại-vương, cùng với người Hồng-Lộ là Đoàn-Ma-Lôi nổi dậy làm phản. Trần-Thừa cùng em là Kiến-Quốc đánh không yên được, bèn giảng hoà với Ma-Lôi, hợp sức đánh Niên, bị Niên đánh bại. Sau Niên chết, loạn mới yên, Thừa có công đánh giặc, xin cho con kết hôn với công-chúa Chiêu-Thánh. Vương bằng lòng. Hạo-Sám không có con trai, lập Chiêu-Thánh nối ngôi, lui ở chùa Chơn-Giáo học Phật rồi mất.

(Ở ngôi 16 năm, thụy-hiệu Huệ-Vương).

Chiêu-Thánh:

Lên ngôi được một năm, năm Canh-Dần (1230) trao quốc-chính cho chồng là Trần-Nhật-Cảnh. Tất cả tôn-thất nhà Lý và bình-dân họ Lý đều khiến đổi ra họ Nguyễn để dứt lòng dân trông nhớ. (Lúc nhà Lý truyền ngôi được ba đời, Vương-Võ-Xứng nhà Tống làm sách Đông-đô-sự-lược Giao-Chỉ phụ-lục có nói rằng: "Lê-Hoàn cướp họ Đinh, truyền ba đời thì nước mất. Công-Uẩn cướp họ Lê đã mấy đời còn đi may hay sao?". Nay họ Lý truyền ngôi tám đời hơn 220 năm. Huệ-Vương không con, truyền nước cho rể. Đến nay họ Lý vẫn được tế-tự luôn luôn, kể sự may thì may biết bao nhiêu?).

An-Nam Chí-Lược Quyển Đệ Thập Nhị Chung

___________________________________________________

Chú Thích:

1- Minh Sử: Nam-Chiếu cũng có tên là Hạc-Thác.

2- Tân pháp của Vương An-Thạch cho dân vay lúa non.

3- Theo "Thế Giới niên biểu" thì niên hiệu Tuyên-Hoà chỉ có 7 năm (1119-1125).