Bạn sẽ không bao giờ có thể đoán được chuyện gì sẽ trở thành tít báo. Phần lớn các bằng chứng xung quanh hiện trường tội ác ở Takabanobaba đều liên quan tới một bị cáo duy nhất: Ogawa, hay còn gọi là Quái vật Saitama. Tuy nhiên vì một hoặc nhiều lý do (chắc bạn có thể thông cảm cho sự mất bình tĩnh của các nhà báo khi đưa tin về vụ này) mà chi tiết nói trên không bao giờ được công bố rộng rãi trên các tờ báo. Mụ ta bị điệu tới cảnh sát để thẩm vấn nhưng được thả ra một cách nhanh chóng và khó hiểu, và cho tới tận ngày nay vẫn sống nhởn nhơ đâu đó ở Tokyo, đôi khi xuất hiện thấp thoáng sau lớp kính mờ của một chiếc limousine đang phóng nhanh hay bước vào một tòa nhà nào đó vào lúc nửa đêm. Sẽ sai lầm nếu coi thường những mối liên hệ giữa yakuza và cảnh sát Nhật Bản.
Trong khi đó, vụ sát hại Jason Wainwright, tên đầy đủ của Jason mà sau này tôi mới biết, thì liên tục xuất hiện trên các bản tin trong nhiều tháng. Bởi vì anh ta có học thức và là một người phương Tây ưa nhìn sống tại Nhật. Tin này gây kích động lớn đối với người dân tại bang Massachusetts nơi mẹ anh ta đang sống. Người ta buộc tội cảnh sát bất lực, tham nhũng, câu kết với xã hội đen nhưng tất cả đều không dẫn tới đâu, chứ chưa nói tới việc đụng chạm đến Fuyuki và Quái vật Saitama. Những nhóm luật sư gia đình ăn mặc lịch thiệp lần lượt hạ cánh xuống Tokyo trên những chiếc phi cơ của Hàng không Thái, nhưng bất chấp các mối quan hệ của họ cũng như số tiền mà họ bỏ ra, không ai chịu nói gì về Jason và quãng thời gian trước khi anh ta bị giết. Kể cả người phụ nữ bí ẩn gọi điện cho mẹ anh vào một ngày trước khi anh ta bị giết cũng biệt vô âm tín.
Nhưng có lẽ, điều tác động tới công chúng hơn cả là sự ghê rợn của hiện trường tội ác. Là cái cách mụ Y Tá trang trí chiếc đèn lồng đá. Là hình ảnh một người đàn ông trong gia đình Wainwright vừa chân ướt chân ráo bay từ California tới, đứng gõ cửa ngôi nhà, tay xách một chiếc túi du lịch hiệu Samsonite, một chiếc bàn chải đánh răng của hãng hàng không và hóa đơn taxi thò ra ngoài túi, tuyết rơi lả tả trên bộ quần áo vest. Là ý nghĩ về cái mà anh ta chứng kiến khi không thấy ai ra mở cửa nên quyết định đi vòng ra phía bên cạnh ngôi nhà, nơi hai cánh cổng han gỉ dẫn vào khu vườn mở toang.
Tôi chỉ mới rời khỏi ngôi nhà được khoảng nửa tiếng đồng hồ. Tôi lẻn ra bên ngoài, lấy chiếc túi du lịch vứt ở trong ngõ rồi tới một nhà tắm công cộng ở phố Waseda. Khi người đàn ông của nhà Wainwright nhận ra cái dây leo hình rắn cuốn quanh chiếc đèn đá, khi mặt anh ta tái nhợt không còn giọt máu, khi anh ta khuỵu xuống và cuống cuồng tìm một chiếc khăn tay thì tôi chỉ ở cách đó khoảng trăm mét, ngồi xổm trên một chiếc ghế nhựa con màu xanh trước một chiếc vòi hoa sen cao ngang gối, run bần bật, hai đầu gối va vào nhau lập cập. Mười phút sau, khi anh ta lảo đảo bước ra ngoài phố giơ tay vẫy taxi thì tôi đã co rúm vào một góc trên một chiếc taxi khác tới Hongo, tóc ướt sũng, chiếc áo len cuốn chặt quanh người.
Tôi nhìn chằm chằm ra bên ngoài cửa xe taxi, dán mắt vào những đống tuyết chất cao, vào thứ ánh sáng kỳ lạ phản chiếu trên gương mặt những người phụ nữ đang thận trọng bước đi trên hè phố dưới những chiếc ô màu tùng lam. Tôi chợt cảm thấy rất rõ sự cô đơn của thành phố này, hàng tỷ linh hồn cô đơn trong những phòng ngủ, trên những khung cửa sổ cao vời vợi. Tôi nghĩ tới những thứ nằm ở phía dưới thành phố, những đường cáp điện, ống nước, ống sưởi, những ngọn lửa, tàu điện ngầm, dòng dung nham trong lòng thành phố, tiếng động bí ẩn của các đoàn tàu và những cơn động đất. Tôi nghĩ tới linh hồn của những người đã chết trong chiến tranh đứng cụm lại với nhau. Sunshine Building, tòa nhà cao nhất và được nhiều người tới thăm nhất Tokyo mọc lên đúng tại nơi thủ tướng Nhật và các tội phạm chiến tranh bị hành quyết. Tôi có một cảm giác kỳ lạ khi không ai biết được chuyện gì vừa xảy ra với tôi. Không có ai tới tìm tôi và nói: “Cô đã ở đâu suốt đêm qua? Trong túi cô có gì vậy? Tại sao cô không tới cảnh sát?” Tôi nhìn vào đôi mắt của người lái taxi trong gương chiếu hậu và tin chắc rằng ông ta đang quan sát tôi.
Tôi tới trường đại học Todai lúc chín giờ hơn. Cơn bão tuyết lại nổi lên, tuyết đậu khắp nơi, trên những chiếc xe ôtô đang đỗ và trên những ngọn đèn đường. Chiếc cổng lớn sơn đỏ theo kiến trúc Akamon của Todai giờ chỉ còn là một vệt đỏ chập chờn trong tuyết trắng, một ngọn lửa nhỏ leo lét trong cơn bão tuyết. Người bảo vệ mặc áo mưa màu đen mở cổng cho chúng tôi, và chiếc taxi chạy dọc theo đường chính cho đến khi ánh sáng bắt đầu xuất hiện trên nền trắng, và cuối cùng Viện Khoa học Xã hội hiện ra trước mắt, được chiếu sáng và trang trí như một tòa lâu đài trong truyện cổ tích.
Tôi bảo lái xe dừng lại. Tôi kéo cổ áo khoác lên và bước ra ngoài, ngước nhìn tòa nhà một lúc lâu. Đã bốn tháng trôi qua kể từ lần đầu tiên tôi tới đây. Chỉ bốn tháng thôi mà tôi đã vỡ ra bao nhiêu điều. Tôi đã biết mọi chuyện, tôi đã biết cả thế giới này.
Dần dần tôi bắt đầu nhận ra một bóng người đang đứng cách tôi không bao xa, nhỏ bé như một đứa trẻ, hoàn toàn bất động trong màn tuyết kỳ ảo và chập chờn như một bóng ma. Tôi nhìn bóng dáng đó. Sử Trùng Minh. Cứ như thể những ý nghĩ của tôi đã triệu ông tới đây, nhưng sự nhiệt tình nửa vời của chúng khiến Sử Trùng Minh chỉ hiện ra như một cái bóng chứ không phải một con người bằng xương bằng thịt.
“Sử Trùng Minh,” tôi gọi khẽ, và ông quay lại nhìn tôi mỉm cười. Ông bước về phía tôi, dần dần hiện ra thật hơn trong màn tuyết trắng, như một bóng ma đang tiến hóa làm người. Ông mặc áo khoác và trên đầu là chiếc mũ nhựa kiểu dân chài quen thuộc.
“Tôi đang đợi cô,” ông nói. Da ông trắng bệch, nhợt nhạt và không được khỏe mạnh, trên mặt và trên cổ ông xuất hiện nhiều đốm chàm nhỏ như đồng xu. Bên trong, chiếc áo vét của ông cài kín cổ.
“Sao ông biết?”
Ông giơ tay ra hiệu cho tôi im lặng. “Tôi không biết. Giờ thì phải đi vào nhà và sưởi ấm đã. Đứng lâu dưới trời tuyết không tốt cho sức khỏe.”
Tôi bước theo ông lên cầu thang. Bên trong, tòa nhà ấm áp nhờ hệ thống sưởi nhiệt độ cao. Chúng tôi để lại một vệt tuyết tan trên sàn nhà. Ông đóng cửa phòng làm việc lại rồi đeo kính vào và bắt tay dọn dẹp căn phòng. Ông bật lò sưởi và pha cho tôi một tách trà nghi ngút khói. “Mắt của cô,” ông nói khi tôi đặt chiếc túi xuống và quỳ xuống sàn nhà, vô tình ngồi đúng theo tư thế seiza của trà đạo như thể nó làm tôi ấm hơn, giữ lấy tách trà bằng cả hai tay. “Cô không khỏe à?”
“Tôi... Tôi vẫn còn sống.” Tôi không thể nào khiến hai hàm răng ngừng va vào nhau lập cập. Tôi để hơi nóng của tách trà phả vào mặt. Mùi thơm ngầy ngậy của trà chiết xuất từ gạo. Một thứ mùi rất Nhật Bản. Tôi ngồi đó một lúc lâu cho đến khi người bớt run rẩy rồi ngước mắt lên nhìn ông và nói: “Tôi đã tìm ra.”
Sử Trùng Minh khựng lại, chiếc thìa bất động phía trên ấm trà. “Cô làm ơn nhắc lại được không?”
“Tôi đã tìm ra. Tôi đã biết.”
Ông thả chiếc thìa rơi vào trong ấm trà. Ông tháo kính ra và ngồi vào bàn làm việc. “Đúng vậy, tôi cũng nghĩ là cô đã tìm ra,” ông nói một cách nặng nhọc.
“Ông nói đúng. Tất cả những gì ông bảo tôi đều đúng. Chắc ông đã biết tất cả ngay từ đầu. Nhưng tôi thì không. Đó không hề là thứ tôi nghĩ. Không hề.”
“Không?”
“Không. Đây là một thứ mà Fuyuki đã có từ rất lâu rồi. Có lẽ từ nhiều năm trước.” Giọng tôi ngày càng nhỏ đi. “Đó là một đứa bé. Là xác ướp của một em bé.”
Sử Trùng Minh im lặng. Ông quay đầu sang một bên và trong giây lát miệng ông mấp máy như thể ông đang niệm thần chú. Cuối cùng ông ho lên một tiếng, đặt kính lên một chiếc hộp màu xanh cũ kỹ. “Đúng vậy,” cuối cùng ông lên tiếng. “Đúng vậy, tôi đã biết. Đó là con gái tôi.”