Xác Ấm

Chương 28

Julie và tôi thức suốt đêm. Trong bộ quần áo vẫn ướt nước mưa, chúng tôi không nói một lời. Cuối cùng mắt tôi trĩu xuống, và trong sự bình thản kỳ lạ này, trong khoảng thời gian có lẽ là những giờ khắc cuối cùng của tôi trên Trái Đất, trí não tôi đã tạo ra ước mơ mở cánh cửa trong bóng tối long lanh như một bông hồng được quay chậm.

Trong giấc mơ này, giấc mơ của tôi, tôi đang trôi dọc một dòng sông trên cái đuôi bị cắt rời từ ngôi nhà máy bay của mình. Tôi đang nằm ngửa dưới bầu trời nửa đêm xanh ngắt, ngắm những ngôi sao lướt qua trên đầu. Dòng sông chưa được thăm dò, ngay cả giữa thời kỳ đầy bản đồ và vệ tinh này, và tôi không biết nó sẽ đổ về đâu. Không khí tĩnh lặng. Đêm ấm áp. Tôi chỉ đem theo hai thứ: một hộp mì Thái và cuốn sách của Perry. Cuốn sách dày. Cổ kính. Bọc bằng da. Tôi mở đến đoạn giữa. Một câu bỏ dở viết bằng một thứ ngôn ngữ tôi chưa bao giờ thấy, và sau đó chẳng còn gì nữa. Một cuốn sách khổng lồ toàn giấy trắng, trống trơn, chờ đợi. Tôi gập cuốn sách lại và đặt đầu lên lớp thép lạnh. Mùi mì Thái xộc vào mũi tôi, ngọt ngào, cay cay, nồng đượm. Tôi cảm thấy dòng sông đang rộng dần ra, nước chảy xiết hơn.

Tôi nghe thấy tiếng thác đổ.

* * *

“R.”

Tôi mở mắt ra và ngồi dậy. Julie đang ngồi xếp bằng bên cạnh tôi, ngắm nhìn tôi với vẻ thích thú dữ dằn.

“Anh nằm mơ hay chứ?”

“Không… chắc,” tôi lầm bầm, đưa tay dụi mắt.

“Anh có mơ được giải pháp nào cho vấn đề nho nhỏ của chúng ta không?”

Tôi lắc đầu.

“Ừ, tôi cũng không.” Nàng liếc nhìn đồng hồ treo tường và rầu rĩ mím môi. “Mấy tiếng nữa là tôi phải đến trung tâm cộng đồng để đọc truyện. David và Marie sẽ khóc nếu tôi không có mặt.”

David và Marie. Tôi nhắc lại những cái tên ấy trong đầu, tận hưởng từng đường nét của chúng. Tôi sẵn sàng cho cô chó Trina ăn cả cái chân mình để được gặp lại hai đứa trẻ ấy. Để được nghe mấy âm tiết vụng về thốt ra từ miệng chúng trước khi tôi chết. “Cô đang… đọc truyện gì?”

Nàng nhìn qua cửa sổ ngắm thành phố, mỗi vết rạn và chỗ hỏng đều nổi hẳn lên dưới ánh sáng trắng chói lòa. “Tôi đang cố làm chúng thích bộ Tường Đỏ[1]. Tôi nghĩ những bài hát và yến tiệc và các chàng chiến binh chuột dũng cảm sẽ giúp chúng quên đi cơn ác mộng giữa cuộc sống của chúng. Marie cứ xin đọc sách về Xác Sống và tôi cứ phải bảo nó là tôi không thể đọc sách người thật việc thật trong giờ đọc truyện được, nhưng…” Nàng nhận thấy vẻ mặt tôi và ngừng lại. “Anh không sao chứ?”

[1] Redwall, bộ truyện thiếu nhi của nhà văn Anh Brian Jacques (1939 - 2011), kể về những cuộc phiêu lưu mạo hiểm của các con vật nhỏ đã được nhân cách hóa như chuột, sóc, thỏ, chồn, v.v.

Tôi gật đầu.

“Anh đang nghĩ về hai đứa con ở sân bay phải không?”

Tôi ngần ngừ, rồi gật,

Nàng vươn tay ra chạm vào đầu gối tôi và nhìn vào cặp mắt cay sè của tôi. “R này? Tôi biết mọi chuyện giờ có vẻ tệ, nhưng nghe này. Anh không được bỏ cuộc. Chừng nào anh còn thở - xin lỗi, chừng nào anh còn cử động, thì mọi chuyện chưa kết thúc. Được chứ?”

Tôi gật đầu.

“Được chứ? Chó chết, nói ra đi, R.”

“Được.”

Nàng mỉm cười.

“HAI. TÁM. HAI MƯƠI TƯ.”

Chúng tôi giật bắn người buông nhau ra khi một cái loa trên trần bỗng ré lên một loạt con số, tiếp theo là một tiếng còi báo động chói tai.

“Đây là Đại tá Rosso với một thông báo cho toàn thành phố,” cái loa nói. “Vụ xâm phạm an ninh đã được kiểm soát. Nhân viên bị lây bệnh đã được vô hiệu hóa, và không có thêm thương vong nào.”

Tôi thở phào ra.

“Tuy nhiên…”

“Chết tiệt,” Julie thì thầm.

“… nguồn gốc của vụ xâm phạm vẫn còn tự do bên trong thành phố của chúng ta. Đội tuần tra an nình sẽ bắt đầu lục soát từng nhà một trong Sân vận động. Vì chúng ta không biết vật này đang trốn ở đâu, tất cả mọi người nên ra khỏi nhà và tập trung ở một nơi công cộng. Xin đừng tự nhốt mình trong một nơi chật hẹp.” Rosso dừng lại hắng giọng. “Rất xin lỗi các bạn vì điều này. Chúng tôi sẽ xử lý mọi việc, xin các bạn hãy… bình tĩnh.”

Có một tiếng cách, rồi loa phóng thanh im bặt.

Julie đứng bật dậy và chạy vào phòng ngủ. nàng kéo rèm lên cho ánh đèn tràn qua cửa sổ. “Đến giờ dậy rồi, cô Greene, chúng ta không còn nhiều thời gian nữa đâu. Cậu có nhớ lối ra cũ nào trong đường hầm trên tường không? Có đúng là có lối thoát hiểm cứu hỏa đâu đó gắn lô ghế trên không nhỉ? R này, anh đã trèo được thang chưa?”

“Đợi đã, cái gì?” Nora cất tiếng khàn khàn hỏi và cố che mắt. “Có chuyện gì thế?”

“Theo như bạn của R thì cái thế giới Xác Sống tệ hại này kết thúc rồi, đấy là nếu bọn mình không bị giết trước đó.”

Cuối cùng thì Nora cũng tỉnh hẳn. “Xin lỗi, cái gì cơ?”

“Tí tớ sẽ kể cho cậu sau. Họ vừa mới thông báo tuần tra. Bọn mình có khoảng mười phút. Bọn mình cần phải tìm…” Giọng nàng nhòe đi và tôi chỉ biết ngắm miệng nàng chuyển động. Hình dáng môi nàng tạo thành từng từ, cách cái lưỡi nàng đập đập vào hàm răng trắng lấp lánh. Nàng đang bám lấy niềm hy vọng còn tay tôi thì đang tuột dần. Nàng vừa nói vừa quấn một lọn tóc quanh ngón tay, lọn tóc vàng bết lại cứng đơ và đang cần được gội.

Mùi cay cay từ dầu gội đầu của nàng, các thứ hoa, thảo mộc và quế trộn cùng mùi dầu tự nhiên của nàng. Nàng không bao giờ chịu nói mình dùng loại dầu gội nào. Nàng thích giữ bí mật về mùi hương của mình.

“R!”

Julie và Nora đang nhìn tôi chờ đợi. Tôi mở miệng định nói, nhưng không biết nói gì. Và rồi cửa trước của ngôi nhà bật mở mạnh đến nỗi nó vang vọng khắp các bức tường kim loại đến tận chỗ chúng tôi. Tiếng ủng dậm mạnh kêu rầm rầm trên cầu thang.

“Ôi Chúa ơi,” Julie hốt hoảng thốt lên. Nàng dẫn chúng tôi ra khỏi phòng và vào nhà tắm ngoài hành lang. “Trang điểm lại cho anh ấy đi,” nàng rít lên với Nora, và đóng sầm cửa lại.

Trong khi Nora luống cuống mở hộp phấn để tô lại bộ mặt ướt nước mưa của tôi nghe thấy hai giọng nói ngoài hành lang.

“Bố, có chuyện gì thế? Đã tìm ra Xác Sống đó chưa ạ?”

“Chưa, nhưng sẽ tìm được thôi. Con có nhìn thấy gì không?”

“Không, con vẫn ở nhà mà.”

“Con có một mình thôi à.”

“Vâng, con đã ở đây từ tối qua.”

“Sao đèn trong nhà tắm lại bật?”

Có tiếng chân bước về phía chúng tôi.

“Đợi đã, bố! Đợi một giây!” Nàng khẽ hạ giọng xuống. “Nora và Archie đang ở trong đấy.”

“Thế sao con lại nói là con chỉ có một mình? Đây không phải là lúc để đùa, Julie ạ, không phải là lúc để chơi trốn tìm.”

“Họ đang… bố biết đấy… ở trong ấy.”

Một thoáng ngần ngừ rât ngắn. “Nora và Archie,” ông quát vọng qua cửa, giọng gấp gáp và rất to. “Các cháu vừa nghe loa thông báo có vụ xâm phạm rồi đấy. Ta không thể nghĩ ra được một thời điểm ít thích hợp hơn để ân ái. Ra khỏi đó ngay.”

Nora đẩy tôi dựa vào bồn rửa mặt và dúi mặt tôi vào ngực cô đúng lúc ông Grigio giật tung cửa ra.

“Bố!” Julie thét lên, liếc Nora một cái thật nhanh khi cô đẩy tôi ra.

“Ra đây ngay lập tức,” ông Grigio nói.

Chúng tôi ra khỏi nhà tắm. Nora chỉnh lại quần áo và vuốt tóc, tỏ vẻ ngượng ngùng khá giống thật. Tôi cứ nhìn ông Grigio không chút hối lỗi, chuẩn bị sẵn thanh quản cho bài kiểm tra quan trọng đầu tiên và có lẽ cũng là cuối cùng. Ông nhìn lại tôi với bộ mặt căng thẳng, góc cạnh ấy, mắt xoáy vào mắt tôi. Chúng tôi cách nhau chưa đầy hai bước chân.

“Chào cậu, Archie,” ông nói.

“Chào bác ạ.”

“Cậu và cô Greene đang yêu?”

“Vâng ạ.”

“Tuyệt lắm. Cô cậu đã nghĩ đến chuyện cưới xin chưa.”

“Chưa ạ.”

“Còn chần chừ gì nữa. Có gì phải đợi đâu. Đây là những ngày cuối rồi. Cậu sống ở đâu, Archie?”

“Sân… Goldman ạ.”

“Nhà thi đấu Goldman chứ?”

“Vâng ạ. Xin lỗi bác.”

“Cậu làm việc gì ở nhà thi đấu Goldman.”

“Làm vườn ạ.”

“Việc đó có đủ cho cậu và Nora nuôi con không?”

“Chúng cháu không có con ạ.”

“Con cái sẽ thay thế khi chúng ta chết. Khi có con, cậu sẽ cần phải nuôi chúng. Tôi được biết là mọi chuyện ở Nhà thi đấu Goldman rất xấu. Tôi được biết là các cậu đang hết tất cả mọi thứ. Chúng ta đang sống trong một thế giới thật đen tối, phải không Archie.”

“Thỉnh thoảng ạ. Không phải luôn luôn.”

“Chúng ta cố gắng hết sức với những gì được Chúa ban cho. Nếu Chúa cho chúng ta đá trong khi chúng ta xin bánh mì, thì chúng ta sẽ mài sắc răng mà ăn đá.”

“Hoặc là tự làm… bánh mì ạ.”

Ông Grigio mỉm cười. “Cậu bôi phấn đấy à, Archie?”

Ông Grigio đâm tôi.

Tôi thậm chí còn không nhận ra lưỡi dao bị rút khỏi vỏ. Con dao dài mười hai phân đâm lút vào vai tôi rồi xuyên sang phía bên kia, ghim tôi vào tường. Tôi không cảm thấy gì và cũng không giật mình. Vết thương không chảy máu.

“Julie!” ông Grigio gầm lên, lùi ra khỏi tôi và rút súng, mắt trợn ngược trong hố sâu hoắm. “Con đã đem Người Chết vào thành phố này sao! Vào nhà của ta! Con đã để Người Chết chạm vào mình sao!”

“Bố, nghe con đã!” Julie nói, chìa tay về phía ông. “R rất khác! Anh ấy đang thay đổi!”

“Người Chết không thay đổi, Julie! Chúng không có trí não và không có tâm hồn!”

“Làm sao chúng ta biết được? Chỉ vì họ không nói chuyện với chúng ta và kể cho chúng ta nghe về cuộc sống của họ ư? Chúng ta không hiểu được ý nghĩ của họ và vì thế chúng ta cho rằng họ không có ý nghĩ nào ư?”

“Chúng ta đã kiểm tra! Người Chết không hề có dấu hiệu tự nhận thức hay có phản ứng tình cảm nào hết!”

“Chính bố cũng không, bố ạ! Trời đất ơi - R đã cứu mạng con! Anh ấy đã bảo vệ con và đưa con về nhà! Anh ấy là người! Và còn nhiều người khác giống anh ấy nữa!”

“Không,” ông Grigio nói, đột nhiên bình tĩnh lại. Tay ông không run nữa và khẩu súng được giữ chắc, cách mặt tôi chỉ vài phân.

“Bố, xin bố hãy nghe con? Xin bố đấy?” Nàng tiến lại gần hơn. Nàng đang cố tỏ ra bình tĩnh, nhưng tôi có thể thấy là nàng đang hết sức hoảng sợ. “Khi con ở sân bay, một chuyện gì đó đã xảy ra. Chúng con đã châm ngòi cho một điều gì đó, và cho dù nó là cái gì đi chăng nữa thì nó cũng đang lan tỏa ra. Người Chết đang sống lại, họ đang rời khỏi tổ và đang cố thay đổi bản chất, và chúng ta phải tìm cách giúp họ. Bố thử tưởng tượng là chúng ta có thể chữa khỏi bệnh dịch này xem! Thử tưởng tượng là chúng ta có thể dọn sạch những rắc rối này và bắt đầu lại từ đầu!”

Ông Grigio lắc đầu. Tôi có thể thấy các cơ hàm của ông cuộn lên dưới lớp da trắng bệch. “Julie, con còn trẻ. Con không hiểu nổi thế giới này. Chúng ta có thể sống sót và chúng ta có thể giết những thứ muốn giết chúng ta, nhưng không có giải pháp tổng thể nào hết. Chúng ta đã tìm kiếm suốt bao năm nay mà không tìm được gì, và giờ thì thời hạn đã hết. Thế giới đã kết thúc. Nó không thể được chữa lành, nó không thể được vá víu lại, nó không thể được cứu vãn.”

“Có chứ!” Julie hét lên với ông, mất hết mọi vẻ bình tĩnh. “Ai là người có quyền quyết định cuộc sống la một cơn ác mộng? Ai viết nên những điều luật khốn kiếp ấy? Chúng ta có thể sửa chữa được nó, chỉ là chúng ta chưa bao giờ thử mà thôi! Chúng ta đã quá bận bịu, ích kỷ và sợ sệt!”

Ông Grigio nghiến chặt răng. “Con là người mơ mộng. Con còn là trẻ con. Con chẳng khác nào mẹ con.”

“Bố, nghe con đi!”

“Không.”

Ông lên cò súng và gí nó vào trán tôi, ngay trên miếng băng dính của Julie. Nó đây. Cái sự trớ trêu thường trực của âm đây. Cái chết không thể tránh khỏi, vốn đã bỏ qua tôi suốt bao nhiêu năm trong khi tôi ngày ngày thèm khát nó, giờ lại xuất hiện đúng lúc tôi muốn sống vĩnh viễn. Tôi nhắm mắt lại và chuẩn bị tinh thần.

Máu ấm bắn lên mặt tôi - nhưng không phải là máu của tôi. Tôi mở choàng mắt đúng lúc con dao của Julie sượt qua tay ông Grigio. Khẩu súng bắn ra khỏi tay ông và cướp cò lúc nó rơi xuống sàn, rồi lại nhả ra một tràng đạn nữa khi nó bị dội ngược trở lại giữa những bức tường hẹp của hành lang như một quả bóng nảy bật khắp nơi. Tất cả co dúm người tránh đạn, và cuối cùng khẩu súng quay tít chạm vào chân Nora. Trong sự im lặng như tờ, cô trố mắt nhìn nó, rồi nhìn sang vị tướng. Ông lao đến, ôm lấy bàn tay bị đâm. Nora chộp lấy khẩu súng trên sàn và chĩa nó vào mặt ông. Ông đứng im. Quai hàm ông nghiến chặt và ông tiến tới như thể vẫn định lao đến. Nhưng rồi Nora đẩy băng đạn đã hết ra lôi một băng mới từ trong túi xách ấn nó vào khẩu súng và lên một viên vào ổ đạn, tất cả bằng một động tác nhuần nhuyễn mà không rời mắt khỏi ông. Ông Grigio lùi lại.

“Đi đi,” cô nói, đưa mắt nhìn Julie. “Tìm cách ra khỏi đây đi. Cố lên.”

Julie nắm lấy tay tôi. Chúng tôi lùi ra khỏi phòng trong khi bố nàng đứng đó run lên vì giận dữ.

“Tạm biệt bố,” Julie khẽ nói. Chúng tôi quay người chạy xuống cầu thang.

“Julie!” ông Grigio gào lên, và âm thanh ấy khiến tôi nhớ đến một âm thanh khác, tiếng hú trống rỗng của một cái tù và hỏng, giống tới mức tôi run rẩy trong chiếc áo ướt.

* * *