史 Nam Kinh, ngày 20 tháng Mười hai năm 1937
Tôi viết những dòng này dưới ánh nến. Tay phải tôi bị đau, một vết bỏng nhẹ chạy chéo trên lòng bàn tay. Tôi đang ngồi xếp chân vòng tròn trên giường, kéo rèm kín mít để không tia sáng nào, tuyệt đối không một tia sáng nào, có thể lọt ra ngoài ngõ. Thu Kim ngồi đối diện với tôi, vẫn còn kinh sợ vì những gì xảy ra tối nay. Cô ấy túm chặt lấy tấm rèm, và liếc nhìn về phía ngọn nến sau lưng. Tôi biết là cô ấy muốn tôi tắt chúng đi nhưng nhất định đêm nay tôi phải viết. Tôi có một linh cảm mạnh mẽ rằng bất cứ câu chuyện nào tôi ghi lại ngày hôm nay, dù nhỏ bé và vô vị tới đâu, vào một ngày nào đó sẽ trở nên hết sức quan trọng. Mỗi tiếng nói đều quan trọng, vì không một ai thể biết được hết hay xác minh được hết những gì đã xảy ra ở Nam Kinh. Lịch sử sẽ thất bại, người ta sẽ không bao giờ nói đến việc Nam Kinh bị xâm lược.
Tất cả những gì tôi vốn tin tưởng đã biến mất. Trong tim tôi dường như có một lỗ hổng, trần trụi và thối rữa như thi thể của đứa trẻ bên ngoài nhà máy, và tất cả những gì tôi có thể nghĩ được là chúng tôi sẽ phải trả giá bao nhiêu cho cuộc chiến này? Nó có nghĩa là sự kết thúc của một đất nước Trung Hoa mà hàng bao năm nay tôi chưa hề nghĩ tới. Đó là cái chết của tất cả những tín ngưỡng, là sự kết thúc của những thổ ngữ, những ngôi đền, những chiếc bánh trung thu và thú săn chim cốc dưới chân núi. Là cái chết của những chiếc cầu duyên dáng bắc qua hồ sen, những viên đá cuội vàng óng ánh phản chiếu trên mặt nước vào những đêm yên tĩnh. Thu Kim và tôi sẽ là những mắt xích cuối cùng. Chúng tôi đứng trên một mỏm đá, níu giữ một Trung Hoa đang rơi vào cõi hư vô. Đôi khi tôi giật thót mình như vừa choàng tỉnh sau một cơn ác mộng mà trong đó tôi cũng đang rớt xuống cùng với tất cả những gì thuộc về nước Trung Hoa đó, những cánh đồng, núi non, sa mạc, những ngôi mộ cổ, những lễ Thanh Minh, lễ hội cầu mùa vụ, những ngôi chùa và những con cá heo trắng trên sông Dương Tử, và cả điện Thiên Đường.
Chưa đầy mười phút sau khi ông Lưu đi khỏi, trước khi tôi có cơ hội nói cho Thu Kim về kế hoạch bỏ trốn thì tôi nghe thấy tiếng động cơ xe máy gào rú đâu đó từ một góc phố bên mé phải ngôi nhà.
Tôi ra ngoài hành lang vớ lấy một thanh sắt rồi đứng sau bức tường chắn ma, chân dang rộng, thanh sắt giơ lên quá đầu. Thu Kim bước ra khỏi bếp, đến đứng bên cạnh tôi, không nói năng gì chỉ nhìn tôi vẻ dò xét. Chúng tôi đứng yên như thế, cánh tay run rẩy của tôi giơ cao, đôi mắt Thu Kim dán chặt vào mắt tôi, bên ngoài tiếng động cơ xe máy tiếp tục gào rú ầm ĩ. Âm thanh ngày càng gần hơn, như thể chúng đang vang lên từ trong đầu chúng tôi. Thế rồi khi tôi tưởng chiếc xe máy sẽ đâm xuyên qua cổng và lao thẳng vào trong nhà thì đột nhiên tôi nghe thấy tiếng máy kêu lách tách và tiếng động cơ trở nên nhỏ dần.
Hai chúng tôi nhìn nhau chằm chằm. Tiếng xe máy xa dần về phía Nam, rồi mất hút. Sự yên tĩnh lại bao trùm lấy chúng tôi. Tiếng động duy nhất lúc này chính là những tiếng vang từ hơi thở dồn dập và hụt hẫng của hai chúng tôi.
“Cái gì vậy? Đó là cái gì?” Thu Kim hỏi khẽ.
“Suỵt. Đứng yên đây.” Tôi ra hiệu cho Thu Kim đứng nguyên tại chỗ.
Tôi đi vòng qua bức tường chắn ma, gí tai vào cánh cửa trước nghe ngóng. Tiếng động cơ đã tắt nhưng tôi có thể nghe thấy những tiếng động khác vẳng lại từ phía đằng xa, rất nhỏ nhưng không thể nhầm lẫn được: tiếng củi cháy lốp bốp. Chắc là tên diêm vương lại đang tiến hành những trò ma quỷ của hắn. Đâu đó, trong các dãy phố gần đây, có cái gì đó đang cháy.
“Đợi ở đấy. Đừng có lại gần cổng.” Tôi đi lên gác, trèo hai bậc một lúc, thanh sắt vẫn trong tay. Tôi gỡ một tấm ván mỏng ở cánh cửa phòng ngoài và hé mắt nhìn xuống con hẻm. Bên trên những ngôi nhà đối diện, bầu trời đỏ lựng với những cột khói bốc cao ngùn ngụt tới hơn mười mét. Những mảnh tro nhỏ xíu bay lả tả, lốm đốm, vằn vện tựa như những con bướm ma. Tên diêm vương chắc hẳn đang ở rất gần ngôi nhà của chúng tôi.
“Cái gì vậy?” Thu Kim hỏi. Cô ấy đã leo lên gác và đứng cạnh tôi, mắt mở to. “Chuyện gì đã xảy ra vậy?”
“Tôi không biết,” tôi nói khẽ, mắt vẫn dán vào những bông tuyết đang rơi bên ngoài. Xen lẫn với tuyết là những dằm gỗ nhỏ đen bóng, và từ những cột khói bốc ra một thứ mùi quen thuộc. Mùi thịt nướng. Thứ mùi vẫn ám ảnh tôi bấy lâu nay. Trước đó chúng tôi đã ăn mì, nhưng không có chút protein nào trong đó để cân bằng âm dương với tinh bột. Tôi vẫn thèm thịt tới phát điên lên. Tôi hít trọn thứ khói kia vào trong phổi và chợt ứa nước miếng. Lần này, cái mùi ấy trở nên gay gắt hơn bao giờ hết, nó luồn vào mọi ngõ ngách trong ngôi nhà, ám vào mọi thứ và át cả mùi gỗ cháy.
“Tôi không hiểu,” tôi lẩm bẩm. “Không thể nào.”
“Cái gì không thể?”
“Ai đó đang nấu nướng.” Tôi quay sang nhìn Thu Kim. “Sao lại có thể thế được nhỉ? Hàng xóm xung quanh không còn ai cả, ngay cả gia đình ông Lưu cũng chẳng có thịt mà nấu nướng...” Những chữ tiếp theo chợt chết cứng trong miệng tôi. Cột khói bốc lên đúng từ phía ngõ nhà ông Lưu. Tôi đứng bất động, nhìn chằm chằm về phía đó như một người trong cơn mộng du, thậm chí không dám thở mạnh, một mối nghi ngờ khủng khiếp không thể nói thành lời đang dần thít chặt lấy cổ họng tôi.