Nhân lúc lối ra còn chưa bị bít kín
Ăn xong thịt nướng, bốn người chuyển sang quán bar có karaoke, uống sạch một chai whiskey. Khi bữa tiệc nhỏ nhưng tương đối tưng bừng này đi đến hồi kết thì đã gần mười giờ tối. Ra khỏi quán rượu, Tengo đưa cô y tá trẻ Adachi về nhà. Trạm xe buýt để đến ga tàu hỏa ngay gần đấy, song hai cô kia giả bộ như chẳng thắc mắc gì về cách sắp xếp này. Tengo cùng Adachi men theo đường cái không người, sánh vai đi bộ khoảng chừng mười lăm phút.
“Tengo, Tengo, Tengo,” cô ngân lên như hát, “tên hay quá. Tengo, rất là thuận miệng.”
Y tá Adachi đã uống khá nhiều rượu nhưng hai má cô bình thường vốn đã ửng hồng nên chỉ nhìn sắc mặt thì khó mà đoán được thật ra cô say đến mức nào. Cô nói năng vẫn rành rọt, bước đi vững vàng, không có vẻ gì là đang say, tuy rằng mỗi người có một kiểu say khác nhau.
“Tôi thì cứ cảm thấy cái tên này kỳ cục thế nào ấy,” Tengo nói.
“Chẳng hề kỳ cục chút nào. Tengo, rất dễ nghe dễ nhớ. Thật là một cái tên tuyệt vời.”
“À mà nói ra mới nhớ, tôi còn chưa biết tên cô đâu. Chỉ nghe mọi người đều gọi cô là Ku.”
“Đấy là tên gọi thân mật. Tên thật của em là Adachi Kumi. Một cái tên chẳng lấy gì làm nổi bật, đúng không?”
“Adachi Kumi,” Tengo đọc lên thành tiếng, “hay lắm. Đơn giản ngắn gọn, không rườm rà.”
“Cám ơn anh,” Adachi Kumi nói. “Nghe anh nói thế, sao em cứ có cảm giác mình biến thành Honda Civic hay gì đó tương tự ấy.”
“Tôi nói thế là đang khen cô mà.”
“Em biết. Vả lại còn tiết kiệm xăng nữa,” cô nói, sau đó nắm tay Tengo, “em nắm tay anh được không? Đi bên nhau thế này hình như vui hơn, cũng yên tâm hơn nữa.”
“Đương nhiên,” Tengo trả lời. Được Adachi Kumi nắm tay, anh chợt nhớ đến Aomame và phòng học hồi cấp một. Cảm giác không giống nhau, song cũng có một điểm chung nào đó.
“Hình như em say rồi,” Adachi Kumi nói.
“Thật không?”
“Thật mà.”
Tengo lại đưa mắt nhìn gương mặt nghiêng của cô y tá. “Trông không có vẻ gì là say cả.”
“Không thể hiện ra ngoài mà, thể chất của em là thế đấy. Có điều em thấy mình say ghê lắm rồi.”
“Đúng thôi, cô uống nhiều quá mà.”
“Ưm, đúng là đã uống rất nhiều. Lâu lắm rồi em không uống nhiều thế.”
“Thỉnh thoảng cũng cần như vậy,” Tengo lặp lại lời của y tá Tamura.
“Tất nhiên rồi,” Adachi Kumi nói, gật mạnh đầu, “thỉnh thoảng làm một trận thế này cũng là chuyện cần thiết. Ăn thỏa thuê một bữa ngon, uống rượu, hát hò, nói chuyện trên trời dưới biển. Nhưng mà anh Tengo này, chắc là anh không thế đâu nhỉ? Hoàn toàn buông lỏng mình như thế này ấy. Trong anh hình như lúc nào cũng rất bình ổn và trầm tĩnh.”
Nghe cô nói, Tengo thoáng nghĩ về điều đó. Khoảng thời gian gần đây mình có bao giờ đi xả hơi thế này không nhỉ? Không nhớ nổi. Nếu đã không nhớ nổi thì chắc là không có rồi. Bản thân là cái quan niệm hoàn toàn buông thả mình ấy có lẽ chính là thứ mà mình đang thiếu.
“Có lẽ là không.” Tengo thừa nhận.
“Mỗi người mỗi khác mà.”
“Mỗi người có phương thức tư duy và phương thức cảm nhận khác nhau.”
“Giống kiểu mỗi người có một kiểu say rượu khác nhau ấy,” cô y tá trẻ nói, bật cười khúc khích, “nhưng chuyện này là cần thiết đấy, kể cả với anh Tengo.”
“Có lẽ vậy,” Tengo nói.
Trong một thoáng hai người không nói một lời, tay nắm tay đi trên con phố về đêm. Sự thay đổi trong cách nói năng của cô làm Tengo hơi lo lắng. Lúc mặc đồng phục y tá, cô nói năng rất nhã nhặn nhưng vừa thay thường phục vào, hoặc có lẽ do tác dụng của men rượu, cách nói chuyện của cô liền trở nên không còn chút dè dặt nào nữa. Giọng điệu buông thả ấy khiến Tengo nhớ đến một người nào đó. Giọng cô nghe giống một người nào đó. Một người mà anh vừa gặp cách đây không lâu.
“Anh Tengo à, anh hút cần sa bao giờ chưa?”
“Cần sa?”
“Cây gai dầu ấy.”
Tengo hút một luồng không khí đêm vào phổi, sau đó thở hắt ra. “Chưa, tôi chưa hút bao giờ.”
“Vậy anh có muốn thử không?” Adachi Kumi nói, “chúng ta đi hút đi. Ở nhà em có đấy.”
“Cô có cần sa?”
“Ưm, sao vậy? Anh không ngờ?”
“Đúng là không ngờ thật.” Tengo nói, giọng hờ hững. Một cô y tá có đôi má hồng hồng trông rất lành mạnh sống ở thị trấn nhỏ ven biển Bosco không ngờ lại tàng trữ cần sa trong nhà, vả lại còn mời anh cùng hút!
“Cô kiếm thứ đó ở đâu ra vậy?” Tengo hỏi.
“Quà sinh nhật một người bạn cấp ba tặng em hồi tháng trước. Nghe bảo là quà cô ấy mang về sau chuyến đi chơi ở Ấn Độ,” Adachi Kumi nói, vung mạnh cánh tay đang nắm tay Tengo, tựa như đang chơi xích đu.
“Mang lậu cần sa mà bị phát hiện là trọng tội đấy. Cảnh sát Nhật kiểm tra thứ này gắt gao lắm. Lũ chó nghiệp vụ chuyên phát hiện ma túy lượn lờ khắp sân bay, hết ngửi chỗ này lại ngửi chỗ kia.”
“Con bé ấy là loại người không câu nệ tiểu tiết,” Adachi Kumi nói, “nhưng bằng cách nào đó, rốt cuộc nó cũng qua được cửa hải quan. Chậc, thử với em nhé. Độ tinh khiết cao, hiệu quả tốt lắm. Em kiểm tra rồi, xét trên góc độ y học gần như không có gì nguy hiểm cả. Tuy không thể nói chắc chắn không bị nghiện, nhưng so với mấy thứ kiểu như thuốc lá, rượu, cocain thì yếu hơn nhiều. Các nhà làm luật bảo sẽ nghiện, nhưng nói thế chỉ là khiên cưỡng thôi. Nói thế thì máy pachinko còn nguy hiểm hơn nhiều. Sáng hôm sau không bị nhức đầu, mà còn có thể khiến anh dịu đi cảm giác căng thẳng nữa.”
“Cô thử rồi à?”
“Tất nhiên. Vui lắm.”
“Vui?” Tengo nói.
“Anh cứ thử là sẽ hiểu,” Adachi Kumi nói, bật cười khúc khích, “Chậc, anh biết không, khi nữ hoàng Anh Victoria bị đau bụng kinh dữ quá, bà ấy không uống thuốc giảm đau mà cứ hút cần sa thôi. Mà là do bác sĩ hoàng gia kê đơn cho bà ấy đấy nhé.”
“Thật không?”
“Không phải em nói bừa đâu. Trong sách viết thế mà.”
Sách gì vậy? Tengo suýt nữa đã hỏi, nhưng sợ phiền phức nên lại thôi. Anh không muốn lằng nhằng với chuyện nữ hoàng Victoria bị đau bụng kinh thêm nữa.
“Sau sinh nhật tháng trước cô được bao nhiêu tuổi rồi?” Tengo đổi chủ đề câu chuyện, hỏi Adachi Kumi.
“Hai mươi hai. Đã là người lớn rồi.”
“Tất nhiên,” Tengo nói. “Anh đã ba mươi, nhưng chưa từng cảm thấy mình là người lớn, mà chẳng qua chỉ sống trên thế giới này hơn ba chục năm mà thôi.”
“Chị gái em hôm nay ngủ ở chỗ bạn trai chị ấy, nhà chỉ có mình em thôi. Vì vậy anh khỏi cần khách khí, đến nhà em đi. Ngày mai em lại không có ca trực, thời gian thoải mái.”
Tengo không biết phải trả lời thế nào. Anh thích cô y tá trẻ này. Xem chừng cô cũng thích anh. Vả lại, lúc này cô đang mời anh đến nhà mình. Tengo ngửa mặt nhìn lên trời. Nhưng cả bầu trời bị che phủ trong màn mây dày xám xịt, không thấy mặt trăng đâu.
“Lần trước em hút cần sa với cô bạn, đó là lần đầu tiên em hút cần sa, cảm giác thân thể hình như thình lình bay lên không trung,” Adachi Kumi nói,” Cũng không cao quá, chắc khoảng năm sáu xăngtimét gì đó thôi. Cứ vậy, trôi bồng bềnh ở độ cao ấy, cảm giác thích lắm. Kiểu như là vừa đúng độ ấy.”
“Độ cao như thế, có rơi xuống cũng không đến nỗi đau.”
“Ưm, độ cao ấy vừa thích hợp, có thể yên tâm. Có cảm giác như mình được bảo vệ, như thể được nhộng không khí bao bọc xung quanh mình ấy. Em chính là tử thế, hoàn toàn được bọc kín bên trong nhộng không khí, bên ngoài còn lờ mờ trông thấy mẫu thế nữa cơ.”
“Tử thể?” Tengo nói. Giọng anh đột nhiên đanh lại hẳn.”Mẫu thể?”
Cô y tá trẻ đang ngâm nga bài gì đó trong miệng, lắc mạnh cánh tay đang nắm tay Tengo, bước đi trên con đường không một bóng người. Chiều cao của hai người chênh lệch khá nhiều, nhưng Adachi Kumi dường như không hề để tâm chuyện đó. Thỉnh thoảng có chiếc ô tô chạy lướt qua bên cạnh.
“Mẫu thể và tử thể. Chúng xuất hiện trong một cuốn sách tên là Nhộng không khí. Anh không biết à?”cô hỏi.
“Tôi biết.”
“Anh đọc quyển đó chưa?”
Tengo lẳng lặng gật đầu.
“Hay quá đi mất. Thế thì dễ nói chuyện rồi. Em ấy à, cực cực thích quyển sách đó nhé. Từ khi mua về hồi mùa hè, em đọc đi đọc lại ba lần rồi. Một quyển sách mà lại khiến em đọc những ba lần, chuyện này là có một không hai đấy. Sau đó ấy à, lần đầu tiên hút cần sa em liền có cảm giác sao lại giống như chui vào trong nhộng không khí thế. Mình như được thứ gì đó bao bọc lấy, đang chờ để được sinh ra, còn mẫu thể thì ở bên cạnh bào vệ.”
“Cô có thể nhìn thấy mẫu thể?” Tengo hỏi.
“Ưm, có. Từ bên trong nhộng không khí có thể thấy được bên ngoài. Hình như nó được thiết kế như vậy. Nhưng mặt mũi mẫu thể thì em nhìn không rõ, chỉ có thể nhận ra những đường nét mơ hồ. Nhưng em hiểu đó chính là mẫu thế của mình. Trong lòng em hiểu rất rõ, người này chính là mẫu thể của mình.”
“Tóm lại là nhộng không khí giống kiểu như tử cung vậy?”
“Chắc có thể nói như vậy. Em cũng không nhớ lúc mình ở trong tử cung thì cảm giác thế nào nên không thể so sánh chính xác được.” Adachi Kumi nói, rồi lại bật cười khúc khích.
Đây là loại căn hộ tầng giá thành xây dựng thấp thường thấy ở ngoại ô các phố thị tỉnh lẻ. Thoạt trông dường như mới xây, nhưng đã xuất hiện nhiều vết tích cho thấy lâu năm không được bảo trì. Cầu thang bên ngoài kêu cót két, cửa thì mở ra đóng vào rất mệt. Hễ có xe tải hạng nặng chạy qua con đường trước mặt, cửa số kính liền rung lên bần bật. Vách tường trông rất mỏng manh, nếu có người tập ghi ta bass trong căn hộ của mình thì e cả khu nhà sẽ biến thành một cái hộp âm khổng lồ.
Tengo chẳng hứng thú gì với cần sa. Anh có một đầu óc tỉnh táo, nhưng anh đang sống trong thế giới có hai mặt trăng. Cần gì phải làm cho thế giới ấy thêm vặn vọ nữa chứ? Huống hồ, anh không thấy có hứng thú tình dục với Adachi Kumi. Đúng là anh có thiện cảm với cô y tá hai mươi ba tuổi này, nhưng thiện cảm và dục vọng xác thịt là hai thứ khác nhau. Ít nhất với Tengo thì như vậy. Cho nên, giá cô không nhắc đến mẫu thể và tử thể thì hẳn anh đã chọn bừa cớ gì đó để từ chối lời mời đến nhà cô rồi. Chắc giữa đường anh đã lên xe buýt, không có xe buýt thì gọi taxi đi thẳng về lữ quán. Xét cho cùng, đây dẫu sao cũng là thành phố mèo, tốt nhất hãy tránh tiếp cận những nơi nguy hiềm. Nhưng khi nghe thấy hai từ mẫu thể và tử thể, Tengo không thể từ chối cô được nữa. Biết đâu Adachi Kumi có thể cho anh một ám gợi về chuyện tại sao cô thiếu nữ Aomame lại nằm trong nhộng không khí xuất hiện ở gian phòng bệnh đó.
Đây là một căn hộ điển hình dành cho hai chị em chừng hai mấy tuổi sống chung. Có hai phòng ngủ nhỏ, phòng ăn và bếp là một, nối liền với phòng khách nhỏ xinh. Đồ đạc trong nhà đều chấp chấp vá vá, không theo một sở thích và cá tính thống nhất. Trên chiếc bàn phủ một lớp ván trang trí trong phòng ăn có đặt một chiếc đèn Tiffany hàng nhái rất không hợp chỗ. Rèm cửa sổ chấm hoa nhỏ, kéo sang hai bên có thể nhìn ra ruộng đồng bên ngoài, không biết trồng thứ gì, xa xa là một đám dày, đen tựa như là rừng cây gỗ tạp. Tầm nhìn thoáng rộng, không bị che chắn, nhưng phong cảnh nhìn từ đây chẳng làm người ta ấm lòng cho lắm.
Adachi Kumi mời Tengo ngồi xuống chiếc ghế dành cho hai người trong phòng khách. Đó là một chiếc ghế dành cho tình nhân màu đỏ rực rỡ, đối diện với tivi. Sau đó, cô lấy bia Sapporo trong tủ lạnh ra, đặt trước mặt anh cùng với một cái cốc.
“Em đi thay bộ đồ thoải mái hơn, anh đợi một lát nhé. Em ra ngay đây.”
Nhưng mãi cô không quay lại. Bên kia đoạn hành lang hẹp, phía sau cánh cửa chốc chốc lại vẳng ra tiếng động. Tiếng ngăn kéo tủ bị kẹp rít mở ra đóng vào, cả tiếng vật nặng đổ ra đất. Mỗi lần, Tengo đều không kìm được mà ngoảnh đầu lại. Không khéo đúng là cô say hơn vẻ bề ngoài rất nhiều. Tiếng chương trình ti vi ở nhà bên vọng sang qua bức tường mỏng. Anh không nghe rõ người ta đang nói gì, hình như là một tiết mục hài hước, cứ chừng mười đến mười lăm phút lại nghe tiếng khán giả cười. Tengo lấy làm hối hận vì đã không kiên quyết từ chối lời mời của cô. Đồng thời, ở một ngóc ngách nào đó trong tâm trí, anh lại cảm thấy việc mình bị dẫn đến đây là không thể tránh được.
Chiếc ghế anh đang ngồi là loại hàng rẻ tiền, mặt vải chạm vào da nghe hơi ngâm ngấm đau. Hình dạng của nó dường như cũng có vấn đề, Tengo nhúc nhích người thế nào cũng không tìm được vị trí thấy thoải mái, khiến tâm trạng anh càng thêm khó chịu. Tengo nhấp một ngụm bia, cầm điều khiển tivi đặt trên bàn lên, nhìn một hồi lâu như thể đang quan sát món đồ quý gì đó, sau đó ấn nút bật. Anh chuyển qua chuyển lại mấy kênh, rồi quyết định xem chương trình du lịch giới thiệu đường sắt của Úc trên đài NHK. Anh chọn chương trình này đơn giản vì nó yên tĩnh hơn các chương trình khác. Trên tiếng nhạc nền băng kèn ôboa, với chất giọng điềm tĩnh, nữ phát thanh viên giới thiệu về khoang tàu có giường nằm thanh lịch trên tuyến đường sắt chạy xuyên lục địa Úc.
Tengo ngồi trên chiếc ghế không lấy gì làm dễ chịu, mắt dõi theo những hình ảnh trên màn hình một cách hờ hững, nhưng lòng nghĩ về Nhộng không khí. Adachi Kumi không hề biết người viết cuốn tiểu thuyết ấy chính là anh. Nhưng cũng chẳng quan trọng gì. Vấn đề ở chỗ, mặc dù đã miêu tả nhộng không khí một cách kỹ càng và tinh tế, nhưng Tengo hầu như không biết gì về nó. Nhộng không khí rốt cuộc là thứ gì? Mẫu thể và tử thể đại diện cho điều gì? Lúc viết Nhộng không khí anh đã không biết, giờ anh vẫn hoàn không biết. Dù vậy, Adachi Kumi lại thích quyển sách, đã đọc những ba lần. Sao có thể thế được?
Lúc tivi đang giới thiệu về thực đơn bữa sáng trên toa ăn. Adachi Kumi trở ra, ngồi cạnh Tengo trên chiếc ghế tình nhân. Chiếc ghế khá chật, vì vậy vai hai người cọ sát vào nhau. Cô đã thay một chiếc áo phông dài tay thùng thình, quần vải nhạt màu. Trên áo in một hình mặt cười to tướng. Lần cuối cùng Tengo trông thấy hình mặt cười này là vào khoảng đầu những năm bảy mươi. Cái thời mà thứ âm nhạc chát chúa đinh tai của Great Funk Railroad làm những chiếc máy hát tự động loại bỏ tiền xu rung lên bần bật. Nhưng cái áo phông của cô nhìn không cũ lắm. Chắc ở đâu đó người ta vẫn tiếp tục sản xuất loại áo phông có in hình mặt cười này.
Adachi Kumi lấy một lon bia mới trong tủ lạnh, bật nắp đánh tách, rót vào cốc của mình, uống một hơi hết một phần ba. Sau đó, cô nheo mắt chỉ vào màn hình tivi, tựa như một chú mèo nhỏ đang thỏa mãn: đoàn tàu đang chạy trên đường ray dài ngút mắt giữa núi non trùng điệp màu đỏ.
“Đây là đâu thế?”
“Úc.” Tengo trả lời.
“Úc,” Adachi Kumi nói bằng giọng như đang lục tìm ở sâu bên trong ký ức, “là Úc ở Nam bán cầu đúng không?”
“Đúng. Chính là nước Úc có lũ chuột túi ấy.”
“Em có đứa bạn đã đi Úc rồi,” Adachi Kumi đưa ngón tay lên gãi gãi khóe mắt, nói, “nó đi đúng vào mùa giao phối của bọn chuột túi, đến một thành phố nọ, đâu đâu cũng là lũ chuột túi đang làm chuyện ấy. Trong công viên, trên đường, khắp mọi nơi.”
Tengo cảm thấy mình nên phát biểu ý kiến về chuyện này, nhưng anh chẳng nghĩ ra được gì để nói, bèn cầm điều khiển tắt tivi đi. Căn phòng đột nhiên trở nên tĩnh lặng. Không biết từ lúc nào, tiếng tivi ở căn hộ bên cạnh cũng không còn nữa. Xe cộ thỉnh thoảng phóng qua con đường phía trước khu căn hộ, ngoài ra thì đây là một đêm yên tĩnh. Nhưng nếu lắng tai nghe, sẽ nhận thấy có một thứ âm thanh rì rầm mơ hồ từ xa xôi vọng tới. Không biết là tiếng gì, nhưng có tiết điệu đều đặn, thi thoảng ngừng, không lâu sau lại tiếp tục vọng tới.
“Cú mèo đấy. Chúng sống ở khu rừng gần đây, cứ đêm là kêu.”
“Cú mèo,” Tengo lặp lại bằng giọng mơ hồ.
Adachi Kumi nghiêng đầu dựa lên vai Tengo, lẳng lặng cầm bàn tay anh lên, nắm chặt. Tóc cô chọc vào cổ anh. Chiếc ghế tình nhân vẫn không hề thoải mái. Cú trong rừng tiếp tục kêu, dường như có thâm ý gì đó. Tiếng kêu ấy như thể đang cổ vũ Tengo, cũng lại như đang cảnh cáo anh, hoặc là một lời cảnh cáo bao hàm sự cổ vũ. Một thứ âm thanh có nhiều hàm nghĩa.
“Này, có phải em chủ động quá không?” Adachi Kumi hỏi.
Tengo không trả lời, “Cô không có bạn trai à?”
“Chuyện này khó nói,”Adachi Kumi nói, nét mặt trở nên bối rối, “Anh chàng nào đường được một chút thì cứ tốt nghiệp cấp ba xong là lên Tokyo luôn. Vùng này không có trường tốt, cũng chẳng có công việc gì tử tế. Họ chẳng có lựa chọn nào khác.”
“Nhưng cô đã chọn ở lại đây.”
“Vâng. Lương không cao, làm việc rất vất vả. Nhưng em khá thích cuộc sống nơi này. Chỉ có mỗi vấn đề khó kiếm bạn trai thôi. Em sẵn lòng giao du kết bạn, nhưng khó gặp được người phù hợp lắm.”
Đồng hồ treo tường sắp chỉ mười một giờ. Quá mười một giờ là lữ quán đóng cửa, không về được nữa. Nhưng Tengo khó lòng đứng lên khỏi chiếc ghế tình nhân ngồi chẳng lấy gì làm dễ chịu này. Cơ thể anh không còn chút sức lực. Có lẽ do hình dạng của chiếc ghế, hoặc anh đã say hơn mình nghĩ. Anh nghe tiếng cú kêu mà đầu óc để đâu đâu, chăm chú nhìn chiếc đèn Tiffany nhái trên bàn, cảm giác mái tóc Adachi Kumi cọ vào cổ mình ngưa ngứa.
Adachi Kumi vừa vui vẻ ngâm nga một bài hát vừa chuẩn bị cần sa. Cô lấy dao cạo dùng một lần cạo miếng nhựa cây gai dầu màu đen thành những phiến mỏng như phiến cá bào, cho vào chiếc tẩu dèn dẹt chuyên dụng cỡ nhỏ, sau đó bật một que diêm với ánh mắt nghiêm túc. Làn khói ngòn ngọt đặt hữu tản ra trong gian phòng. Adachi Kumi hút trước. Cô rít vào một hơi sâu, giữ khói lại trong phổi một lúc lâu, rồi chầm chậm phả ra. Sau đó, cô dùng tay ra hiệu cho Tengo làm theo. Tengo nhận lấy tẩu thuốc rồi bắt chước theo. Anh cố giữ khói trong phổi lâu hết mức có thể, sau đó chầm chậm thở ra.
Anh một hơi, cô một hơi, cứ thế hút một lúc lâu. Trong khoảng thời gian đó, hai người không nói không rằng. Nhà bên lại bật tivi, âm thanh của tiết mục hài hước lại vẳng đến qua bức tường mỏng còn lớn hơn lúc đầu. Tiếng cười vui vẻ của người xem trong khán phòng vang lên bất tận, chỉ lúc nào phát quảng cáo mời dừng lại.
Hai người lần lượt hút chừng năm phút, nhưng không xảy ra chuyện gì. Thế giới xung quanh không có bất cứ thay đổi nào. Màu sắc, hình dạng, mùi, tất cả đều hệt như vốn có. Cú mèo tiếp tục kêu không ngớt trong rừng cây gỗ tạp, mái tóc Adachi Kumi vẫn cọ vào làm cổ anh hơi đau đau. Chiếc ghế tình nhân vẫn ngồi rất không thoải mái. Kim giây đồng hồ vẫn chuyển động với tốc độ ấy. Đám người trong tivi vẫn không ngừng phá lên cười trước câu ai đó nói, kiểu cười mà dù có cười đến mấy cũng chẳng thể nào hạnh phúc được.
“Chẳng xảy ra chuyện gì cả,” Tengo nói, “có lẽ là không hiệu quả với tôi.”
Adachi Kumi gõ nhẹ lên đầu gối Tengo hai lần. “Đừng lo, anh cứ đợi một lát.”
Đúng như cô nói, không lâu sau liền có phản ứng. Tựa hồ như một công tắc bí mật vừa bật lên, bên tai Tengo nghe tách một tiếng, sau đó trong đầu anh có thứ gì đó đặc và dính đang chao đảo, giống như bát cháo bị nghiêng đi. Dịch não của mình đang lắc lư, Tengo nghĩ. Đây là lần đầu anh có trải nghiệm này… cảm giác dịch não của mình tồn tại như một thứ vật thể độc lập với mình, cảm nhận được độ dính của nó. Tiếng kêu sâu hút của cú mèo xuyên qua tai chui vào trong, trộn lẫn với thứ cháo đặc ấy, hòa trộn làm một, không thể tách rời ra nữa.
“Con cú mèo đang ở trong tôi,” Tengo nói. Cú mèo giờ đã biến thành một phần ý thức của anh, một phần quan trọng không thể tách rời.
“Cú mèo là thần bảo vệ rừng, biết mọi thứ trên đời, nó truyền thụ cho chúng ta trí tuệ của đêm,” Adachi Kumi đáp.
Nhưng đi đâu và làm thế nào mới tìm được trí tuệ này? Cú mèo ở khắp mọi nơi, lại không ở đâu cả. “Tôi không nghĩ ra nên hỏi gì,” Tengo nói.
Adachi Kumi nắm tay Tengo. “Không cần phải hỏi. Chỉ cần tự mình đi vào rừng là được rồi. Như vậy đơn giản hơn.”
Từ bên kia bức tường lại vọng sang tiếng cười trong chương trình tivi. Cả tiếng vỗ tay. Chắc là trợ lý trường quay, trong một góc mà máy quay không lia tới được, đang giơ mấy tấm bảng ra hiệu “Cười” và “Vỗ tay” về phía khán giả. Tengo nhắm mắt lại, tưởng tượng ra khu rừng. Anh đi vào rừng, sâu bên trong khu rừng tăm tối là lãnh địa của Người Tí Hon. Nhưng nơi đó cũng có cú mèo. Cú mèo biết mọi thứ trên đời, và sẽ truyền thụ cho chúng ta trí tuệ của đêm.
Tất cả âm thanh đột nhiên im bặt, tựa như có ai đó lẳng lặng vòng ra sau lưng. Dùng nút bấc bịt kín hai tai Tengo lại. Có người ở đâu đó đậy một cái nắp, đồng thời một người khác ở một nơi khác mở một cái nắp. Lối ra và lối vào đã đổi chỗ cho nhau.
Lúc định thần lại, Tengo thấy mình đang ở trong phòng học trường cấp một.
Cửa sổ mở toang, tiếng lũ trẻ ngoài sân thể dục vọng vào. Hồ như sực nhớ ra, gió lùa vào, rèm cửa màu trắng bay theo gió. Bên cạnh anh là Aomame, cô đang nắm chặt tay anh. Quang cảnh giống hệt mọi khi… Nhưng có gì đó khác. Những thứ đập vào mắt anh đều rõ nét đến độ gần như không nhận ra nổi nữa, rõ nét đến từng chi tiết. Hình dáng, kiểu cách của các vật thể, thậm chí cả những chỗ nhỏ nhặt nhất cũng hiện lên rành rành trước mắt, cơ hồ anh chỉ cần vươn tay là chạm tới. Đồng thởi cái mùi của buổi chiều đầu đông cũng mạnh bạo xộc thẳng vào lỗ mũi, như thể cái nắp trước nay luôn đậy kín bên trên nó đột nhiên được giật bung ra. Những mùi thật sự. Những mùi cố hữu của mùa: mùi tấm giẻ lau bảng, mùi thuốc tẩy rửa dùng đề quét dọn, mùi lá khô cháy trong lò đốt ở một góc sân trường, mọi mùi quyện nhau không thể tách rời. Hít sâu các mùi này vào phổi, trong Tengo trào dâng cảm giác như tim mình mở ra vửa rộng vừa sâu. Kết cấu cơ thể anh đang được sắp xếp lại, nhịp tim anh không còn chỉ là nhịp tim.
Trong khoảnh khắc, anh có thể mở cánh cửa thời gian vào phía trong. Áhh sáng xưa cũ và ánh sáng mới mẻ hợp lại làm một. Không khí xưa cũ và không khí mới mẻ hợp lại làm một. Chính là thứ ánh sáng này, và thứ không khí này! Tengo nghĩ. Cứ vậy, tất cả mọi thứ đều trở nên sáng rõ. Hầu như tất cả. Tại sao mình mãi không nhớ nỗi cái mùi này, cho đến tận bây giờ? Rõ ràng là một chuyện hết sức đơn giản. Rõ ràng đó là một thế giới chân thực và bất biến.
“Anh rất muốn gặp em,” Tengo nói với Aomame. m thanh ấy xa xôi, trúc tắc. Nhưng không thể nghi ngờ gì, đó là giọng của Tengo.
“Em cũng rất muốn gặp anh,” cô gái nói. Đây hình như là giọng của Adachi Kumi. Ranh giới giữa thực tại và tưởng tượng đã biến mất. Khi anh cố nhìn rõ đường biên ấy, cái bát nghiêng đi, dịch não dính nhơm nhớp liền dập dềnh dập dềnh.
Tengo nói: “Lẽ ra anh nên bắt đầu đi tìm em sớm hơn, nhưng anh không làm được.”
“Giờ bắt đầu cũng chưa muộn. Anh có thể tìm được em mà,” cô gái nói.
“Làm thế nào mới tìm được em?”
Không có câu trả lời. Câu trả lời không thể chuyển hóa thành lời nói.
“Nhưng anh có thể tìm được em,” Tengo nói.
Cô gái trả lời: “Vì em đã phát hiện ra anh.”
“Em phát hiện ra anh.”
“Mau tìm thấy em đi,” cô gái nói, “trong khi vẫn còn thởi gian.”
Rèm cửa sổ màu trắng lặng lẽ bay nhè nhẹ, như một vong linh không kịp trốn đi. Đây là cảnh tượng cuối cùng Tengo trông thấy.
Lúc tỉnh lại, Tengo nằm trên chiếc giường chật hẹp. Đèn trong phòng đã tắt hết, ánh đèn đường hắt vào qua khe hở trên rèm cửa sổ sáng nhờ nhờ. Anh mặc áo phông và quần lót. Adachi Kumi chỉ mặc độc chiếc áo phông dài tay in hình mặt cười. Bên dưới chiếc áo phông dài thượt, cô không mặc đồ lót. Bầu vú mềm mại đè lên cánh tay anh. Trong đầu Tengo, cú mèo vẫn tiếp tục rúc lên. Lúc này, cả khu rừng gỗ tạp cũng đang ở trong thân thể anh. Anh đã thu nạp cả khu rừng về đêm vào trong cơ thể mình.
Tuy cùng nằm với cô y tá trên một chiếc giường, nhưng Tengo không hề cảm thấy ham muốn tình dục. Adachi Kumi có vẻ cũng không có cảm giác ấy. Cô vươn tay ôm lấy Tengo, chỉ mãi cười hinh hích. Có gì mà tức cười đền vậy, Tengo không hiểu nổi. Không khéo có người đang ở đâu đó giơ cao tấm bảng có viết chữ “Cười” cũng nên.
Mấy giờ rồi? Anh ngẩng mặt lên định xem đồng hồ, nhưng chẳng thấy đâu nữa Adachi Kumi đột nhiên ngừng cười, dùng cả hai cánh tay quấn lấy cổ Tengo.
“Em được tái sinh rồi,” hơi thở ấm áp của Adachi Kumi phả vào vành tai anh.
“Cô được tái sinh rồi,” Tengo nói.
“Vì em đã chết một lần.”
“Cô đã chết một lần,” Tengo lặp lại.
“Trong đêm mưa lạnh,” cô nói.
“Tại sao cô chết?”
“Để được tái sinh thế này.”
“Cô tái sinh,” Tengo nói.
“Nhiều hoặc ít,” cô bình tĩnh rủ rỉ, “trong đủ các hình thức.”
Tengo ngẫm nghĩ về câu này một lúc. Tái sinh nhiều hoặc ít trong đủ các hình thức, thế là thế nào? Não tương của anh trở nên nặng nề, tựa như đại dương nguyên thủy, tràn đầy mầm của sự sống. Thế nhưng, điều này chẳng dẫn anh đi tới đâu.
“Nhộng không khí từ đâu đến?”
“Câu hỏi sai,” Adachi Kumi nói, rồi bật cười rúc rích.
Cô quấn lấy người Tengo. Tengo như cảm thấy được lông mu của cô cọ vào đùi. Dày và rậm rạp. Tựa hồ như lông mu là một phần tư duy của cô vậy.
“Cần gì để tái sinh?” Tengo hỏi.
“Về việc tái sinh, vấn đề quan trọng nhất là con người ta không tái sinh vì bản thân mình, mà chỉ có thể tái sinh vì người khác,” cô y tá nhỏ nhắn nói. Như đang tiết lộ một bí mật nào đó.
“Đây chính là ý nghĩa của nhiều hoặc ít trong đủ các hình thức hả?”
“Khi trời sáng, anh Tengo phải rời khỏi nơi này. Nhân lúc lối ra vẫn còn chưa bị bít kín.”
“Khi trời sáng, tôi phải rời khỏi nơi này,” Tengo lặp lại lời cô y tá.
Cô lại cọ chỗ lông mu rậm rạp lên đùi Tengo, như thể muốn lưu lại một dấu hiệu gì đó, “Nhộng không khí không đến từ một nơi nào đó. Dù đợi bao lâu chăng nữa, nó cũng sẽ không đến.”
“Cô biết điều đó.”
“Vì em đã chết một lần,” cô nói, “chết rất đau đớn. Đau đớn hơn anh Tengo có thể tưởng tượng nhiều. Còn vô cùng cô độc nữa. Cô độc đến nỗi người ta phải khâm phục: thì ra con người có thể cô độc đến nhường ấy. Tốt nhất anh nên nhớ kỹ điều này. Nhưng mà anh Tengo này, xét cho cùng, không chết một lần thì sẽ không thể tái sinh.”
“Không chết đi thì sẽ không tái sinh,” Tengo xác nhận.
“Có điều, con người ta vừa sống cũng vừa không ngừng đến gần cái chết.”
“Vừa sống vừa không ngừng đến gần cái chết,” Tengo không hiểu ý cô, chỉ biết nhắc lại.
Rèm cửa sổ trắng vẫn bay bay trong gió. Bầu không khí trong lớp học pha lẫn mũi giẻ lau bảng và mùi thuốc tẩy rửa. Có cả mùi khói đốt lá khô. Có người đang tập thổi sáo dọc. Cô bé nắm chặt bàn tay anh. Anh cảm thấy nửa thân dưới có cảm giác đau đớn ngọt ngào. Nhưng anh không cương cứng. Điều đó sẽ đến sau. Cụm từ sẽ đến sau ấy ước hẹn với anh sự vĩnh hằng. Sự vĩnh hằng là một cây gậy dài vươn ra tít tắp. Cái bát lại nghiêng đi, dịch não dinh dính chao đảo.
Lúc thức dậy, mất một hồi lâu Tengo mới nhớ ra mình đang ở đâu. Anh tốn khá nhiều thời gian để sắp xếp lại những chuyện xày ra tối hôm trước. Ánh ban mai rực rỡ chiếu vào qua khe hở tấm rèm cửa hình chấm hoa, lũ chim dậy sớm đang ríu rít ồn ào. Trên chiếc giường chật hẹp, anh ngủ trong tư thế hết sức không thoải mái. Tengo không ngờ mình có thể ngủ cả đêm trong tư thế ấy. Bên cạnh anh có một phụ nữ. Cô áp mặt vào gối, vẫn đang say giấc. Mai tóc cô dính bết lên má, tựa như ngọn cỏ mùa hè đầy sức sống ướt đẫm sương sớm. Adachi Kumi, Tengo nghĩ. Cô y tá trẻ vừa đón sinh nhật lần thứ hai mươi ba. Đồng hồ chỉ bảy giờ hai mươi phút. Bảy giờ hai mươi phút sáng.
Tengo nhẹ nhàng trèo xuống giường, chú ý không làm cô y tá trẻ thức giấc, nhìn ra ngoài qua khe hở trên rèm cửa. Bên ngoài là ruộng rau bắp cải. Trên nền đất đen, rau bắp cải xếp thành hàng lối rất quy củ. Phía sau đó là rừng cây gỗ tạp. Tengo nhớ lại tiếng cú mèo kêu. Đêm qua, cú mèo kêu ở trong khu rừng đó. Trí tuệ của đêm. Tengo và cô y tá đã vừa nghe tiếng kêu ấy vừa hút cần sa. Trên đùi anh vẫn còn vương lại cảm giác lông mu cưng cứng của cô cọ vào.
Tengo xuống bếp, hứng nước ở vòi uống nước mấy ngụm. Cổ họng anh khô khốc, uống bao nhiêu cũng không đã khát. Nhưng ngoài chuyện đó ra thì không có thay đổi gì đặc biệt. Đầu không đau, người không mỏi mệt, ý thức cũng tỉnh táo. Chỉ là, bên trong cơ thể anh, có cảm giác mọi thứ đều quá trôi chảy, như hệ thống ống dẫn được các chuyên gia làm sạch một cách tỉ mỉ vậy. Anh mặc áo phông và quần lót đi vào nhà vệ sinh, tiểu một lúc lâu. Gương mặt hiện lên trong tấm gương xa lạ thoạt nhìn không giống anh lắm. Tóc bù xù từng túm chĩa đây chĩa đó, râu đến lúc phải cạo rồi.
Anh quay lại phòng ngủ thu dọn quần áo. Quần áo của anh và Adachi Kumi trộn lẫn với nhau, vương vãi trên sàn nhà. Tengo không nhớ mình cởi quần áo ra lúc nào hay như thế nào. Anh tìm thấy hai chiếc bít tất, xỏ quần bò vào, mặc áo sơ mi. Trong khi mặc đồ, anh giẫm phải một chiếc nhẫn rẻ tiền to tướng. Anh nhặt nó lên đặt trên tủ đầu giường. Anh chui đầu qua áo len cổ tròn, cầm áo khoác lên, kiểm tra lại cho chắc ví tiền và chìa khóa đều ở trong túi. Cô y tá trẻ kéo chăn lên tận tai, đang ngủ say sưa, không ngáy. Có nên đánh thức cô dậy không nhỉ? Cho dù chắc hẳn đêm qua không làm gì cả nhưng dù họ cũng đã ngủ với nhau một đêm, chẳng nói chẳng rằng mà lẳng lặng bỏ đi hình như không được lịch sự lắm. Nhưng cô đang ngủ say như thế, còn nói hôm nay không có ca trực nữa. Vả lại, sau khi gọi cô dậy, hai người sẽ làm gì đây?
Anh thấy đằng trước máy điện thoại có giấy và bút bi, bèn viết: “Cám ơn cô về chuyện tối qua, tôi vui lắm. Tôi về chỗ trọ đây. Tengo.” Phía dưới anh ghi ngày giờ. Anh đặt mảnh giấy lên tủ đầu giường, để cái nhẫn nhặt được lúc nãy lên trên, coi như cái chặn giấy. Sau đó, anh xỏ chân vào đôi giày thể thao cũ kĩ, đi ra ngoài.
Đi dọc theo con đường một lúc thì gặp trạm xe buýt, anh đợi chừng năm phút thì có xe chạy về phía ga tàu. Anh lên xe cùng một đám học sinh cấp ba ồn ào cả trai lẫn gái, đi đến tận điểm cuối, Tengo mặt mũi đầy râu ria mãi tận tám giờ sáng mới quay về, song người ở lữ quán chẳng nói gì. Với họ, dường như đây không phải chuyện bất bình thường. Không nói không rằng, họ nhanh nhẹn chuẩn bị bữa sáng cho anh.
Tengo vừa ăn bữa sáng nóng hổi, uống trà vừa hồi tưởng lại những gì xảy ra tối qua. Ba cô y tá mời anh đi ăn thịt nướng, rồi vào quán rượu nhỏ gần đó hát karaoke. Đoạn anh đến nhà Adachi Kumi, nghe tiếng cú kêu và hút cần sa sản xuất ở Ấn Độ. Kế đó, anh cảm thấy dịch não của mình biến thành một thứ cháo đặc âm ấm, dinh dính. Khi định thần lại, anh đã thấy mình ở trong căn phòng học ở trường cấp một vào mùa đông, ngửi thấy mùi không khí ở đó, nói chuyện với Aomame. Sau đó, anh lại cùng Adachi Kumi nằm trên giường bàn luận về cái chết và sự tái sinh. Có những câu hỏi đặt sai, có những câu trả lời đa nghĩa. Cú mèo trong rừng cây gỗ tạp không ngừng rúc, tiếng cười trên chương trình tivi vang lên không ngớt.
Ký ức của anh chấp vá, rõ ràng đã mất đi vài chỗ nối kết. Nhưng những phần không bị mất thì hết sức rõ ràng và sống động. Anh có thể lần ngược lại từng câu đã nói ra. Tengo còn nhớ rõ như in câu nói cuối cùng của Adachi Kumi. Đó là một lời khuyên chân thành, lại cũng là lời cảnh cáo.
“Khi trời sáng, anh Tengo phải rời khỏi nơi này. Nhân lúc lối ra vẫn còn chưa bị bít kín.”
Có lẽ nên quay về rồi. Tengo xin nghỉ đến thị trấn nhỏ này để gặp lại Aomame mười tuổi bên trong nhộng không khí. Hơn nữa, gần hai tuần nay ngày nào anh cũng đến viện điều dưởng, đọc sách thành tiếng cho cha nghe. Thế nhưng, nhộng không khí không xuất hiện. Có điều, khi anh cơ hồ sắp bỏ cuộc đến nơi, Adachi Kumi lại chuẩn bị cho anh một thị kiến dưới hình thái khác. Trong thị kiến ấy, Tengo được gặp lại cô bé Aomame mười tuổi, nói chuyện với cô. Aomame nói, hãy mau tìm thấy em đi. Nhân lúc vẫn còn thời gian. Không, có lẽ thực ra là Adachi Kumi nói câu đó. Không thể phân biệt, nhưng là ai cũng được. Adachi Kumi đã chết một lần rồi tái sinh. Không phải vì bản thân, mà vì một người khác. Tengo quyết định tạm thời tin vào những gì cô nói. Chuyện này hết sức quan trọng. Có lẽ thế.
Nơi đây là thành phố mèo. Có một số thứ chỉ có thể tìm được ở đây. Chính vì vậy anh mới lặn lội đổi mấy chuyến tàu lần mò đến chỗ này. Nhưng mọi thứ anh tìm được ở đây đều kèm theo cả sự nguy hiềm. Nếu tin vào chỉ dẫn của Adachi Kumi, đó có thể là những nguy hiểm chí mạng. Ngón cái đau nhói bảo với ta, thứ tà ác đang tới đây.
Nên trở về Tokyo thôi. Nhân lúc lối ra còn chưa bị bít kín, nhân lúc tàu hỏa còn dừng lại ở ga này. Nhưng trước đó anh cần phải đến viện điều dưỡng một lần, để chào tạm biệt cha. Có một chuyện anh còn phải làm cho rõ.