ộ pháp đập nát toàn bộ kho whiskey của tôi trong bồn rửa – không chừa lấy một chai duy nhất. Tôi đã nối được mối thân tình với ông chủ của hàng rượu ở góc phố để mỗi khi có bán hạ giá whiskey nhập khẩu đều được cung cấp đến tận nhà, dần dần tôi có một bộ sưu tập khá hoành tráng.
Trước tiên Hộ pháp đập hai chai Wild Turkey, rồi chuyển sang chai Cutty Sark trước khi hủy hoại ba chai I. W. Harper, tiêu diệt hai chai Jack Daniel’s, vĩnh biệt chai Four Roses, cho đi đời nốt chai Haig, và cuối cùng xử tử nửa tá Chivas Regal với một nhát đập duy nhất. Tiếng chai vỡ xé tai, nhưng mùi còn tệ hơn, đó không phải là mùi whiskey bình thường: cả căn hộ xộc lên nồng nặc. Chỗ rượu này ít nhất cũng đủ dùng trong nửa năm.
“Người ta chỉ cần ngửi đã thấy say rồi, phải không?”, Còi nhận xét đầy khâm phục. Tôi đan tay sau gáy và ngán ngẩm nhìn đống mảnh chai chất cao trong bồn. Cái gì lên thì phải xuống, rắn sẽ hóa lỏng, cát bụi lại trở về cát bụi. Lẫn trong tiếng thủy tinh vỡ là tiếng huýt sáo chói tai; âm thanh này xuất phát từ Hộ pháp, nghe như cật nứa cọ lên nhau. Tôi không biết giai điệu đó – và thật ra không phải là một giai điệu. Tiếng cật nứa cọ ở trên, ở quãng giữa, rồi ở dưới. Nó làm tôi bủn rủn thân hình và cứa vào từng sợi thần kinh. Tôi lắc mạnh đầu cho thoáng tai và dốc tuột ngụm bia vào họng. Dạ dày tôi rắn đanh như da bò.
Hộ pháp vẫn tiếp tục công việc phá hoại phi lý. Có thể nó có lý đối với hai tên kia, chứ với tôi thì không. Hắn lật đổ giường, rạch nệm, quẳng hết áo quần khỏi tủ, đổ các thứ trong ngăn kéo xuống sàn, giật bảng điều khiển điều hòa không khí khỏi tường, lật úp thùng rác và đập tan mọi đồ đạc tìm được trong tủ tường. Hắn làm việc nhanh và khéo.
Sau khi biến phòng ngủ thành một bãi chiến trường, hắn đi vào bếp. Còi và tôi chuyển chỗ sang phòng khách, dựng ghế sofa bị lật với phần lưng bị rạch nát dậy để lấy chỗ ngồi và quan sát Hộ pháp tàn phá phòng bếp. Quả là một sự may mắn rủi ro – diện tích ngồi và dựa lưng của sofa hầu như không bị phá hủy. Chiếc sofa này là một thứ đồ siêu hạng, ngồi rất thoải mái, một anh bạn làm nhiếp ảnh đã để lại cho tôi với giá hợp lý. Anh là một tài năng lớn chuyên chụp ảnh quảng cáo, nhưng một hôm nào đó bỗng trở chứng và chuyển nhà về vùng núi Nagano, vì vậy nhượng lại cho tôi cái ghế kê ở văn phòng của anh với giá rẻ. Tôi thực sự phiền muộn khi biết anh lên cơn tâm thần, nhưng cũng nhờ vậy mà tôi trúng số độc đắc với chiếc sofa này, không phải mua ghế mới.
Tôi ngồi tận cùng bên phải sofa, tay giữ chặt lon bia, Còi tận cùng bên trái và dựa vào thành ghế, vắt chân chữ ngũ. Mặc cho tiếng động ì ầm, không thấy hàng xóm nào ngó vào. Ở cùng tầng này chủ yếu toàn người đọc thân, do đó vào giờ làm việc chẳng có ai ở nhà nếu không có lý do gì đặc biệt. Hai tên này làm ầm ĩ như vậy vì chúng biết trước điều đó? Có thể thế lắm. Bọn chúng có gì mà không biết. Các vị khách của tôi mặc dù xử sự như những tên đồ tể nhưng rất có hệ thống và hợp lý.
Thỉnh thoảng Còi nhìn xuống chiếc Rolex như kiểm tra thời gian biểu công tác, trong khi Hộ pháp phá nát bét đúng trình tự tất cả những thứ vớ được mà không có một động tác thừa. Nhìn cái kiểu săm soi chu đáo này thì có lẽ tôi không giấu nổi một cây bút chì. Nhưng, như Còi đã nói ngay từ đầu, bọn chúng có ý định tìm gì đâu. Chúng chỉ đập phá thôi.
Nhưng vì sao?
Để người khác tin rằng chúng đã lục tìm gì đó.
Vậy người khác là ai?
Tôi không nghĩ tiếp nữa, uống nốt ngụm bia cuối cùng và đặt lon rỗng lên chiếc bàn con. Hộ pháp mở tủ bát đĩa, gạt hết ly cốc xuống đất và xử lý chồng đĩa. Hắn đập vỡ tất cả, siêu và ấm pha trà, liễn muối, hộp đường và bột, tất cả. Gạo vãi xuống sàn cùng các thức ăn đông lạnh. Một nắm tôm đông đá và thịt bắp bò cứng quèo và kem và túi nylon dài đến độ ba mươi phân đựng nước xốt cà chua mà tôi thử pha cùng váng sữa và trứng cá hồi. Tất cả rơi cồng cộc xuống nền lát nhựa, nghe như một đám thiên thạch dội xuống bê tông.
Sau đó hắn nhấc tủ lạnh lên, kéo ra phía trước rồi đẩy cho lật ngang. Một chùm lửa điện lóe lên, nhất định bộ tản nhiệt bị chập mạch. Phải giải thích với thợ điện ra sao đây? Tôi rối trí quá.
Vụ tàn phá bỗng chấm dứt đột ngột như nó bắt đầu. Không một lời giải thích hay thông báo, tất cả đột nhiên kết thúc, im ắng. Hộ pháp ngừng huýt sáo, đứng trong khung cửa giữa phòng khách và bếp, mắt lờ đờ nhìn tôi. Tôi không rõ hắn mất bao nhiêu thì giờ để biến căn hộ của tôi thành một đống đổ nát. Khoảng từ mười lăm phút đến nửa tiếng, đại khái thế. Đánh giá qua vẻ mặt hài lòng của Còi đang ngó xuống đồng hồ Rolex thì có lẽ quãng thời gian ấy dài đúng dự tính trung bình cần thiết để hủy hoại một căn hộ hai phòng. Trên đời này cái gì cũng có một chuẩn mực thời gian và giá trị bình quân, từ việc chạy ma ra tông cho đến lượng giấy vệ sinh mỗi lần vào nhà xí.
“Dọn dẹp chắc sẽ tốn thì giờ đây”, Còi nói.
“Dĩ nhiên”, tôi nói. “Và tiền bạc nữa.”
“Tiền không đóng vai trò gì ở đây cả. Chiến tranh mà. Ai mải đếm tiền thì thắng trận làm sao được.”
“Đây không phải là chiến tranh của tôi.”
“Chiến tranh của ai thì không quan trọng, tiền của ai cũng vậy. Chiến tranh là vậy.”
Còi rút một chiếc khăn tay trắng muốt trong túi quần, che mồm ho mấy tiếng. Rồi gã ngắm nó một lúc trước khi đút vào túi. “Lát nữa, khi chúng tôi đi rồi, sẽ có người của Hệ thống đến. Và anh sẽ báo cáo tỉ mỉ về bọn tôi cho họ biết. Rằng chúng tôi đã tấn công anh và lục tìm gì đó trong nhà. Và chúng tôi đã hỏi anh về cái đầu lâu. Nhưng anh không biết gì về đầu lâu, hoàn toàn không biết gì hết. Rõ chưa nào? Và không biết gì thì cũng chẳng khai ra được gì. Kể cả sau khi bị tra tấn. Và chúng tôi đã tay trắng ra đi.”
“Tra tấn?”, tôi hỏi.
“Họ sẽ không nghi anh. Hiện nay chỉ có chúng tôi biết chuyện anh đã đến chỗ giáo sư. Họ thì không biết, vì vậy họ cũng chẳng động đến anh. Anh là một toán sư xuất sắc, họ sẽ tin anh. Họ sẽ đoán chúng tôi là người bên Nhà máy và sẽ có phản ứng tương thích. Tất cả theo đúng kế hoạch.”
“Tra tấn?”, tôi nói. “Tra tấn nghĩa là sao cơ?”
“Rồi anh sẽ biết, không phải vội”, Còi nói.
“Nếu tôi nói hết sự thật với người của Hệ thống thì sao?”, tôi hỏi.
“Họ sẽ giết anh”, Còi nói. “Đây không phải lời dọa suông, anh tin tôi đi. Anh đến chỗ Giáo sư mà không báo cho Hệ thống biết, và anh đã xáo trộn dữ liệu mặc dù bị cấm. Thế là đủ tệ rồi, nhưng giáo sư lại còn dùng anh làm một thí nghiệm nữa. Họ sẽ không dễ bỏ qua chuyện ấy đâu. Tình cảnh của anh hơi bi đát đấy, bi đát hơn anh có thể hình dung ra. Cho phép tôi nói toẹt ra: anh đang đi thăng bằng trên thành cầu, lại còn đi một chân nữa. Hãy tự nghĩ xem nên rơi lúc nào thì tốt nhất, kẻo đã tan xương rồi thì không hối kịp đâu.”
Chúng tôi ngồi trên sofa và nhìn nhau, tôi bên phải, gã bên trái.
“Tôi muốn biết một điều”, tôi nói. “Có lý do gì để tôi cộng tác với các anh và nói dối Hệ thống? Tôi là toán sư, một thành viên chính thức của Hệ thống, còn các anh thì tôi hoàn toàn không quen. Vậy thì tại sao tôi lại lừa lọc người phe mình và bắt tay với người lạ?”
“Quá đơn giản”, Còi nói. “Chúng tôi hiểu rõ tình cảnh của anh và để anh sống. Tổ chức của anh thì có thể nói là hiện tại không biết gì về tình cảnh của anh cả. Nếu họ biết thì có lẽ họ sẽ giết anh. Cổ phiếu của anh cao giá hơn khi ở phe chúng tôi. Quá đơn giản, phải không nào?”
“Tôi không rõ tình cảnh của mình ra sao, nhưng chẳng sớm thì muộn Hệ thống sẽ biết. Hệ thống là một tổ chức khổng lồ và không ngu ngốc gì.”
“Không, ngu thì nhất định không”, Còi nói. “Nhưng họ sẽ cần ít lâu nữa, và với một chút may mắn thì đến lúc đó chúng ta đã giải quyết xong mọi vấn đề của mình, cả vấn đề của chúng tôi lẫn của anh. Đó là cách tìm tới quyết định. Người ta chọn xác suất nào cao hơn, ngay cả khi chỉ chênh nhau một phần trăm. Như đánh cờ vậy, đối phương tấn công, còn anh rút chạy. Trong khi anh tránh thì có thể người kia đi nhầm một nước. Ai cũng có lúc phạm sai lầm, kể cả người cao thủ nhất. Thế đấy.” Còi nhìn đồng hồ, quay sang Hộ pháp và búng ngón tay. Hộ pháp hất cằm như một người máy được khởi động bởi tiếng búng ngón tay, từ từ tiến ra sofa và lù lù chặn trước mặt tôi như một cái tủ. Hay đúng hơn là một màn ảnh chiếu phim. Tôi không còn nhìn thấy gì nữa. Hộ pháp che cả đèn trần khiến tôi ngồi trong bóng tối. Tôi nhớ đến một lần nhật thực mà tôi được xem ở sân trường hồi học tiểu học. Mỗi lần chúng tôi có một tấm kính hơ đen muội nến dùng làm phim để quan sát mặt trời. Cách đây đã một phần tư thế kỷ. Cả một phần tư thế kỷ trôi qua, còn tôi đã trôi đến đâu?
“Thế đấy”, Còi lặp lại. “Rất tiếc là bây giờ anh sẽ phải trải nghiệm một điều không hay ho cho lắm. Nói đúng hơn là rất không hay ho. Cắn răng lại, và hãy tin rằng nó chỉ lợi cho anh thôi! Chúng tôi không vui vẻ gì khi làm việc này. Nhưng bắt buộc phải thế. Cởi quần ra!”
Tôi cởi quần. Có cưỡng lại cũng vô ichs.
“Quỳ xuống!”
Tôi đứng dậy theo lệnh và quỳ xuống. Chỉ mặc mỗi áo thun, quần lót Jockey và quỳ trên thảm – quả là một hình ảnh kỳ quái, nhưng tôi chưa kịp có thì giờ nghĩ tiếp thì Hộ pháp tiến ra sau tôi, ép hai bàn tay tôi chập vào nhau sau lưng. Hắn hành động nhanh nhẹn và thuần thục. Tôi không nhận ra sức ép gì lớn và thử cử động một chút, lập tức vai và khuỷu tay tôi đau nhói. Tôi bị kẹp cứng như con vịt nhồi vào rọ.
Còi vào bàn bếp lấy con dao của Hộ pháp ra. Gã bật lưỡi dao chừng bảy phân, lấy bật lửa trong túi quần và hơ lưỡi dao thật nóng. Con dao nhỏ gọn và không gây ấn tượng đáng sợ, nhưng có thể nhận ra ngay sự khác biệt với những con dao bán ở hàng tạp phẩm. Để rạch bụng người thì nó cũng vừa đủ to. Con người chứ không phải con gấu, da thịt mềm như quả đào. Với một lưỡi dao bảy phân đủ cứng thì có thể làm được khối chuyện.
Sát trùng lưỡi dao xong, Còi ung dung đợi nó nguội hẳn. Sau đấy gã lấy tay trái kéo chun quần lót trắng của tôi tụt xuống, hở gần hết dương vật ra.
“Bây giờ thì hơi đau một chút. Cắn răng lại”, gã nói.
Tôi cảm thấy một khối hơi to bằng quả bóng tennis đùn từ dạ dày lên cổ họng. Đầu mũi tôi đọng đầy mồ hôi. Tôi sợ. Sợ chúng lấy dao cắt vào hạ bộ. Và tôi sẽ không bao giờ cương lên được nữa.
Nhưng gã không chạm đến dương vật tôi. Dưới rốn tôi chừng năm phân gã rạch một đường dài sáu phân vào bụng dưới. Mũi dao bén ngọt còn âm ấm xén dễ dàng vào bụng tôi và đi một đường thẳng như kẻ chỉ sang bên phải. Tôi muốn tránh ra, nhưng Hộ pháp kẹp chặt không cho động đậy. Còn Còi túm dương vật tôi bằng tay trái. Khắp người tôi tứa mồ hôi lạnh. Một chớp mắt sau, cơn đau xuyên thấu người tôi. Còi chùi máu trên lưỡi dao bằng khăn giấy, và Hộ pháp thả tôi ra khi Còi gập lưỡi dao vào. Tôi nhìn quần lót trắng thấm đỏ máu. Hộ pháp lấy trong phòng tắm ra một chiếc khăn sạch để tôi ấn lên vết thương.
“Khâu bảy mũi là ổn trở lại thôi”, Còi nói. “Sẽ có một vết sẹo nhỏ, nhưng dưới đó ít ai nhìn thấy. Tôi thực sự lấy làm tiếc, nhưng không thể khác được.”
Tôi mở khăn ra xem vết thương. Vết cắt không sâu lắm. Nhưng đủ sâu để nhìn thấy thịt màu hồng lộ ra dưới máu.
“Khi chúng tôi đi khỏi và người của Hệ thống đến thì anh kể lại với họ rằng chúng tôi dọa sẽ cắt sâu hơn nếu anh không khai chỗ giấu đầu lâu. Anh thực sự không biết nên cũng không thể nói ra được. Sau đó chúng tôi rút lui. Tra tấn thế thôi. Nếu cần thì chúng tôi còn làm các chuyện khác hẳn – tôi nói để chúng ta hiểu nhau cho chính xác. Nhưng hôm nay thế là đủ. Có thể còn có dịp để anh rõ chúng tôi có những trò gì khác nữa.”
Tôi chỉ gật đầu, ép khăn lên bụng. Tôi không rõ tại sao, nhưng có lẽ cứ xử sự theo lời bọn chúng là tốt nhất.
“Thằng cha thợ ống khí đốt được anh trả tiền chứ gì?, tôi hỏi. “Và dặn hắn để bị bắt quả tang, sau đó tôi đem đầu lâu và các thông số bị xáo lộn đến chỗ an toàn, đúng không?”
“Thông minh ra phết”, Còi vừa nói vừa nhìn Hộ pháp. “Cứ tiếp tục làm như thế đi. Và có thể anh sẽ sống sót.”
Rồi cả hai biến khỏi. Không cần phải mở và đóng cửa. Cánh cửa sắt cong vênh bung khỏi bản lề rộng mở đón cả thế giới vào.
Tôi cởi quần lót vấy máu ném vào thùng rác và lấy gạc lau sạch máu trên vết thương. Mỗi lần cúi hay vươn người là cơn đau lại nhói thành nhịp như mạch đập. Tôi vứt nốt áo thun vì tay áo dính máu. Sau đó tôi kiếm trong đống bừa bãi trên sàn một chiếc T-Shirt mà nếu có vết máu dính cũng khó nhận ra, mặc cùng một quần lót thật trễ cạp. Thế cũng đủ mệt.
Tôi vào bếp, uống hai cốc nước, vừa nghĩ đến chuyện này chuyện nọ vừa đợi người của Hệ thống đến.
Một nửa tiếng sau có ba người từ trung tâm xuất hiện. Một trong số họ là tay trẻ tuổi kênh kiệu ở bộ phận liên lạc vẫn hay đến lấy dữ liệu. Gã mặc bộ com lê màu sẫm như mọi khi, sơ mi trắng, cà vạt giống như nhân viên bộ phận tín dụng của nhà băng. Hai người kia đi giày thể thao và vận đồ như công nhân vận tải. Không có nghĩa là trông họ như một nhân viên nhà băng và hai công nhân, mà họ tạo ra một vẻ ngoài như vậy. Họ liên tục ngó nghiêng tứ phía, căng thẳng từng thớ thịt, sẵn sàng phản ứng với mọi hoàn cảnh và bất cứ sự công kích nào.
Và ba người này cũng không cần phải lịch sự gõ cửa hoặc cởi giày khi vào nhà. Trong khi hai công nhân lục khắp các xó xỉnh trong căn hộ, tay liên lạc viên thẩm vấn tôi về sự kiện vừa xảy ra. Gã rút một cuốn sổ tay đen từ túi trong áo khoác và ghi lại những chi tiết cơ bản bằng bút chì bấm. Tôi kể là có hai tên đến đây và lục lọi tìm một chiếc đầu lâu, sau đó tôi chỉ vết thương. Gã kênh kiệu xem rất kỹ nhưng không nói gì.
“Đầu lâu? Nghĩa là sao?”, gã hỏi.
“Sao mà biết được”, tôi nói. “Chính tôi cũng muốn biết.”
“Vậy là anh cũng chẳng biết gì cả?”, gã liên lạc viên hờ hững nói. “Anh nghĩ kỹ lại xem, vì rất quan trọng. Sau này có muốn sửa cũng muộn. Bọn ký hiệu sư không làm gì vô cớ cả. Nếu bọn chúng soát một căn hộ để tìm đầu lâu thì ắt chúng có cớ để phỏng đoán là ở đây có cái đầu lâu. Không có lửa thì làm sao có khói. Và cái đầu lâu phải có giá trị thì người ta mới tìm. Khó tin là anh không dính dáng gì đến chuyện ấy.”
“Nếu anh sáng suốt như vậy thì anh hãy cho tôi biết cái đầu lâu ấy có ý nghĩa gì.”
Gã liên lạc viên gõ gõ bút chì một hồi lâu lên cuốn sổ tay. “Chúng tôi sẽ điều tra kỹ càng vụ này. Và một khi là đã điều tra nghiêm túc thì thường là chúng tôi sẽ tìm ra. Nếu kết quả cho thấy anh giấu gìếm gì thì sẽ không hay ho lắm đâu, anh hiểu rõ điều đó chứ?”
Tôi xác nhận điều đó. Có trời biết rồi sẽ xảy ra chuyện gì. Không ai đoán được hậu vận cả.
“Chúng tôi biết bọn ký hiệu sư đang có âm mưu gì đó. Giờ thì chúng đã xuất quân. Nhưng ta vẫn chưa biết chính xác chúng theo đuổi mục đích gì. Cũng không rõ tại sao các đầu dây lại tụ lại ở chỗ anh. Và cái đầu lâu có ý nghĩa gì. Tuy nhiên, càng tập hợp nhiều dấu hiệu thì càng dễ lần ra cốt lõi thực sự của sự việc. Đó là điều chắc chắn.”
“Vậy bây giờ tôi phải làm gì?”
“Anh hãy cảnh giác. Anh hãy nghỉ xả hơi và chú ý cảnh giác. Trả lại mọi nhiệm vụ được giao đi. Và báo ngay cho chúng tôi nếu có gì xảy ra. Điện thoại ổn chứ?”
Tôi nhấc máy. Không có vấn đề gì. Nhất định hai tên kia cố ý không chạm đến điện thoại. Tôi không rõ tại sao. “Máy tốt”, tôi nói.
“Anh nghe đây”, gã nói. “Anh phải thông báo ngay bất kỳ chuyện nhỏ nhặt nào. Đừng tự ý làm gì cả. Đừng giấu giếm chuyện gì. Bọn này làm nghiêm trọng đấy. Lần tới anh sẽ không thoát thân với một vết xước cỏn con thế này đâu.”
“Vết xước?”, tôi buột miệng.
Hai công nhân đã kiểm tra xong và quay vào bếp.
“Bọn nó làm kỹ lắm”, người lớn tuổi hơn nói. “Tiến hành có hệ thống và không bỏ sót vị trí nào. Rất chuyên nghiệp. Không nghi ngờ gì, đúng là bọn ký hiệu sư.”
Liên lạc viên gật đầu và hai người kia rút lui. Hai chúng tôi ở lại một mình.
“Tại sao rạch nát quần áo khi đi tìm đầu lâu?”, tôi hỏi. “Trong quần áo thì không giấu được đầu lâu, bất cứ loại nào.”
“Dân chuyên nghiệp mà. Không để sót khả năng có thể nào. Biết đâu anh gửi đầu lâu vào một tủ gửi đồ rồi giấu chìa khóa đi, và chìa khóa thì giấu đâu cũng được.”
“Đúng thế”, tôi nói. Đúng thế thật!
“Tôi muốn hỏi câu nữa: bọn ký hiệu sư không đưa ra đề nghị nào với anh à?”
“Đề nghị?”
“Chạy sang phe Nhà máy. Tiền. Danh vọng. Hoặc ngược lại: tống tiền.”
“Chẳng có gì. Không một lời nào”, tôi nói. “Bọn nó chỉ rạch bụng tôi và hỏi về đầu lâu.”
“Anh nhớ kỹ nhé”, liên lạc viên nói. “Nếu người ta đến tìm anh và định thuyết phục anh thay đổi ý kiến thì anh tuyệt đối không được nhận lời. Nếu anh gục thì chúng tôi thanh toán anh luôn, kể cả khi phải săn đuổi anh đến cùng trời cuối đất. Chúng tôi không dọa, mà hứa như vậy. Chúng tôi có nhà nước đứng sau lưng. Không có gì là chúng tôi không làm được cả.”
“Tôi sẽ ghi nhớ”, tôi nói.
Lúc mọi người đi khỏi, tôi xét lại sự việc một lần nữa, lần lượt từng điểm một. Nhưng không tìm được một kết luận nào. Vấn đề cơ bản là ông giáo sư có chủ định gì? Chừng nào chưa có câu trả lời thì mọi phỏng đoán đều vô ích. Tôi hoàn toàn không biết chuyện gì ẩn trong đầu óc của ông già.
Nhưng đã rõ một điều – tôi đã lừa dối Hệ thống, cho dù có thể nói là tôi bị tình thế đưa đẩy đến bước này. Nếu chuyện đó lộ ra – và sớm hay muộn sẽ lộ ra – thì tôi đã cho cả hai chân vào quan tài, đúng như gã liên lạc viên kênh kiệu kia đã tuyên bố. Kể cả khi họ châm chước là tôi phải nói dối trong tình trạng bị ép buộc. Họ sẽ không và không bao giờ tha lỗi cho tôi.
Trong khi những suy nghĩ ấy lướt qua óc, vết thương lại nhói lên khiến tôi phải giở danh bạ điện thoại tìm gọi công ty taxi gần nhà nhất để vào bệnh viện điều trị. Tay ép khăn vào vết thương, tôi mặc một chiếc quần rộng rồi xỏ giày. Để đi giày thì phải cúi xuống. Đau như xé người làm đôi. Một vết cắt cỏn con chưa đầy sáu phân, và con người ta thành một hình nhân rệu rã. Không xỏ nổi chân vào giày, không leo được cầu thang.
Tôi đi thang máy xuống nhà, ngồi vào bệ chậu cây cảnh cửa và đợi taxi. Đồng hồ chỉ một rưỡi. Mới có hai tiếng rưỡi từ khi Còi và Hộ pháp phá cửa vào phòng. Hai tiếng rưỡi lê thê, tôi thấy dài như mười tiếng.
Mấy bà nội trợ vác làn đi chợ ngang qua. Củ cải non và hành thò ra từ túi siêu thị. Tôi ghen tị đôi chút với họ. Không ai đập phá tủ lạnh của họ, và cũng chẳng rạch bụng họ. Nếu người ta chỉ phải lo chế biến củ cải và hành và chăm cho con cái khôn lớn thì cuộc đời diễn ra thật yên bình. Chẳng việc gì phải bận tâm tới đầu lâu thú một sừng, cũng không phải nát óc bởi những mật mã bí hiểm và những công tác phức tạp. Cuộc đời bình dị là như thế.
Tôi nhớ đến mấy con tôm đông lạnh đang rã đá trên sàn nhà, cả miếng bơ và xốt cà. Phải ăn trong hôm nay. Nhưng tôi không hứng gì ăn uống cả.
Ông đưa thư đi xe Cub đỏ đến và khéo léo phân phát thư từ vào các hộp thư cạnh cửa ra vào. Một số hộp thư đầy ứ, các hộp khác hầu như rỗng không. Ông không chạm vào hộp thư của tôi, thậm chí chẳng thèm nhìn.
Bên cạnh thùng thư có một cây đa búp đỏ trồng trong một chậu vương đầy que kem và đầu mẩu thuốc lá. Trông cây đa cũng tàn tạ như tôi. Lắm người cứ thế đi tới để vứt tàn thuốc vào chậu hay ngắt một lá. Tôi không rõ nó đứng đấy từ bao giờ, nhưng nhìn bề ngoài thì có lẽ đã lâu rồi. Ngày nào tôi cũng đi ngang qua, nhưng chỉ nhận thấy nó khi ôm cái bụng bị rạch ngồi chờ taxi.
Bác sĩ nhìn vết rạch và hỏi vì sao tôi bị thương.
“Có vấn đề, vì chuyện đàn bà”, tôi nói. Không biết kể với ông ta gì khác. Có thể nhận thấy ngay là vết dao rạch.
“Trong những trường hợp ấy thì tôi có nghĩa vụ báo cho cảnh sát”, bác sĩ nói.
“Đừng báo cảnh sát”, tôi nói. “Tôi cũng không hẳn vô tội trong vụ này, cũng may là vết thương không sâu, ta có thể để yên chuyện này được không? Tôi xin ông.”
Ông bác sĩ càu nhàu một hồi, nhưng rồi ông ra hiệu cho tôi nằm lên giường, sát trùng và tiêm vài mũi, lấy kim chỉ khéo léo khâu mấy mũi. Khi ông xong việc, một cô y tá mặt mũi hằm hằm dán một miếng gạc dày rồi quấn cả một dây chằng cao su quanh hông cho chặt. Trông tôi khá kỳ quặc.
“Hạn chế cử động mạnh hết sức”, bác sĩ nói. “Ngoài ra cấm rượu, cấm tình dục, và cấm cười to. Ông nên tránh cử động, đọc sách thì tốt. Mai quay lại.”
Tôi cảm ơn, ra trả tiền lệ phí, nhận một loại thuốc chống viêm và đi về nhà. Như bác sĩ dặn, tôi lên giường nằm và đọc Rudin của Turgenev. Thực ra tôi thích Những dòng nước mùa xuân hơn, nhưng khó tìm ra được cuốn ấy trong đống đổ nát giữa nhà, vả lại xét cho cùng thì Những dòng nước mùa xuân cũng không hơn Rudin gì nhiều.
Bụng băng bóm, tay cầm tiểu thuyết của Turgenev và nằm trên giường trước giờ hoàng hôn – bây giờ tôi bàng quan với mọi chuyện khác. Những gì xảy ra trong ba ngày vừa qua không phải do tôi thích ôm lấy. Nó ụp xuống đầu tôi, và tôi bị lôi kéo vào. Thế thôi.
Tôi vào bếp, thận trọng dọn mảnh chai chất đầy trong bồn rửa. Hầu hết chai lọ đã bị đập nát; chỉ còn một đế chai Chivas Regal là tương đối lành lặn và còn đọng chút whiskey. Tôi rót ra ly và giơ lên ánh sáng, không có mảnh chai trong đó. Tôi trở lại giường nằm, uống chỗ whiskey âm ấm trong khi đọc tiếp. Tôi đọc Rudin lần cuối cùng khi còn là sinh viên, trước đây mười lăm năm. Hôm nay, sau mười lăm năm và bụng quấn băng, tôi thấy có cảm tình với nhân vật chính hơn ngày xưa. Con người không một mình sửa các lỗi lầm được. Chậm nhất vào tuổi hai mươi lăm là nhân cách đã định hình, và từ đó trở đi về cơ bản không thay đổi gì nữa, mặc cho ta có cố gắng đến mấy. Vấn đề chỉ là thế giới xung quanh phản ứng ra sao với nhân cách ấy. Được whiskey nồng nàn làm cho phấn chấn, tôi cảm tình với Rudin. Các nhân vật của Dostoevsky hầu như không làm tôi quan tâm, nhưng của Turgenev thì tôi yêu mến ngay. Thậm chí tôi cũng khoái những nhân vật trong seris Đồn cảnh sát số 87 của Ed McBain. Có lẽ vì tôi cũng có nhiều khiếm khuyết. Con người có xu hướng mến những người nhiều tật như mình. Nhưng nhân vật tiểu thuyết của Dostoevsky thường có những khiếm khuyết không đáng gọi là khiếm khuyết, khiến tôi không hoàn toàn nhận ra mình trong đó. Ở Tolstoy thì các khiếm khuyết ấy lại quá bao trùm và quá cố hữu.
Đọc xong cuốn sách, tôi ném nó lên giá và lục trong bồn xem còn whiskey không. Tận dưới cùng còn thừa một tí Jack Daniel’s Black Label, tôi rót ra và đem về giường cùng cuốn Đỏ và Đen của Stendhal. Hình như tôi có một thú đọc tiểu thuyết cổ hủ. Lấy đâu ra người trẻ tuổi hôm nay thích đọc Đỏ và Đen? Tôi thì khi đọc cuốn sách này rất tâm đầu ý hợp với Julien Sorel. Nhưng sai lầm của Sorel đã định hình từ hồi mười lăm tuổi, khiến tôi càng thích anh ta hơn. Thật đáng thương cho một người đã thấy hình dáng đường đời còn lại của mình ở tuổi mười lăm. Chẳng khác gì đang tiến đến một nhà tù không đường đào thoát. Đi đến sự tàn lụi của mình, vây chặt trong một thế giới có đường bao quanh.
Tôi giật mình.
Tường.
Thế giới có bức tường bao quanh.
Tôi gập sách, dốc nốt ngụm Jack Daniel’s và hình dung ra thế giới sau bức tường. Tưởng tượng ra bức tường và cánh cổng thì đơn giản. Tường rất cao, cổng sừng sững. Tất cả im lìm. Và chính tôi ở bên trong. Nhưng cảm nhận về bản thân tôi cũng rất mờ ảo, tôi không thấy gì xung quanh. Toàn thành phố hiện ra rõ ràng từng chi tiết trước mắt tôi, nhưng sát xung quanh tôi mọi thứ mờ ảo. Và bên ngoài lớp màn dày đặc ấy có tiếng ai gọi tôi.
Tôi lắc đầu để rũ bỏ hình ảnh đó. Tôi mệt mỏi và kiệt sức. Tôi cho rằng nhất định bức tường là biểu tượng cho cuộc đời hạn hẹp của mình. Sự im lặng thể hiện âm thanh bị tắt đi. Màn sương mù quanh tôi có nghĩa là trí tưởng tượng của tôi đang sa vào cơn khủng hoảng sống còn. Và người đang gọi tôi ắt là cô gái màu hồng.
Sau khi phân tích giấc mơ ngắn một cách ngớ ngẩn như vậy, tôi lại mở sách ra. Nhưng tôi không sao tập trung đầu óc được nữa. Tôi nghĩ, cuộc sống của mình thật vô nghĩa, một con số không tròn trĩnh. Tôi đã tạo ra được gì? Chẳng được gì cả. Tôi có làm cho ai hạnh phúc không? Tôi chẳng làm ai hạnh phúc cả. Tôi có gì trong tay? Chẳng có gì. Không gia đình, không bè bạn, không có cả cánh cửa. Thậm chí không cương nổi lên. Và sắp tới có thể mất việc.
Và mục đích cuối cùng trong đời, niềm vui bình lặng với đàn vi ô lông xen và tiếng Hy Lạp, cũng đang lung lay. Nếu bây giờ mất việc thì mất luôn cơ sở tài chính để thực hiện giấc mơ đó. Và nếu Hệ thống theo dõi tôi đến cùng trời cuối đất thì tôi sẽ không còn thì giờ ghi nhớ các động từ Hy Lạp chia ngoài quy tắc.
Tôi không để ý thấy màn đêm sập xuống và bị quấn chặt trong màn u tối của Turgenev và Stendhal. Vết thương không đau lắm nữa, có thể vì tôi nằm nghiêng không động đậy. Đôi khi cảm giác đau không rõ rệt lan từ vết thương qua cạnh sườn, như tiếng trống bập bùng xa xa. Nhưng xong rồi thì tôi quên ngay vết thương. Đã bảy giờ hai mươi, nhưng tôi vẫn không thấy muốn ăn. Năm giờ sáng. Tôi ăn một lát bánh kẹp ỉu và chiêu sữa cho trôi. Một lúc sau tôi ăn chỗ salad khoai tây trong bếp. Sau đó không ăn gì nữa. Cứ nghĩ đến ăn là dạ dày lộn phèo lên. Tôi phờ phạc, thiếu ngủ, người ta rạch bụng tôi, căn hộ trông như bị trúng bom. Không muốn ăn cũng chẳng lạ.
Cách đây mấy năm tôi có đọc một truyện khoa học giả tưởng, nói về thế giới đắm chìm vào hoang tàn đổ nát; hôm nay nhà tôi trông hệt như thế. Cả sàn nhà phủ kín những thứ vô dụng – một bộ com lê rách nát, đầu video bẹp rúm, ti vi cũng thế, lọ hoa tan tành, cây đèn gãy gục, đĩa nhạc bị giẫm vỡ, xốt cà chua chảy lênh láng, dây lao đứt rời… Lẫn trong đó là sơ mi và quần lót có dấu giày xéo lên, dính mực và nho, có lẽ chỉ để vứt đi. Trước đó ba hôm tôi có mua nho và để đĩa nho trên mặt tủ cạnh giường. Hộ pháp đã gạt nó xuống đất và xéo nát chùm nho. Những cuốn tiểu thuyết của Joseph Conrad và Thomas Hardy bị ném xuống từ trên giá đã ngấm no nước bẩn của lọ hoa. Bó hoa lay ơn nằm trên chiếc áo len cashmere màu be nhạt, nom như vòng hoa đặt lên mộ tử sĩ. Một tay áo dây vết mực Pelikan màu xanh to bằng quả bóng bàn. Tất cả đã biến thành rác, một núi rác, mãi mãi là rác. Vi sinh vật đã biến thành dầu mỏ, gỗ thành than, nhưng rác trong nhà tôi chỉ là rác mà thôi. Một cái đầu video bị phá hủy có thể biến thành gì?
Tôi vào bếp và xếp lại đống mảnh chai whiskey trong bồn rửa. Nhưng chẳng còn gì nữa, không còn lấy một giọt. Whiskey đã không chảy qua họng tôi mà chảy luôn xuống phễu thoát để biến mất dưới lòng đất, nơi lũ ma đen ngự trị. Trong khi dọn dẹp, một mảnh chai cứa vào đầu ngón giữa tay phải. Tôi ngắm một lúc những giọt máu rỏ lên nhãn chai whiskey. Ai bị thương nặng thì chẳng đếm xỉa đến vết đứt cỏn con như vậy, chẳng chết đâu mà sợ.
Tôi để máu rỏ giọt một lát, nhưng thấy nó không cầm nên lấy khăn giấy lau đi rồi dán băng dính lên.
Bảy, tám lon bia nằm trên nền nhà bếp như các tút đạn pháo. Tôi nhặt lên, thấy âm ấm. Nhưng bia ấm còn hơn không có bia. Mỗi tay cầm một lon, tôi trở về phòng ngủ để vừa đọc tiếp Đỏ và Đen vừa uống bia. Tôi muốn dùng hơi men để xả bớt stress chất chồng từ ba ngày vừa qua – rồi sau đó ngủ, ngủ như chết. Trước khi những vấn đề của ngày hôm sau ụp xuống đầu mình – và rõ ràng là chúng sẽ đến – tôi muốn ngủ thật lâu, lâu bằng trái đất quay đủ một vòng quanh trục như Michael Jackson quay trên sâu khấu. Rồi sau đó nghênh tiếp những vấn đề mới bằng niềm tuyệt vọng mới.
Giấc ngủ kéo dài đến lúc gần chín giờ trong căn hộ trông như bãi rác của tôi. Tôi quẳng cuốn Đỏ và Đen xuống đất, tắt đèn và cuộn tròn lại như một thai nhi và thiếp đi giữa đống hoang tàn.
Nhưng cũng chỉ được vài tiếng. Lúc mười một giờ đêm cô gái vận đồ hồng đến lay tôi dậy.
“Dậy đi! Tôi xin ông, dậy đi!”, cô gọi, “bây giờ không phải lúc để ngủ!” Cô nắm tay đấm thùm thụp lên người tôi. “Tôi xin ông hãy dậy trước lúc ngày diệt vong.”