Vũ Khí Bóng Đêm 2: Thành Phố Tro Tàn

Chương 14: Can trường

Khi Clary tỉnh giấc, ánh sáng đang chiếu qua những ô cửa sổ và má trái cô đột nhiên thấy nhói đau. Lăn mình sang bên, cô thấy mình ngủ gục trên vở nháp và cạnh vở chọc vào mặt. Cô cũng đánh rơi bút xuống chăn, để lại vết ố đen loang trên lớp vải. Cô rên rỉ ngồi thẳng dậy, ảo não xoa má và đi tới nhà tắm.

Nhà tắm phơi ra những dấu hiệu lồ lộ của các hoạt động tối qua, mấy chiếc khăn vấy máu nhét vào thùng rác cùng vết máu phết qua bồn rửa mặt. Rùng mình, Clary chui vào bồn tắm cùng với chai sữa tắm hương bưởi, quyết gột sạch cảm giác khó chịu còn nán lại trong người.

Sau đấy, người quấn trong chiếc áo khoác tắm của chú Luke và tấm khăn cuộn quanh mái tóc ẩm, Clary đẩy mở cửa phòng tắm thì thấy Magnus đang chờn vờn đứng bên kia cửa, một tay cầm khăn tắm và một tay đang vò mái tóc sáng lấp lánh. Hẳn anh ta đã dùng khăn làm gối, cô nghĩ, vì một bên mái tóc vuốt dựng hơi bị xẹp. “Sao con gái tắm lâu thế chứ?” pháp sư phàn nàn. “Những cô gái loài người, nữ Thợ Săn Bóng Tối, nữ pháp sư, ai cũng như ai. Tôi ngồi đợi tới già mất.”

Clary tránh sang bên cho anh ta đi qua. “Mà anh bao nhiêu tuổi rồi?” cô tò mò hỏi.

Magnus nháy mắt với cô. “Tôi sống từ thời Biển Chết chỉ là một cái hồ nhỏ xíu.”

Clary đảo mắt.

Magnus xua cô đi. “Giờ dịch mông sang bên hộ cái. Tôi cần vào đó, tóc tôi xộc xệch hết rồi.”

“Đừng dùng hết sữa tắm của tôi, đắt lắm đấy,” Clary bảo anh ta, đoạn đi thẳng vào bếp tìm vài bộ lọc và cắm máy pha cà phê hiệu Mr. Coffee. Tiếng nước sôi sùng sục quen thuộc và mùi cà phê làm dịu đi cảm giác bất an trong cô. Chỉ cần thế giới còn cà phê thì mọi chuyện đâu thể quá tệ được?

Cô trở về phòng ngủ để mặc quần áo. Mười phút sau, trong chiếc quần bò và áo len sọc xanh lam xanh lục, cô vào phòng khách đánh thức chú Luke. Chú rên rẩm ngồi dậy, tóc bù xù và mặt còn ngái ngủ.

“Chú thấy sao rồi?” Clary hỏi, đưa cho chú chiếc cốc mẻ đầy cà phê nghi ngút khói.

“Thấy đỡ hơn rồi.” Chú Luke liếc nhìn phần vải rách của chiếc áo sơ mi; rìa chỗ rách dính máu. “Maia đâu?”

“Cô ấy ngủ trong phòng chú, chú nhớ không? Chú bảo cô ấy ngủ tại đó cũng được.” Clary ngồi ghé lên tay ghế sô pha.

Luke dụi dụi đôi mắt trũng sâu. “Chú không nhớ rõ chuyện tối qua lắm,” chú thừa nhận. “Chú nhớ ra ngoài cất xe rồi sau đó thì chẳng nhớ gì nữa.”

“Có vài con quỷ nấp ở ngay bên ngoài. Chúng tấn công chú. Jace và cháu đã xử lý chúng rồi.”

“Quỷ Drevak nữa à?”

“Không.” Clary ngập ngừng. “Jace bảo chúng là quỷ Raum.”

“Quỷ Raum?” Chú Luke ngồi thẳng dậy. “Những con đó mạnh lắm. Quỷ Drevak là mấy con bọ nguy hiểm, nhưng quỷ Raum…”

“Không sao đâu chú,” Clary nói. “Chúng cháu xử lý xong chúng rồi.”

“Cháu xử lý? Hay Jace xử lý? Clary, chú không muốn cháu…”

“Không phải vậy.” Cô lắc đầu. “Chỉ là…”

“Magnus không ở đây sao? Sao anh ta không đi cùng các cháu?” chú Luke ngắt lời, rõ là đang cáu.

“Tôi đang bận chữa trị cho Maia, đó là lý do đấy,” Magnus vừa nói vừa đi vào phòng khách, mang theo hương bưởi ngào ngạt. Mái tóc của pháp sư được cuốn gọn trong khăn và anh ta mặc bộ đồ thể thao thùng thình bằng vải sa tanh xanh sọc trắng bạc. “Lòng biết ơn đâu rồi ấy nhỉ?”

“Tôi rất biết ơn.” Chú Luke nhìn như thể vừa giận vừa cố nín cười. “Chỉ là nếu có chuyện với Clary…”

“Anh sẽ chết nếu tôi đi cùng họ,” Magnus nói rồi ngồi phịch xuống ghế. “Cô bé đây và Jace xử lý lũ quỷ ổn lắm, đúng không?” Anh ta quay sang Clary.

Cô lúng túng. “Ừ thì, đấy chỉ là…”

“Chỉ là cái gì?” Là Maia, vẫn trong bộ quần áo cô ta mặc đêm qua, có khoác thêm chiếc áo vải flannel rộng thùng thình của chú Luke bên ngoài áo sơ mi. Cô ta loạng choạng đi qua phòng và thận trọng ngồi xuống ghế. “Có phải tôi ngửi thấy mùi cà phê không nhỉ?” cô ta vừa phấp phỏng hỏi vừa nhăn nhăn mũi.

Thiệt chứ, Clary thầm nghĩ, người sói mà dễ thương và hấp dẫn vậy thật chẳng công bằng gì cả; đáng ra cô ta phải to con và lông lá rậm rạp, có khi còn có lông mọc ra khỏi tai nữa ấy chứ. Và đó, Clary thầm thêm vào, chính xác là lý do vì sao mình không có bạn gái và lúc nào cũng chỉ chơi với mỗi Simon. Mình phải bình tĩnh lại mới được. Cô đứng dậy. “Cậu muốn tớ lấy cho cậu một cốc không?”

“Có.” Maia gật đầu. “Thêm sữa và đường nhé!” cô ta gọi theo khi Clary rời phòng, nhưng khi Clary từ bếp trở vào với cốc cà phê nghi ngút khói trên tay, Maia đang nhíu mày bối rối. “Tớ không nhớ nhiều về chuyện tối qua,” cô nàng nói, “nhưng có gì đấy về Simon, có gì đấy làm tớ băn khoăn…”

“Ừ thì cậu định giết cậu ấy,” Clary nói, và ngồi xuống tay ghế. “Có lẽ là điều ấy đấy.”

Maia trắng bệch, nhìn chằm chằm vào cốc cà phê. “Tớ quên mất. Giờ cậu ấy thành ma cà rồng rồi.” Cô ngước nhìn Clary. “Tớ không định làm cậu ấy bị thương. Chỉ là…”

“Ừ?” Clary nhướn mày. “Là làm sao?”

Gương mặt Maia từ từ đỏ lên. Cô đặt cốc cà phê xuống bàn.

“Cô nên nằm xuống,” Magnus khuyên nhủ. “Tôi phát hiện ra rằng làm thế sẽ đỡ lắm đấy khi cảm giác tan nát từ một hiện thực đau lòng đang ngấm vào.”

Đột nhiên mắt Maia ầng ậc nước. Clary sợ hãi nhìn Magnus - anh ta có vẻ cũng choáng - rồi lại nhìn chú Luke. “Làm gì đi chú,” cô rít lên nho nhỏ với chú. Có thể Magnus là pháp sư đại tài có khả năng chữa lành những vết thương chí tử chỉ với một ngọn lửa xanh, nhưng giữa hai người thì chú Luke mới là lựa chọn hàng đầu trong việc giải quyết rắc rối của các cô gái tuổi teen đang trong cơn khóc lóc thảm thiết.

Chú Luke bắt đầu đá chăn ngồi dậy, nhưng trước khi chú kịp đứng lên, cánh cửa trước bật mở và Jace bước vào, theo sau là Alec cầm theo một chiếc hộp trắng. Magnus vội vàng kéo khăn khỏi tóc và vứt ra sau ghế. Không có gel và kim tuyến, mái tóc vị pháp sư sậm màu thẳng tuột, dài gần xuống vai.

Ánh mắt Clary ngay lập tức hướng tới Jace, như một thói quen; cô không thể ngăn bản thân, nhưng may mà những người khác dường như không để ý. Jace có vẻ bị kích động, mệt mỏi và căng thẳng, cũng như là kiệt sức, hai mống mắt thâm quầng. Ánh mắt anh chỉ thoáng liếc qua cô nhưng không biểu lộ bất kỳ một loại cảm xúc nào rồi dừng lại nơi Maia, vẫn đang khóc lóc trong câm lặng và hình như không nhận ra sự hiện diện của hai người mới. “Có vẻ ai nấy đều vui vẻ nhỉ,” anh nhận xét, “Giữ vững tinh thần chăng?”

Maia dụi mắt. “Bực quá,” cô làu bàu. “Tôi ghét khóc trước mặt các Thợ Săn Bóng Tối.”

“Vậy vào phòng khác mà khóc,” Jace nói, giọng không chút ấm áp nào. “Chúng tôi cũng đâu cần cô ngồi đó dỗi hờn trong khi chúng tôi nói chuyện, nhỉ?”

“Jace,” chú Luke cảnh cáo, nhưng Maia đã đứng dậy, quày quả ra khỏi phòng qua lối cửa bếp.

Clary quay qua Jace. “Nói chuyện hả? Mọi người đâu có nói gì đâu.”

“Nhưng giờ sẽ nói,” Jace nói và ngồi phịch xuống ghế đàn dương cầm mà duỗi thẳng chân. “Magnus đang muốn hét vào mặt anh này, có đúng không thưa ngài Magnus?”

“Đúng,” Magnus đáp, chỉ ngừng lườm nguýt Alec một thoáng để cau mày với Jace. “Cậu ở chỗ quái nào thế? Tôi nghĩ tôi đã nói rõ rằng cậu phải ở trong nhà cơ mà.”

“Tôi nghĩ anh ấy không có quyền lựa chọn,” Clary nói. “Tôi nghĩ Jace phải ở nơi nào có anh. Anh biết đó, do phép thuật thôi.”

“Thường là vậy thật,” Magnus gắt gỏng, “nhưng đêm qua, sau mọi chuyện tôi đã làm, phép thuật của tôi bị… suy yếu.”

“Suy yếu ư?”

“Đúng.” Magnus có vẻ tức giận hơn bao giờ hết. “Kể cả Đại Pháp Sư khu Brooklyn đi nữa thì cũng không có được nguồn lực vô hạn đâu. Tôi cũng chỉ là người. Ừm,” anh ta sửa lại, “đúng ra là nửa người.”

“Nhưng anh phải biết rằng nguồn năng lượng của mình bị suy yếu chứ,” chú Luke tàn nhẫn nói, “phải không?”

“Đúng, và tôi đã bắt thằng khỉ kia thề phải ở trong nhà rồi,” Magnus quắc mắt lên với Jace. “Giờ tôi biết lời hứa danh dự của Thợ Săn Bóng Tối có giá trị quá nhỉ.”

“Anh cần phải biết cách buộc tôi giữ lời hứa,” Jace không hề nao núng. “Chỉ có thề trước Thiên Thần mới có ý nghĩa.”

“Đúng vậy,” Alec nói. Đây là lời nói đầu tiên kể từ khi hai người họ đặt chân vào nhà.

“Tất nhiên là đúng.” Jace cầm cốc cà phê chưa động tới của Maia và nhấp một ngụm. Anh nhăn mặt. “Có đường.”

“Vậy cậu ở đâu cả đêm qua hả?” Magnus hỏi, giọng chua loét. “Cùng Alec hả?”

“Tôi không ngủ được, thế là tôi đi dạo,” Jace đáp. “Khi trở lại, tôi đụng phải cái thằng khỉ mặt buồn thiu đang ngồi mơ màng trước hiên nhà này.” Anh chỉ Alec.

Mặt Magnus sáng rực. “Cậu ở đây cả đêm qua à?” anh ta hỏi Alec.

“Không,” Alec đáp. “Tôi về nhà rồi trở lại. Tôi mặc đồ khác rồi, thấy không? Nhìn đi.”

Mọi người đều nhìn. Alec mặc áo len tối màu và quần bò, y như ngày hôm qua. Clary quyết định không nói gì để anh ta đỡ ngượng. “Trong hộp có gì thế?” cô hỏi.

“À.” Alec nhìn vào hộp như thể đã quên mất. “Có gì đâu, bánh vòng ấy mà.” Anh ta mở hộp rồi đặt xuống bàn. “Mọi người muốn ăn không?”

Hóa ra, mọi người đều muốn. Jace muốn những hai cái. Sau khi ăn hết chiếc bánh phủ kem Boston mà Clary đưa, chú Luke dường như có thêm chút sinh khí; chú đá chăn ra và ngồi tựa lưng vào ghế. “Có một chuyện chú không hiểu được,” chú nói.

“Chỉ có một thôi sao? Chú tiến bộ hơn tất cả bọn cháu rồi,” Jace nói.

“Hai đứa đi ra ngoài tìm chú khi không thấy chú trở về,” chú Luke nói, nhìn cả Clary lẫn Jace.

“Ba người ạ,” Clary nói, “Simon đi cùng nữa.”

Chú Luke có vẻ bị đau. “Được. Ba người bọn cháu. Và có hai con quỷ, nhưng Clary nói các cháu không giết con nào. Vậy là sao?”

“Cháu đáng ra đã giết được một con, nhưng nó trốn mất,” Jace nói. “Nếu không thì…”

“Nhưng sao nó phải bỏ chạy?” Alec hỏi vặn. “Hai con quỷ, ba người các cậu - nó thấy bị áp đảo à?”

“Tôi không có ý xúc phạm những người liên quan, nhưng chỉ có một trong số ba người có khả năng chiến đấu, và đó là Jace,” Magnus nói. “Một Thợ Săn Bóng Tối chưa qua đào tạo và một ma cà rồng chết nhát…”

“Em nghĩ chắc là do em,” Clary nói. “Em nghĩ có lẽ em đã dọa nó chạy mất.”

Magnus chớp mắt. “Không phải tôi vừa nói…”

“Em không có ý nói em dọa chúng chạy vì chính em cũng sợ chết đi được. Em nghĩ là vì thứ này.” Cô giơ tay, để họ nhìn thấy Ấn Ký trên mặt trong cánh tay.

Mọi người đột nhiên im lặng. Jace nhìn cô một lúc rồi nhìn đi chỗ khác; Alec chớp chớp mắt, còn chú Luke có vẻ kinh ngạc. “Chú chưa từng thấy Ấn Ký này,” cuối cùng chú nói. “Có ai thấy Ấn Ký này chưa?”

“Chưa,” Magnus nói. “Nhưng tôi không thích nó.”

“Em cũng không biết nó là gì, và nó có ý nghĩa gì,” Clary nói và hạ tay xuống. “Nhưng nó không từ Sách Xám mà ra.”

“Tất cả các chữ rune đều từ cuốn Sách Xám.” Jace đoán chắc.

“Không phải cái này,” Clary nói. “Em thấy nó trong mơ.”

“Trong mơ á?” Jace tức giận như thể cô đang chủ đích thóa mạ anh. “Em đang chơi trò gì đây, Clary?”

“Em không đùa gì hết. Anh không nhớ khi chúng ta ở Triều Đình Seelie…”

Jace trông như thể vừa bị cô đánh. Clary nói tiếp, liến thoắng, trước khi anh kịp mở lời:

“… và Nữ Hoàng Seelie bảo rằng chúng ta là những vật thí nghiệm à? Rằng Valentine đã làm - đã làm vài điều với chúng ta, khiến chúng ta khác biệt, đặc biệt ấy? Bà ta nói em mang món quà của từ ngữ không thể nói lên, và của anh là món quà của chính Thiên Thần.”

“Đó là chuyện tào lao của thần tiên.”

“Thần tiên không nói dối, Jace ạ. Những từ không thể nói ra - bà ta muốn nói tới những chữ rune đấy. Mỗi từ có một ý nghĩa khác, nhưng chúng là phải được viết ra, chứ không phải nói ra.” Cô nói tiếp, lờ tịt vẻ nghi ngờ trên mặt anh. “Nhớ lúc anh hỏi làm sao mà em vào được xà lim tại Thành phố Câm Lặng không? Em nói em chỉ dùng chữ rune Mở thông thường…”

“Em chỉ cần làm thế sao?” Alec sửng sốt. “Anh tới đó ngay sau và anh thấy cảnh cửa như bị giật tung khỏi bản lề vậy.”

“Và chữ rune của em không chỉ mở cửa,” Clary. “Nó mở cả mọi thứ trong xà lim, tháo tung cùm của Jace.” Cô hít một hơi. “Em nghĩ Nữ Hoàng muốn nói em có thể vẽ ra những chữ rune mang quyền năng hơn những chữ rune thông thường. Và thậm chí tạo ra những con chữ mới.”

Jace lắc đầu. “Không ai có thể tạo ra những chữ rune mới…”

“Có thể con bé làm được, Jace.” Alec có vẻ ngẫm ngợi. “Quả thật, chúng ta chưa ai từng thấy chữ rune trên tay cô ấy.”

“Alec nói phải đấy,” chú Luke nói. “Clary, sao cháu không đi lấy tập phác thảo tới đây nhỉ?”

Cô ngạc nhiên nhìn chú. Đôi mắt xanh xám của chú hơi trũng sâu, hiện rõ sự mệt mỏi, nhưng sự kiên định trong đó vẫn y nguyên như hồi cô sáu tuổi, khi chú hứa nếu cô chịu trèo qua khu đu tay trong công viên Prospect, chú sẽ luôn đứng dưới sẵn sàng đỡ lấy cô nếu cô có ngã. Và chú luôn giữ lời.

“Okay,” cô nói. “Cháu quay lại ngay.”

Để vào phòng ngủ, Clary phải đi qua nhà bếp, nơi Maia đang ngồi trên chiếc ghế kéo đến cạnh quầy bếp, trông rất thảm thương, “Clary à,” cô nói và nhảy khỏi ghế. “Tớ nói chuyện với cậu một lát được không?”

“Tớ đang định lên phòng lấy đồ…”

“Nghe này, tớ xin lỗi vì chuyện với Simon. Lúc đó tớ đang mê sảng.”

“Ồ vậy ư? Thế còn ba cái lời rằng người sói có sứ mệnh ghét ma cà rồng là sao ấy nhỉ?”

Maia thở dài buồn bã. “Đúng thế thật, nhưng... tớ nghĩ mình không cần thúc đẩy quá trình ấy nhanh hơn làm gì.”

“Đừng giải thích với tớ; giải thích với Simon ấy.”

Maia lại đỏ mặt, hai má đỏ lựng lên. “Tớ không nghĩ cậu ấy còn muốn nói chuyện với tớ.”

“Có thể vẫn đấy. Cậu ấy vốn là người vị tha mà.”

Maia nhìn cô kỹ hơn. “Tớ không có ý tò mò, nhưng hai cậu đang hẹn hò à?”

Clary thấy chính mình cũng đỏ mặt và may mặt cô có tàn nhang mới che đậy được đôi chút. “Sao cậu muốn biết?”

Maia nhún vai. “Lần đầu tiên tớ gặp cậu ấy, cậu ấy nói cậu là bạn thân, nhưng lần thứ hai lại gọi là bạn gái. Tớ không biết liệu đấy có phải là kiểu quan hệ lúc này lúc khác không.”

“Ừ thì thế. Trước tiên bọn tớ là bạn thân. Đó là một câu chuyện dài.”

“Tớ hiểu.” Má Maia hết đỏ và nụ cười khẩy thường lệ trở về với khuôn mặt. “Ừm, cậu may mắn đấy. Kể cả giờ cậu ấy có là ma cà rồng. Là một Thợ Săn Bóng Tối, cậu chắc là quá quen với những chuyện kỳ lạ rồi, vì thế tớ nghĩ sự thay đổi của Simon không làm cậu nao núng.”

“Có chứ,” Clary nói, gay gắt hơn dự định. “Tớ không phải Jace.”

Nụ cười khẩy đậm nét hơn. “Không ai có thể là Jace. Và tớ có cảm giác anh ta cũng thừa biết.”

“Ý cậu là sao?”

“Ồ, cậu biết đấy. Jace làm tớ nghĩ tới cậu bạn trai cũ. Có vài gã nhìn cậu như thể họ muốn lên giường với cậu. Jace nhìn cậu như thể hai người đã lên giường với nhau, mặn nồng lắm, nhưng giờ hai người chỉ là bạn - dù cho cậu muốn nhiều hơn. Anh ta thừa sức khiến con gái phát cuồng. Cậu hiểu tớ nói gì không?”

Có chứ, Clary thầm nghĩ. “Không,” cô đáp.

“Tớ đoán là không, vì cậu là em gái anh ta. Cậu nhớ lấy lời tớ nhé.”

“Tớ phải đi đây.” Clary sắp đi khỏi bếp thì bỗng nghĩ ra điều gì nên quay ngoắt lại. “Chuyện gì xảy ra với anh ta?”

“Anh nào?” Maia chớp chớp mắt.

“Anh bạn trai cũ ấy. Người khiến cậu nhớ tới Jace ấy.”

“À,” Maia nói. “Anh ta là kẻ đã biến tớ thành người sói.”

“À, cháu mang vở đến rồi đây,” Clary nói, trở về phòng khách với cuốn tập và hộp bút chì Prismacolor. Cô kéo theo chiếc ghế ít được dùng ở phòng ăn tới - chú Luke luôn ăn ngay trong nhà bếp hay phòng làm việc, nên bàn ăn toàn là hóa đơn và giấy tờ cũ - rồi ngồi xuống, đặt cuốn tập trước mặt. Cô cảm thấy như mình đang làm bài thi vào trường nghệ thuật. Vẽ quả táo này. “Mọi người muốn em làm gì?”

“Thế em nghĩ là gì?” Jace đang ngồi trên ghế dương cầm, vai nhô về phía trước, hình như cả đêm qua anh thức trắng. Alec đang dựa người vào cây đàn, có lẽ đấy là tư thế tránh xa Magnus hết sức cho phép.

“Jace, đủ rồi.” Chú Luke ngồi thẳng lưng có vẻ như đó là cả một cố gắng. “Cháu nói cháu có thể vẽ ra chữ rune mới đúng không, Clary?”

“Cháu nói cháu nghĩ là thế.”

“Thế à, chú muốn cháu thử xem.”

“Ngay đây á?”

Chú Luke cười khẽ. “Trừ khi cháu có ý tưởng khác trong đầu chăng?”

Clary mở sang trang trống rồi nhìn chăm chăm xuống. Chưa bao giờ một trang giấy lại trông trống rỗng như thế với cô. Cô có thể cảm nhận sự im lặng trong phòng, mọi người đều quan sát cô: Magnus với sự tò mò đè nén cố hữu; Alec quá bận rộn với những rắc rối của mình nên chẳng quan tâm gì tới chuyện của cô hết; chú Luke đang chờ đợi hy vọng; và Jace với khuôn mặt lạnh lẽo, không biểu lộ cảm xúc, khiến người khác phải e dè. Cô nhớ tới lúc anh nói giá mà anh có thể ghét cô và tự hỏi mình, biết đâu có một ngày anh sẽ thành công.

Cô ném bút chì xuống. “Cháu không thể làm vì được ra lệnh. Khi không có một ý tưởng nào hết.”

“Ý tưởng thế nào?” chú Luke hỏi.

“Ý cháu là, cháu không biết hiện đã có những chữ rune nào rồi. Cháu cần biết ý nghĩa, biết một từ, trước khi vẽ chữ rune biểu thị nó.”

“Bọn anh cũng khó nhớ tất cả các chữ rune...” Alec cất lời, nhưng Jace, ngạc nhiên thay, lại cắt ngang lời Alec.

“Thế còn,” anh lặng lẽ nói, “Can Trường thì sao nhỉ?”

“Can Trường?” cô nhắc lại.

“Có những chữ rune cho dũng cảm,” Jace nói. “Nhưng chẳng có chữ nào để xóa đi nỗi sợ. Nhưng nếu em, như em nói, có thể tạo ra chữ rune mới...” Anh liếc nhìn quanh, nhận ra sự ngạc nhiên trên nét mặt Alec và chú Luke. “Nghe này, chỉ là cháu nhớ không có chữ đó, thế thôi. Vả lại nó có vẻ vô hại thôi mà.”

Clary nhìn sang chú Luke, chú nhún vai. “Được,” chú nói.

Clary lấy bút chì màu xám sậm ra khỏi hộp rồi đặt đầu bút xuống mặt giấy. Cô nghĩ tới những hình dáng, những đường kẻ, nét lượn; cô nghĩ tới những biểu tượng trong Sách Xám, cổ điển và hoàn hảo, những biểu tượng cho một thứ ngôn ngữ quá hoàn hảo, không thể nói thành lời. Một giọng nói khẽ khàng vang lên trong đầu cô: Cô là ai, mà dám nghĩ có thể nói lên ngôn ngữ của thiên đường?

Chiếc bút di chuyển. Clary hầu như chắc chắn là mình không dịch chuyển bút, nhưng nó cứ trượt trên mặt giấy, vẽ một đường duy nhất. Cô thấy tim mình hụt nhịp. Cô nghĩ tới mẹ, ngồi mơ màng trước khung tranh, vẽ tạo ra thế giới của riêng mình bằng mực và dầu vẽ. Cô nghĩ, Tôi là ai ư? Tôi là con gái Jocelyn Fray. Chiếc bút lại di chuyển, và lần này cô thấy mình nín thở, nghe mình đang thì thào. “Can Trường. Can Trường.” Chiếc bút nảy lên, và lần này cô điều khiển nó chứ không phải nó điều khiển cô. Khi viết xong, cô đặt bút xuống và đắn đo nghiền ngẫm tác phẩm một lúc lâu.

Chữ Can Trường vừa vẽ xong là tập hợp những đường nét uốn lượn mạnh mẽ: một chữ rune kiêu hãnh và có nét động như một con đại bàng. Cô xé giấy ra và giơ cho những người khác xem. “Đây,” cô nói, và nhận lấy vẻ bàng hoàng trên nét mặt chú Luke - vậy ra lúc trước chú cũng không tin cô - cùng một thoáng mắt mở to từ Jace.

“Đẹp,” Alec nói.

Jace đứng dậy và đi ngang phòng, giật tờ giấy khỏi tay cô. “Nhưng nó có tác dụng không.”

Clary tự hỏi anh có ý hỏi thật hay chỉ chọc ngoáy cô. “Ý anh là sao?”

“Ý anh là, làm sao chúng ta biết nó có tác dụng hay không? Giờ nó chỉ là một hình vẽ - mà em không thể lấy đi sự sợ hãi khỏi một trang giấy, vì giấy thì có sợ gì đâu chứ. Chúng ta phải thí nghiệm lên một người trong bọn để biết nó có phải là chữ rune thật sự hay không.”

“Chú không nghĩ đó là ý hay đâu,” chú Luke nói.

“Là một ý tưởng tuyệt vời đấy chứ ạ.” Jace thả tờ giấy xuống bàn, và bắt đầu cởi áo. “Tôi có thanh stele ở đây. Ai vẽ hộ tôi không?”

“Một lựa chọn đáng hối hận đấy,” Magnus lẩm bẩm.

Chú Luke đứng dậy. “Không,” chú nói. “Jace, cháu luôn hành động như chưa từng biết tới từ ‘sợ’. Chú không biết làm sao mà chúng ta có thể nhận ra sự khác biệt giả như chữ rune kia có tác dụng với cháu đi nữa.”

Alec cố nén âm thanh khùng khục nghe như tiếng cười phá lên. Jace thì chỉ nở một nụ cười không lấy gì làm thân thiện. “Cháu biết tới từ ‘sợ’ chứ,” anh nói. “Nhưng cháu chọn cách tin rằng, nó không làm gì được cháu.”

“Đó chính là vấn đề,” chú Luke nói.

“Vậy sao không thử nên chú nhỉ?” Clary nói, nhưng chú Luke lắc đầu.

“Cháu không thể vẽ Ấn Ký lên một người thuộc Thế giới Ngầm, Clary, vì nó không gây ảnh hưởng gì lắm. Căn bệnh ma quỷ biến người thành sói ngăn không cho Ấn Ký phát huy tác dụng.”

“Vậy...”

“Thử trên anh này,” Alec bất ngờ nên tiếng. “Anh cũng cần chút xíu can trường đây.” Anh ta cởi áo khoác, ném lên ghế đàn dương cầm, băng qua phòng tới đứng trước mặt Jace. “Đây. Vẽ lên tay tớ đi.”

Jace liếc nhìn Clary. “Trừ phi em nghĩ em nên vẽ vậy?”

Cô lắc đầu. “Không. Anh chắc chắn giỏi vẽ Ấn Ký ứng dụng hơn là em mà.”

Jace nhún vai. “Xắn ống tay áo lên nào, Alec.”

Alec ngoan ngoãn xắn ống tay áo. Trên tay Alec đã có sẵn một Ấn Ký vĩnh viễn, một cuộn những đường kẻ hoa mỹ, có nghĩa là sẽ mang đến cho anh sự cân bằng hoàn hảo. Mọi người, kể cả Magnus, đều nhoài người lên khi Jace nắn nót vẽ chữ Can Trường lên tay Alec, ngay dưới Ấn Ký đã có. Alec nhăn mặt khi thanh stele tạo nên nét chữ bỏng giẫy trên tay. Khi Jace vẽ xong, anh nhét thanh stele vào túi và đứng ngắm nghía tác phẩm của mình một lúc. “Ừ, dù gì trông nó cũng đẹp nhỉ,” anh tuyên bố. “Dù có tác dụng hay không...”

Những đầu ngón tay của Alec lần theo Ấn Ký mới. Sau đó, anh ta ngẩng đầu, thấy tất cả đều đang chăm chú nhìn anh.

“Thế nào rồi?” Clary hỏi.

“Thế nào gì?” Alec kéo tay áo xuống, che đi Ấn Ký.

“Vậy, anh cảm thấy thế nào rồi? Có thấy khác gì không?”

Alec ngẫm nghĩ. “Không hẳn.”

Jace giơ hai tay lên trời. “Vậy nó không có tác dụng.”

“Chưa chắc,” chú Luke nói. “Có thể do không có chuyện gì xảy ra nên nó mới chưa được kích hoạt. Có lẽ ở đây chẳng có gì làm Alec sợ cả.”

Magnus liếc nhìn Alec và nhướn mày. “Hù,” pháp sư dọa.

Jace đang cười toe toét. “Thôi nào, chắc chắn là cậu có một hai nỗi sợ nào đó chứ. Cậu sợ gì nào?”

Alec ngẫm nghĩ một lát. “Nhện,” anh đáp.

Clary quay sang chú Luke. “Chú có nhện đâu đó không?”

Trông chú Luke như đang phát cáu. “Sao chú lại nuôi nhện chứ? Trông chú giống người sưu tầm côn trùng không?”

“Nói không phải chứ,” Jace nói, “nhưng trông chú giống lắm.”

“Mọi người biết đấy,” giọng Alec có chút chua chát, “có lẽ đây là một thí nghiệm ngu ngốc.”

“Còn bóng tối?” Clary gợi ý. “Bọn em có thể nhốt anh dưới tầng hầm.”

“Anh là thợ săn quỷ đấy em,” Alec đã kiên nhẫn lắm rồi. “Tất nhiên, anh không sợ bóng tối.”

“Nhưng có thể chứ.”

“Anh bảo không sợ là không sợ.”

Clary chẳng cần phải đốp lại vì có tiếng chuông cửa. Cô nhìn chú Luke và nhướn mày. “Simon chăng?”

“Không thể nào. Giờ là ban ngày mà.”

“À, đúng rồi.” Cô lại quên mất. “Cháu mở cửa nhé?”

“Không.” Chú đứng dậy, hơi rên rẩm đôi chút. “Chú ổn mà. Chắc có người thắc mắc chuyện hiệu sách đóng cửa thôi.”

Chú đi qua phòng đẩy tung cửa. Hai vai chú Luke cũng đơ ra vì ngạc nhiên; Clary nghe tiếng quát the thé tức tối quen thuộc của một người phụ nữ, và một lúc sau Isabelle cùng bà Maryse Lightwood lách qua chú Luke mà bước vào phòng, theo sau là hình thù xám xịt, phiền phức của Điều Tra Viên. Phía sau họ là một người đàn ông cao to vạm vỡ, tóc đen, da màu đồng, râu quai nón rậm rì. Dù bức ảnh đã được chụp lại từ cách đây đã lâu, Clary vẫn nhận ra người đàn ông này từ bức ảnh cũ xỉn mà bác Hodge đã đưa cho mình xem: người đàn ông này là Robert Lightwood, cha của Alec và Isabelle.

Đầu Magnus ngẩng phắt lên. Mặt Jace, trừ trắng bệch ra, không biểu lộ thêm chút cảm xúc gì nữa. Còn Alec - Alec nhìn cô em, nhìn bố mẹ và rồi nhìn Magnus, đôi mắt sáng xanh trong vắt của anh sa sầm lại với quyết tâm cao độ. Anh ta bước lên một bước, đứng chắn giữa bố mẹ và những người khác trong phòng.

Bà Maryse, khi thấy con trai cả của mình đứng trong phòng khách nhà chú Luke, giật mình phải nhìn lại kỹ hơn cho rõ. “Alec, con làm trò khỉ gì ở đây thế? Mẹ nghĩ là mẹ đã nói rõ là...”

“Mẹ.” Giọng Alec lúc cắt ngang lời mẹ nghe mới quả quyết và kiên định làm sao, nhưng không phải là không nhún nhường. “Bố. Có chuyện con phải nói.” Anh ta cười với họ. “Con đang hẹn hò một người.”

Robert Lightwood cáu kỉnh nhìn cậu con cả. “Alec,” ông ta nói. “Giờ không phải lúc.”

“Không, giờ là lúc ạ. Chuyện rất quan trọng. Con không chỉ gặp một người nào đó.” Lời nói tuôn ra khỏi miệng Alec như thác lũ, trong khi bố mẹ anh bối rối nhìn nhau. Isabelle và Magnus trố mắt nhìn Alec với gần như là một vẻ kinh ngạc như nhau. “Con đang hẹn hò với người thuộc Thế Giới Ngầm. Đúng ra con đang hẹn hò với một pháp...”

Những ngón tay Magnus nhúc nhích, nhanh như chớp, về phía Alec. Bầu không khí bao quanh Alec bỗng lung linh - mắt anh ta trợn ngược - rồi đổ gục xuống sàn, như cây bị bật rễ.

“Alec!” Maryse đưa tay che miệng. Isabelle, người đang đứng gần anh trai nhất, ngồi thụp xuống bên. Nhưng Alec đã bắt đầu động đậy, mắt mở choàng ra. “Ơ, sao anh lại nằm trên sàn thế này?”

“Câu hỏi hay đấy.” Isabelle trừng mắt nhìn xuống ông anh. “Sao vậy nhỉ?”

“Sao cái gì?” Alec ngồi dậy, tay ôm lấy đầu. Vẻ hoảng hốt thoáng qua mặt. “Khoan - anh đã nói gì? Trước lúc ngất ấy.”

Jace khụt khịt. “Cậu biết là chúng ta đang phân vân liệu điều Clary làm có thành công hay không ấy mà?” anh nói. “Nó có tác dụng đấy.”

Alec trông cực kỳ hoảng hốt. “Tớ đã nói gì thế?”

“Con nói con đang hẹn hò ai đó,” cha anh ta nói. “Dù con không nói rõ vì sao chuyện đó lại quan trọng.”

“Không có đâu,” Alec nói. “Ý con là con không hẹn hò với ai cả. Và điều đó không quan trọng. Hoặc cũng không quan trọng nếu con có hẹn hò với ai, dù con không hẹn hò gì cả.”

Magnus nhìn anh ta như nhìn một thằng ngố. “Alec bị mê sảng đấy,” anh ta nói. “Tác dụng phụ của độc quỷ. Loại nguy hại nhất, nhưng cậu ta sớm qua khỏi thôi.”

“Độc quỷ ư?” Giọng bà Maryse đã bấn loạn lên. “Có ai báo cáo gì về vụ bị quỷ tấn công cho Học Viện đâu. Chuyện gì đang xảy ra đây, Lucian? Đây là nhà anh, đúng không? Anh thừa hiểu nếu có quỷ tấn công, anh phải báo cáo lại...”

“Chú Luke cũng bị tấn công ạ,” Clary nói. “Chú ấy bị đánh bất tỉnh.”

“Ôi mới tiện làm sao! Người thì bất tỉnh, người thì mê sảng,” Điều Tra Viên cất tiếng. Giọng nói sắc lẹm như dao của bà ta cắt ngọt qua cả căn phòng, khiến mọi người đều im thin thít. “Này kẻ thuộc Thế giới Ngầm kia, anh biết thừa rằng Jonathan Morgenstern không được phép ở trong nhà anh. Cậu ta phải bị nhốt trong nhà pháp sư.”

“Tôi có tên đấy nhé bà,” Magnus nói. “Nhưng,” anh ta nói thêm, dường như đã đổi ý về việc cắt lời Điều Tra Viên, “cũng không vấn đề gì. Thực ra, cứ quên tên tôi luôn đi.”

“Tôi biết tên anh, Magnus Bane,” Điều Tra Viên nói. “Anh đã một lần không làm tròn phận sự; và anh sẽ không có cơ hội thử lại.”

“Không làm tròn phận sự ư?” Magnus nhíu mày. “Chỉ vì mang cậu nhóc kia tới đây à? Trong hợp đồng tôi ký không có điều khoản nào bảo tôi không được mang cậu ta theo ý mình cả.”

“Đây không phải thất bại ta đang nói tới,” Điều Tra Viên bảo. “Để cậu ta gặp bố mình tối qua, đó mới là thất bại.”

Mọi người sững sờ im lặng. Alec lục tục đứng dậy khỏi sàn, đưa mắt tìm nhìn Jace - nhưng Jace không nhìn lại anh ta. Mặt anh như đeo mặt nạ.

“Nực cười quá đi,” chú Luke thốt lên. Clary hiếm khi thấy chú giận tới vậy. “Jace thậm chí còn chẳng biết Valentine ở đâu. Đừng có buộc tội thằng bé nữa.”

“Buộc tội là việc ta làm, hỡi kẻ Thế Giới Ngầm kia,” Điều Tra Viên đáp trả. “Đó là công việc của ta.” Bà ta quay sang Jace. “Này cậu nhỏ, giờ hãy nói thật đi,” bà ta nói, “rồi như thế mọi chuyện sẽ dễ dàng hơn.”

Jace hất hàm. “Tôi không có gì nói với bà hết.”

“Nếu cậu vô tội, sao không giải thích chứ? Nói cho chúng ta biết tối qua cậu thực sự ở đâu. Nói cho chúng tôi nghe về con tàu nhỏ xinh ấm cúng Valentine xem.”

Clary nhìn anh chằm chằm. Tôi ra ngoài đi dạo, anh đã bảo thế. Nhưng nói vậy chẳng có nghĩa gì. Có thể anh thực sự đi dạo. Nhưng trái tim cô, bụng dạ cô, đều thấy nao nao. Cậu biết điều tồi tệ nhất mình tưởng tượng ra là gì không? Simon đã nói. Không thể tin nổi người mình yêu.

Khi Jace không nói gì thì chất giọng trầm ấm của Robert Lightwood vang lên. “Imogen? Bà đang nói Valentine đang - đã...”

“Trên chiếc thuyền giữa con sông Đông,” Điều Tra Viên trả lời. “Chính xác.”

“Thể nào tôi không tìm ra hắn,” Magnus nói, nửa như nói với chính mình. “Bao nhiêu là nước đấy... cản trở phép thuật của tôi.”

“Vậy Valentine làm gì giữa dòng sông cơ chứ?” Luke bối rối hỏi.

“Hỏi Jonathan ấy,” Điều Tra Viên nói. “Cậu ta mượn xe của thủ lãnh ma cà rồng trong thành phố này và bay tới đó. Đúng không, Jonathan?”

Jace im lặng. Gương mặt anh phong kín. Nhưng Điều Tra Viên thì trông hau háu, như thể đang thỏa mãn no nê với sự căng thẳng trong căn phòng.

“Cho tay vào túi đi,” bà ta ra lệnh. “Lấy ra vật mà cậu luôn mang theo mình kể từ lần cuối cùng cậu rời khỏi Học Viện ấy.”

Jace chậm rãi làm theo lời bà ta nói. Khi anh đưa tay ra, Clary nhận ra vật xám-xanh đang loang loáng sáng trên tay anh. Mảnh vỡ của Cổng Dịch Chuyển.

“Đưa nó cho ta,” Điều Tra Viên giật nó khỏi tay anh. Anh nhăn mặt; cạnh gương cắt tay anh và máu ứa ra khắp lòng bàn tay. Maryse rên khe khẽ, nhưng không dám nhúc nhích. “Ta biết cậu sẽ về Học Viện để lấy cái này,” Điều Tra Viên rất ư là hả hê. “Ta biết tính đa cảm sẽ không cho phép cậu để nó lại.”

“Cái gì thế?” Robert Lightwood có vẻ bối rối.

“Một mảnh Cổng Dịch Chuyển dưới dạng gương,” Điều Tra Viên trả lời. “Khi Cổng Dịch Chuyển bị hủy, hình ảnh về đích đến cuối cùng vẫn còn lưu lại.” Bà ta xoay miếng gương vỡ bằng những ngón tay dài, khẳng khiu như chân nhện. “Trong trường hợp này, là căn nhà của Wayland.”

Ánh mắt Jace di chuyển theo chuyển động của mảnh gương. Theo những gì Clary nhìn thấy, trong đó vẫn chỉ có một khoảng trời trong xanh. Cô tự hỏi liệu ở Idris có bao giờ mưa hay không nữa.

Bằng động tác bất ngờ và giằng dỗi, trái ngược với giọng nói bình thản của mình, Điều Tra Viên ném thẳng mảnh gương xuống đất. Mảnh gương lập tức vỡ tan thành từng mảnh vụn. Clary nghe tiếng Jace hít một hơi, nhưng anh không động đậy.

Điều Tra Viên rút đôi găng tay xám và quỳ xuống giữa đám mảnh vỡ, sàng lọc bụi gương cho tới khi tìm thấy... một mẩu giấy nhỏ. Bà ta đứng dậy, giơ cho mọi người cùng thấy con chữ rune viết bằng mực đen đậm nét. “Ta đã vẽ lên tờ giấy này chữ rune theo dõi và đặt nó vào giữa gương và lớp tráng bạc sau. Sau đó ta trả mảnh gương lại phòng thằng nhãi. Đừng buồn vì đã không nhận ra nhé,” bà ta nói với Jace. “Những kẻ già đầu và thông minh hơn cậu còn bị Hội đồng Clave qua mặt nữa là.”

“Bấy lâu nay bà theo dõi tôi,” Jace nói, và giờ giọng anh sặc mùi cuồng nộ. “Vậy đó là trò của Hội đồng Clave, luôn sục mũi vào đời tư của những Thợ Săn Bóng Tối để...”

“Cẩn thận mồm miệng đi. Cậu không phải người duy nhất phạm Luật đâu.” Ánh nhìn lạnh băng của Điều Tra Viên nhìn quanh phòng. “Các bạn của cậu cũng vi phạm khi thả cậu khỏi Thành phố Câm Lặng, giúp cậu thoát khỏi tầm kiểm soát của pháp sư.”

“Jace không chỉ là bạn,” Isabelle nói. “Anh ấy là anh em chúng tôi.”

“Ta sẽ cân nhắc những gì cô nói, Isebelle Lightwood,” Điều Tra Viên nói. “Cô có thể bị coi là đồng phạm và Ấn Ký sẽ bị tước khỏi người cô đấy.”

“Đồng phạm ư?” Mọi người ngạc nhiên khi nghe ông Robert Lightwood lên tiếng. “Con bé chỉ đang cố ngăn bà phá hoại gia đình chúng tôi mà thôi. Vì Chúa, Imogen, chúng chỉ là những đứa trẻ...”

“Những đứa trẻ sao?” Điều Tra Viên quay ánh mắt lạnh băng sang Robert. “Cũng như anh là một đứa bé khi Hội Kín lên kế hoạch đập tan Hội đồng Clave đấy à? Cũng như con trai ta là một đứa trẻ khi nó...” Bà ta ngừng lại với một tiếng như thở hắt, như thể cố hết sức lắm mới lấy lại bình tĩnh.

“Hóa ra chuyện này là về Stephen,” chú Luke lên tiếng, giọng có chút thương cảm. “Imogen này...”

Mặt Điều Tra Viên cau lại. “Đây không phải chuyện về Stephen! Đây là Luật!”

Những ngón tay gầy xương của Maryse vặn vẹo vào nhau. “Và Jace,” bà nói. “Chuyện gì sẽ xảy ra với thằng bé?”

“Nó sẽ trở về Idris với ta vào ngày mai,” Điều Tra Viên đáp. “Cô đã bị tước quyền được biết nhiều hơn nữa.”

“Sao bà có thể đưa anh ấy đến nơi đó chứ?” Clary hỏi. “Khi nào anh ấy sẽ trở về?”

“Clary, đừng,” Jace lên tiếng. Lời nói như một lời khẩn nài, nhưng cô vẫn chiến đấu đến cùng.

“Jace không phải vấn đề ở đây! Valentine mới là vấn đề!”

“Bỏ đi, Clary!” Jace hét. “Vì em đó, ngừng lại ngay!”

Clary không ngăn được bản thân, cô giật mình thối lui - anh chưa bao giờ la hét với cô như thế, kể cả khi cô lôi anh vào phòng bệnh của mẹ. Cô thấy vẻ mặt anh khi anh nhận thấy cô giật mình thối lui và ước gì cô đã không làm vậy.

Trước khi cô kịp nói gì, chú Luke đã đặt tay lên vai cô. Chú lên tiếng, giọng chú nghe ảo não hệt như cái đêm chú kể cho cô nghe chuyện đời mình. “Nếu thằng bé tới với bố nó,” chú nói, “dù biết Valentine là kiểu phụ huynh thế nào, đó là vì chúng ta đã làm cậu ấy thất vọng, chứ không phải cậu ấy làm chúng ta thất vọng đâu.”

“Thôi cái trò ngụy biện ấy đi, Lucian,” Điều Tra Viên nói. “Anh đã yếu đuối nhu nhược như người thường rồi đấy.”

“Bà ta nói đúng,” Alec đã ngồi xuống ghế, tay khoanh trước ngực, mặt lạnh tanh. “Jace đã nói dối chúng ta. Chúng ta chẳng thể bao biện cho điều đó.”

Jace há hốc miệng. Ít ra thì anh luôn tin tưởng lòng trung thành của Alec, nên Clary không thể trách anh được. Kể cả Isabelle cũng hoảng hốt nhìn ông anh cả. “Alec, sao anh có thể nói vậy chứ?”

“Luật là Luật, Izzy à,” Alec nói mà không thèm nhìn cô em. “Chẳng có cách nào khác đâu.”

Nghe tới đây, Isabelle kêu rít lên vừa giận dữ vừa sửng sốt rồi lao ra khỏi cửa trước, để cánh cửa mở toang. Bà Maryse dợm người định đi theo, nhưng Robert đã lôi vợ lại, thì thầm nói gì đó.

Magnus đứng dậy. “Chắc tôi cũng nên đi thôi,” pháp sư nói. Clary nhận ra anh ta cũng tránh nhìn tới Alec. “Đáng ra tôi nên nói gì đó như, tôi rất vui gặp mấy người, nhưng mà, thực ra tôi chẳng vui vẻ gì cả. Chỉ là gượng gạo mà thôi, và xin lỗi tôi nói thẳng, ngày tôi gặp lại bất cứ ai trong số mấy vị sẽ là rất xa đấy.”

Alec vẫn nhìn chằm chằm xuống đất khi Magnus hiên ngang bước khỏi phòng qua lối cửa trước. Lần này cánh cửa đóng sầm lại.

“Hai người bỏ đi,” Jace hân hoan nói mà mặt tái nhợt. “Ai đi tiếp đây?”

“Đủ rồi đó,” Điều Tra Viên nói. “Đưa tay đây.”

Jace giơ tay trong khi Điều Tra Viên lấy thanh stele khỏi túi ngầm nào đó và vẽ Ấn Ký quanh cổ tay anh. Khi bà ta rụt tay lại, hai cổ tay Jace đặt chồng lên nhau, bị trói lại bằng cái gì đó giống một vòng tròn lửa.

Clary hét lên. “Bà làm gì thế? Bà sẽ làm anh ấy bị thương...”

“Anh ổn mà, em gái.” Jace khá bình tĩnh, nhưng cô nhận ra dường như anh không dám nhìn cô. “Ngọn lửa không động tới anh trừ khi anh cố giằng tay ra.”

“Còn về cô,” Điều Tra Viên nói thêm, và quay sang Clary, khiến Clary ngạc nhiên vô cùng. Nãy giờ bà ta hình như chẳng để ý rằng cô còn sống chứ. “May cho cô là được Jocelyn nuôi nấng nên tránh được tội lỗi của bố cô đấy. Nhưng ngả nào thì ta cũng sẽ để mắt trông chừng tới cô đấy.”

Chú Luke nắm chặt lấy vai Clary. “Đấy là lời đe dọa đó à?”

“Hội đồng Clave không đe dọa ai, Lucian Graymark ạ. Hội đồng Clave chỉ hứa và thực thi lời hứa thôi.” Điều Tra Viên nghe ra khá vui vẻ. Bà ta là người duy nhất trong phòng phù hợp với từ miêu tả đó; mọi người khác đều trông đờ đẫn choáng váng, trừ Jace. Răng anh nhe ra như thể đang gầm ghè nhưng Clary không nghĩ bản thân anh nhận thức được. Trông anh như thể một con sư tử mắc bẫy.

“Đi thôi, Jonathan,” Điều Tra Viên nói. “Đi trước ta. Nếu cậu dám trốn, tôi sẽ kề dao vào cổ cậu ngay.”

Jace phải cố mãi mới vặn được nắm đấm cửa bằng hai bàn tay bị trói. Clary cắn chặt răng để không gào thét, và sau đó cửa mở, Jace bỏ đi cùng Điều Tra Viên. Nhà Lightwood lục tục bỏ đi cùng, Alec vẫn dán mắt xuống đất. Cánh cửa đóng lại sau lưng họ, chỉ còn Clary và Luke còn lại trong phòng, bàng hoàng im lặng.