Lồ quả là một tên láu cá và có thiên bẩm về chiến trận.
Bàn bạc trong ban tham mưu đã thống nhất: cả bọn sẽ rút lên núi Chè Can Chư Sủ rồi từ đó chia ba ngả: Lồ rút về quê hắn ở Lao Pao Chải, Lùng về Hầu Thào, còn Xì Xám Mần và A Linh về đóng ở một thôn sát đường biên giới, tạo thế chân vạc; nhưng hắn lại bí mật tính toán đường đi nước bước riêng. Sáng ngày khởi sự, đợi cho Mần và A Linh lên đường, Lồ cho Lùng đi theo một con đường rừng song song với đường bọn kia đi, cũng là lên núi Chè. Như vậy, một mũi tên sẽ bắn trúng hai đích. Bọn A Linh và Mần sẽ thu hút sự chú ý của Việt Minh. Bọn Lùng cũng có nguy cơ bị Việt Minh phát giác. Trong khi đó, hắn sẽ ung dung tìm kế thoát thân Lồ đã lừa được Mần, A Linh, Lùng và lừa được cả Đắc.
Và bây giờ Đắc lại bị Lồ lừa lần nữa: Lồ không lên núi Chè. Đường ở chân hắn. Nơi chân người khác e dè, chân hắn không biết nề hà; hắn luồn lách theo bờ sông Chảy.
Ngày thứ hai, vượt khỏi vòng vây của du kích, đám quân của Lồ chia thành từng tốp nhỏ, như người đi chơi, đi chợ, thong dong trên những con đường mòn, qua các làng Hmông nhỏ, trở về Lao Pao Chải.
Lồ cũng theo những tốp ấy. Trên lưng ngựa, cùng với Seo Say, hắn xuyên qua các cánh rừng, những ngọn núi vắng bóng nhà.
Ngày thứ ba, hắn đã ở trên con đường nhỏ về làng quê. Seo Say thôi không nắm đuôi ngựa nữa. Lồ bế nàng đặt lên trước hắn và giật cương cho con ngựa đen phất đuôi phơ phởn, thong thả bước trên con đường quang.
Quả thật, lúc ấy Lồ như cởi hết cơn giận và buồn phiền. Trời như phụ hoạ với hắn, bừng nắng sớm và ở phía quê hắn, những vệt mây óng vàng chói lọi giống như những ánh hào quang phất lên đón chào.
Phấn chấn, hắn huých ngựa. Trong tiếng vó ngựa, máu hắn lai chảy rộn ràng và người hắn lại như bừng lên một nguồn năng lượng mới. Chao ôi! Muôn vàn cái khó đã qua rồi. Hắn đã vượt ra khỏi vòng cương toả, không quay về quy thuận bọn ngoại tộc như mưu kế dẫn dụ của Mần và A Linh. Cái mộng bá chủ thiên hạ của bọn Tàu, Lồ không lạ. Với A Linh, còn chăng là chút dư vị ái ân thuở đã xa. Hắn lại dồi dào sức lực. Tay hắn vẫn cứng như lời ông nội Lồ Pláy hắn dạy. Ôi, giờ đây hắn mới nhận ra rằng, làng quê, cái nơi chôn nhau cắt rốn của hắn mới thực sự là cái nôi của cả đời hắn. Sao hắn lại bỏ làng quê mà đi? Ngu dại quá! Làng quê, nơi hắn có sức mạnh của dòng họ Châu, niềm tin thánh thần của dân làng, nơi hắn có ông nội xù xì như cái cội gốc của tất cả những ao ước, sức lực. Hắn đang trở về cái cội gốc của tất cả, để rồi lại mạnh mẽ lên, rồi lại lên ngựa ra roi, vung kiếm.
Con ngựa đen soải những bước dài qua khu đồng hoang, men theo những bãi cỏ hoa cau đế nở xanh thẫm, những triền đồi trắng hoa giềng dại.
- Say à, đừng giận tôi nhé.
Say ngồi thõng hai chân một bên cổ ngựa, giữa hai cánh tay vạm vỡ của Lồ. Người nàng hâm hấp nóng. Cuộc chạy trốn dường như đã vắt kiệt sức của nàng. Nàng chẳng nói một lời.
- Ta trừ hết bọn chúng rồi… trên đời giờ chỉ còn có em thôi, Say à.
Gió ngược, mạnh như đập vào mặt ngựa. Bờm ngựa rối tung. Tiếng Lồ trượt trong gió. Hắn thấy lòng chợt lắng xuống dịu dàng, trìu mến và thoáng chút ân hận. Khoảng khắc ấy thật là hiếm hoi trong cuộc đời luôn luôn căng thẳng, dữ dội của hắn. Hay là vì giờ đây, hắn đã nhận ra sự quen thuộc của cảnh vật bản quê và ngửi thấy hơi hướng mơ hồ của cây hoa bạc hà, mùi cỏ thơm, và chút ký ức về một thời thiếu niên trong sạch chợt thức dậy trong tâm khảm?
Nhưng sự trìu mến của hắn không được Seo Say tiếp nhận. Hắn cảm thấy như thế. Hắn thét một tiếng, ghì chặt cương, ghìm ngựa. Con ngựa tức giận, dựng hai vó lên trời, bổ xuống, đứng lại. Say ngước cặp mắt nhìn hắn đầy vẻ oán trách rồi sập mi mắt. Bờm ngựa và hai cánh tay Lồ như cái đai ép làm nàng nghẹt thở. Nàng quằn quại, cố nén cơn đau dội lên từ gan ruột. Và trong chốc lát, mặt nàng đang nhợt trắng đỏ dần lên rồi tím sẫm lại, thân nàng đang hâm hấp nóng nguội dần rồi lạnh toát. Nàng cố để không tuột khỏi tay Lồ, và cuối cùng nàng bập miệng vào cánh tay Lồ để cắn. Nhưng nàng không còn hơi sức để làm nốt cái việc bộc lộ lòng yêu cuồng dại cay đắng ấy, nàng ật cổ, mép sùi bọt trắng. Nàng đã ăn thuốc phiện lúc sáng nay để chết.
- Trời!
Lồ rụng rời, tuột tay cương. Nàng Seo Say yêu dấu, người đàn bà cả cuộc đời toàn gặp bất hạnh, những tưởng mãn đời sẽ thờ phụng Lồ khi gắn bó tự nguyện với Lồ, giờ đây biết mình đã lầm, đã lạnh cứng, lăn từ trên lưng ngựa xuống đất.
Kinh hãi và bội bạc, tàn nhẫn, Lồ không xuống ngựa, hắn quay mặt đi và thúc ngựa phi thẳng về Lao Pao Chải. Ngược gió, con ngựa cạn sức rất nhanh. Mặt Lồ ê ẩm vì cát bụi. Qua cổng làng có cái trụ đá cổ xưa, hắn cho ngựa chạy chậm lại và lúc ấy mới thật bàng hoàng.
"Cái gì vừa xảy ra ấy nhỉ? Hừ, ta chạy ngược gió có một mình. Điềm xấu gì rồi?" Con ngựa bước uể oải vào làng. Hắn đã trở nên cô đơn, lẻ loi rồi chăng? Cảm giác ấy càng xâm chiếm lòng hắn vì cái thôn Lao Pao Chải lúc này sao vắng vẻ tẻ nhạt! Thôn họ Châu, vẻ già nua bốc lên từ mỗi nóc nhà mốc meo loang lổ các mảng rêu đỏ. Những đống phân ngựa ẩm, hôi khẳn, mọc những cái nấm trắng hoang dại. Trai làng đâu cả rồi? Trên mình ngựa mấy năm chinh chiến giờ chúng đã bị Việt Minh tóm cổ cả rồi chăng?
Thắc mắc của Lồ được giải đáp ngay. Cái thôn buồn tẻ bỗng nổi tiếng chân ngựa. Tựa như các thiên binh thiên tướng nhà trời bay xuống, một đoàn hơn chục con ngựa, từ cuối thôn đã ào tới trước Lồ. Thì ra đây là bọn vệ sĩ, sảo quán, quân lính của Lồ mới trở về. Chúng đã làm xong cái công việc là đuổi giạt mấy anh cán bộ Việt Minh đang công tác ở đây đi. Chúng quây lấy Lồ, kể công tích và reo mừng:
- Na nủ! Na nủ về rồi!
- Na nủ người trời về rồi! Na nủ người trời về rồi!
Lồ cảm thấy được an ủi. Hắn dong ngựa đi đầu. Bọn trai trẻ trên ngựa chen nhau đi sau. Hai bên đường, người đã từ trong nhà bước ra, đàn ông, đàn bà trẻ con chắp tay lễ hắn. Có ông cụ còn quì xuống lạy hắn. Và ở sân nhà hắn, cờ xanh cở đỏ cắm la liệt như ngày hội, ngày lễ tết. Người đang túm tụm, vây quanh hắn. Hắn nhổm trên mình ngựa, cao hứng, vung tay:
- Pê tu Hmông trang! Anh em người Hmông ta! - Hắn nói như nói với lính dưới quyền, trơn tru, không vấp váp - Ta là người trời cho ngọc, về đây cùng anh em một lòng đánh lại bọn Cộng sản Việt Minh. Ta giữ đất Hmông! Ta giữ quê bản! Ta là chúa đất này!
Quanh hắn người ta nhôn nhao cười nói. Có một gã gào thật to:
- Ta đã có na nủ người trời, giờ sắp có phua thay rồi.
Lúc đó từ trong nhà hắn, có hai người đi ra. Một người già cao lớn, mặt đỏ phừng, mặc áo lanh quần lanh không nhuộm, và một lão béo ú, thấp người, mặt tròn phèn phẹt, nốt ruồi ở cằm loăn xoăn ba cái lông, ria mép nhọn hoắt. Đó là lão Pláy, ông nội Lồ và lão thầy cúng A Đa, lão này trước ở Can Chư Sủ, Lồ mới quen biết ít lâu nay.
Lão Pláy kéo tay Lồ đi vào hiên. Lão quản ma chắp tay vái Lồ:
- Tôi biết mệnh na nủ còn trường mà. Nguỵ Diện lừa được cha con Tư Mã Ý vào hang Thượng Phương rồi, Khổng Minh truyền nổi lửa, tưởng phen này cha con Tư Mã ý thành tro, khói, thế mà tự dưng trời đổ mưa. Na nủ qua hiểm nguy càng vinh thăng. Na nủ về đúng ngày con cừu, ngày vua Hmông ta ra đây!
Lồ cau mày, nhìn cái nốt ruồi ở cằm lão béo, bỗng sa sầm, quay đi. “Mẹ nó chứ! Đi đến đâu cũng gặp thằng ngoại tộc!”. Nhưng ý nghĩ đó lập tức bị bật ra khỏi hắn.
Lão Pláy quay lại, nhìn hắn, bất ngờ.
- Con Seo Say đâu?
Lồ không đáp, cổ thấy ngưa ngứa, khó chịu. Lão Pláy cười hơ hớ, cái cười còn đầy khí lực ham muốn. Người hầu trong nhà bưng ra một chậu nước cho Lồ rửa mặt. Lão Pláy bảo:
- Ừ, mày nghỉ một tí rồi đi tìm thằng bố mày về đây!
Lồ há hốc mồm, lão Pláy trợn mắt:
- Mày không biết nó, hả? Đ. mẹ cái thằng, trồng cây mía hoá ra cây lau. Nó là seo phải, thế mà nó theo mấy thằng Việt Minh. May, chúng mày về đánh, nó chạy vào rừng rồi. Mày đi bắt nó về, tế tao. Tao là vua sắp ra đây!
Lồ đánh rơi cái khăn xuống chậu nước. Vừa lúc ấy trên trời cao có tiếng máy bay.
Hôm sau, hai lần máy bay tới, lượn một vòng rồi bỏ đi. Lồ chạy theo, gào chửi: Đ. mẹ, thằng mũi lõ, mặt mốc nhé!
Hôm sau nữa, hắn đốt ba đống lửa. Chiếc máy bay tới, vòng quanh, ngẫm nghĩ rồi lại quay đi. Lửa thì Việt Minh cũng đốt được! Dại nhiều lần rồi. Hôm sau nữa, tiếc rẻ, chiếc máy bay lại tới. Lồ trải một tấm lanh ra sân. Máy bay thả xuống một tờ giấy có dòng chữ: "Nếu phải người bên ta thì rải ra một lá cờ tam tài ra sân". Đào đâu ra cờ tam tài bây giờ! Lồ điên đầu. Nhưng rồi khâu chắp vội vàng, màu sắc nhôm nhoam, cũng được một lá cờ Tây. Nhận được tín hiệu làm tin, máy bay thả xuống một hòm lựu đạn lửa, một tạ gạo, mười cái mề đay.
Khốn nạn! So với những cuộc tiếp tế trước đây, từng ấy thứ thấm tháp gì. Nhưng Lồ không thất vọng. Hôm sau nữa, hắn có điện đài. Và từ hôm đó, hắn lại hồi sinh. Phơ-rô-pông đã có mặt trên bầu trời Lao Pao Chải. Đức cha đã tìm thấy con chiên lạc!
Nhưng cái may lại kéo cái rủi đến cho Lồ.
Lúc này hắn cần giữ kín để xây dựng lực lượng thì chiếc máy bay lại thành tên chỉ điểm tin cậy của Việt Minh.
Đắc cay vì bị Lồ lừa, đang lùng sục ở dưới sông Chảy, được tình báo báo cho biết tin này, liền điều hai đại đội bộ đội và du kích lên vây Lao Pao Chải.