Vũ điệu của thần chết

Chương 26

Giờ thứ 26 của 45

Chờ đợi.

Lúc này chỉ còn Rhyme một mình trên giường ở tầng trên, chăm chú lắng nghe những thông tin được truyền đi qua tần số Tác chiến Đặc Biệt. Anh cảm thấy mệt mỏi như sắp chết. Bây giờ đã là trưa Chủ nhật và anh gần như chưa được chợp mắt chút nào. Anh kiệt sức vì nỗ lực khó khăn nhất trong tất thảy – vì phải cố chiến thắng trong cuộc đấu trí với tên Vũ công. Cơ thể anh đang bắt đầu chịu hậu quả của trận chiến này.

Cooper vẫn đang lọ mọ trong phòng thí nghiệm dưới nhà, thực hiện các xét nghiệm để khẳng định những kết luận của Rhyme về chiến thuật mới nhất của tên Vũ công. Tất cả những người khác, cả Amelia Sachs, đang ở trong ngôi nhà an toàn. Sau khi Rhyme, Sellitto và Dellray đã quyết định xong cách thức đối phó với những gì họ cho rằng có thể là ý đồ tiếp theo của tên Vũ công nhằm thủ tiêu Percey Clay và Brit Hale, Thom bèn kiểm tra huyết áp của Rhyme và khẳng định quyền lực gần như cha mẹ của mình bằng cách ra lệnh cho anh phải đi ngủ, và dứt khoát không chấp nhận bất kỳ lý do trì hoãn nào, dù có chính đáng đến đâu chăng nữa. Hai thầy trò đã lên nhà bằng thang máy, suốt thời gian đó Rhyme im lặng một cách bất thường, bứt rứt tự hỏi liệu lần này anh có đoán đúng hay không.

“Có chuyện gì vậy?”, Thom hỏi.

“Không có gì. Sao cậu hỏi thế?”

“Không thấy anh kêu ca gì cả. Mà anh không kêu ca càu nhàu thì có nghĩa là có chuyện gì đó không ổn.”

“A ha. Buồn cười thật đấy”, Rhyme làu bàu.

Sau khi được đưa từ xe lăn lên giường, một số chức năng của cơ thể cũng đã được chăm sóc đâu vào đấy, lúc này Rhyme đang ngồi dựa hẳn người lên đống gối sang trọng và xa xỉ của mình. Thom đã đeo chiếc tai nghe có chức năng nhận biết giọng nói lên đầu ông chủ mình, và dù đang kiệt sức, Rhyme vẫn tự mình thực hiện đầy đủ các bước ra lệnh cho máy tính để bắt nó kết nối mình với tần số Tác chiến Đặc Biệt.

Hệ thống này quả là một phát minh kỳ diệu. Đành rằng trước mặt Sellitto và Banks anh đã coi nó chẳng ra gì. Đành rằng anh đã càu nhàu. Nhưng hơn tất cả những trợ lý và người giúp việc mà anh có, thiết bị này giúp Rhyme cảm nhận hoàn toàn khác về bản thân mình. Từ nhiều năm nay anh đã chấp nhận rằng mình sẽ không bao giờ được sống một cuộc sống có thể tạm gọi là bình thường. Mặc dù vậy với chiếc máy này và phần mềm đi kèm của nó anh thực sự cảm thấy bình thường.

Anh xoay đầu thành vòng tròn và để nó thả lỏng, ngửa ra nghỉ ngơi trên gối.

Chờ đợi. Cố không nghĩ đến cuộc cãi vã giữa anh và Sachs đêm qua.

Ngoài cửa có gì đó chuyển động. Con chim ưng oai vệ hiện ra trước mắt anh. Rhyme nhìn thấy một vệt trắng trên ức nó, rồi con chim quay phần lưng màu xanh xám của nó về phía Rhyme rồi nhìn ra phía Công viên Trung tâm. Đó là con chim ưng đực. Con tiercel mà anh nhớ là Percey Clay đã nói với anh. Nhỏ hơn và cũng không tàn nhẫn bằng con chim ưng cái. Anh lại nhớ thêm một vài điều về loài chim ưng này. Chúng đã hồi sinh từ cõi chết. Mới cách đây chưa lâu toàn bộ quần thể chim ưng trong tự nhiên ở phía đông của Bắc Mỹ trở lên vô sinh vì nhiễm các loại hóa chất từ thuốc trừ sâu và chúng gần bị tuyệt chủng. Chỉ nhờ vào các lỗ lực nhân giống trong môi trường nuôi nhốt cộng với việc kiểm soát chặt chẽ thuốc trừ sâu mới giúp loài chim này hồi sinh trở lại.

Hồi sinh từ cõi chết…

Tín hiệu radio chợt vang lên loẹt xoẹt. Đó là Amelia Sachs đang gọi về. Giọng cô không giấu được vẻ căng thẳng khi cô thông báo cho anh biết rằng tất cả đã được bố trí xong xuôi tại ngôi nhà an toàn.

“Tất cả chúng tôi đều ở tầng trên cùng của ngôi nhà cùng với Jodie”, cô nói. “Chờ chút… Xe đến kia rồi.”

Một chiếc xe thùng hai cầu có vỏ thép chống đạn và cửa sổ lắp kính phản quang một chiều, bên trong có bốn nhân viên cảnh sát thuộc đội chiến thuật, đang được sử dụng làm mồi nhử. Bám sau nó sẽ là một chiếc xe khác không có dấu hiệu của cảnh sát, ngồi bên trong cabin trong như là hai người thợ sửa ống nước. Nhưng thực chất họ là những cảnh sát vũ trang, thành viên đội 32-E mặc thường phục. Đằng sau của chiếc xe thùng này cũng có bốn đội viên vũ trang khác.

“Những người đóng giả đang ở dưới nhà. Được rồi… Được rồi.”

Họ đang sử dụng hai sĩ quan cảnh sát thuộc đội của Haumann làm mồi nhử.

Sachs nói, “Họ bắt đầu ra đây.”

Rhyme gần như chắc chắn hoàn toàn rằng căn cứ vào những kế hoạch mới của Vũ công, hắn sẽ không giở trò bắn tỉa ngay trên đường phố. Mặc dù vậy anh vẫn nhận ra mình đang nín thở.

“Bắt đầu đi ra…”

Một tiếng tách vang lên và tín hiệu radio tắt.

Một tiếng tách khác. Tiếng lạo xạo. Rồi giọng Sellitto vang lên, “Họ làm được rồi. Trông có vẻ ổn. Xe bắt đầu lăn bánh. Những chiếc xe bám theo đều sẵn sàng.”

“Được rồi”, Rhyme nói. “Jodie có ở đó chứ?”

“Đang ở đây. Trong ngôi nhà an toàn cùng với chúng tôi.”

“Bảo hắn gọi điện đi.”

“Được rồi, Linc. Chúng tôi tiến hành đây.”

Tín hiệu radio lại tắt.

Chờ đợi.

Để xem lần này liệu tên Vũ công có phải chùn bước không. Để xem lần này Rhyme có thể thắng được bộ óc quỷ quyệt đến tàn nhẫn của hắn không.

Chờ đợi.

Điện thoại di động của Stephen rung lên.Hắn mở nó ra.

“A lô.”

“Xin chào. Tôi đây mà. Tôi…”

“Tôi biết rồi”, Stephen nói. “Đừng có dùng tên.”

“Vâng, đúng rồi.” Giọng Jodie nghe căng thẳng như một con chồn bị dồn vào góc tường.

Một thoáng im lặng, rồi người đàn ông bé choắt nói. “Vâng, tôi ở đây rồi.”

“Tốt lắm. Anh vẫn để tên mọi đấy giúp anh chứ?”

“À, vâng. Hắn đang ở đây.”

“Thế anh đang ở đâu? Chính xác vào?”

“Bên kia phố đối diện với ngôi nhà đó. Lạy trời, quanh đây có rất nhiều cớm. Nhưng không ai để ý đến tôi cả. Có một chiếc xe thùng vừa mới trờ tới cách đây một phút. Một chiếc xe loại hai cầu. Xe to lắm. Một chiếc Yukon. Xe sơn màu xanh, trông rất dễ nhận ra.” Trong cơn bối rối gã nói liến thoắng. “Trông nó rất, rất vững chắc. Nó có cửa gương phản quang.”

“Có nghĩa là cửa sổ xe lắp kính chống đạn.”

“Ôi. Thật thế à. Cũng may là anh biết tất cả những chuyện này.”

Mày sắp chết rồi, Stephen tự nhủ thầm.

“Có một người đàn ông và một người phụ nữ vừa mới chạy ra khỏi con hẻm cùng với, khoảng mười tên cớm. Tôi không chắc đó có phải họ không.”

“Không phải bọn chim mồi chứ?”

“Ừm, trông họ không có vẻ gì là cớm cả và cả hai đề tỏ ra rất sợ hãi. Anh có còn ở phố Lexington không?”

“Còn.”

“Ngồi trong xe ô tô à?” Jodie hỏi.

“Tất nhiên là phải ngồi trong xe”, Stephen nói. “Tôi xoáy được một chếc xe Nhật Bản bé tí, bẩn thỉu. Tôi sẽ bám theo bọn chúng. Rồi đợi đến chỗ nào vắng vẻ một chút và hành động.”

“Như thế nào?”

“Như thế nào cái gì?”

“Anh sẽ hành động như thế nào ấy? Kiểu như anh sẽ dùng lựu đạn hay súng máy?”

Stephen tự hỏi, Mày muốn biết thế cơ à?

Hắn nói, “Tôi cũng chưa chắc. Còn tùy tình hình”.

“Anh thấy họ chưa?”, Jodie hỏi, nghe có vẻ mất bình tĩnh.

“Tôi thấy chúng rồi”, Stephen nói. “Tôi đang ở phía sau chúng. Tôi đang hòa vào dòng xe rồi.”

“Một chiếc xe của Nhật à?”, Jodie hỏi. “Kiểu như xe Toyota hay giống thế chứ gì?”

Tại sao, đồ oắt con phản phúc khốn khiếp, Stephen cay đắng nghĩ, sự phản bội làm hắn đau đớn thực sự mặc dù hắn đã biết đó là đều gần như không thể nào khác được.

Trên thực tế Stephen đang quan sát chiếc Yukon và những chiếc xe thùng yểm trợ lao qua chỗ hắn đứng. Tuy nhiên, hắn không hề ngồi trong chiếc xe nào của Nhật Bản, dù là xe thối tha hay không đi nữa. Nói cho đúng, hắn không hề ngồi trong bất kỳ chiếc xe nào. Mang trên người bộ đồng phục của lính cứu hỏa vừa ăn trộm được, hắn đang đứng trên góc phố cách ngôi nhà an toàn đúng 100 feet, tận mắt theo dõi phiên bản thực tế của những sự kiện mà Jodie đang bịa ra. Hắn biết chắc những người ngồi trong chiếc Yukon kia chỉ là mồi nhử. Hắn biết Người vợ và Người bạn vẫn còn ở trong ngôi nhà an toàn.

Stephen cầm trên tay chiếc máy truyền phát tín hiệu điểu khiển từ xa màu xám. Trông nó chẳng khác gì một chiếc bộ đàm chỉ có điều là không có mic hay loa ngoài. Hắn chỉnh tần số trùng khớp với quả bom trong điện thoại của Jodie và cài đặt thiết bị.

“Giữ máy nhé”, hắn nói với Jodie.

“Hê hê”, Jodie cười sung sướng. “Xin tuân lệnh, thưa ngài.”

Lincoln Rhyme lúc này chỉ còn là một khán giả, một kẻ thị dâm.

Căng tai theo dõi diễn biến qua tai nghe. Cầu nguyện là anh đã phán đoán đúng.

“Chiếc xe đến đâu rồi?” Rhyme nghe thấy Sellitto đang hỏi.

“Đi được hai khối nhà rồi. Chúng tôi vẫn đang theo dõi sát. Nó đang chầm chậm di chuyển dọc phố Lexington. Đang hòa giữa dòng xe cộ rồi. Hắn… chờ chút.” Một khoảng im lặng kéo dài.

“Sao thế?”

“Chúng tôi nhìn thấy mấy chiếc xe liền, một chiếc Nissan, một chiếc Subaru. Cả một chiếc Honda Accord, nhưng chiếc này chở tới ba người bên trong. Chiếc Nissan đang tiến lại gần chiếc xe thùng. Rất có thể đó là hắn. Không thế nhìn thấy bên trong.”

Lincoln Rhyme nhắm nghiền mắt. Anh cảm thấy ngón đeo nhẫn bên trái của mình, ngón duy nhất còn cử động được, đang hồi hộp gõ nhè nhẹ lên lớp chăn lông phủ trên giường.

“A lô?” Stephen nói vào điện thoại.

“Vâng”, Jodie trả lời. “Tôi vẫn đang ở đây.”

“Đối diện với ngôi nhà an toàn chứ?”

“Đúng.”

Stephen đang nhìn thẳng vào ngôi nhà an toàn từ bên kia đường đối diện. Chẳng thấy Jodie, cũng không có tên mọi đen nào.

“Tôi có điều này muốn nói với anh.”

“Chuyện gì thế?” Người đàn ông gầy gò hỏi.

Stephen nhớ lại cảm giác như điện giật khi đầu gối hắn chạm vào đầu gối gã kia.

Mình không thể nào làm được…

Quân nhân…

Bàn tay phải của Stephen nắm chặt lấy thiết bị điều khiển từ xa. Hắn nói, “Hãy nghe cho kĩ này”.

“Tôi đang nghe đây. Tôi…”

Stephen nhấn nút truyền tín hiệu.

Tiếng nổ to khủng khiếp. Thậm chí còn to hơn cả những gì Stephen đã chờ đợi. Nó làm rung chuyển những khung cửa và khiến cả triệu con chim bồ câu tán loạn vỗ cánh bay lên trời. Stephen đứng nhìn những mảnh kính và gỗ từ tầng trên cùng của ngôi nhà an toàn văng lả tả xuống con hẻm bên cạnh tòa nhà.

Thậm chí như thế còn tuyệt vời hơn cả những gì hắn kỳ vọng. Hắn đinh ninh Jodie sẽ ở gần ngôi nhà an toàn. Có thể là trong một chiếc xe cảnh sát đỗ phía trước nhà. Có thể là ở trong con hẻm. Nhưng hắn không thể tin là mình gặp may đến nỗi hóa ra Jodie lại ở bên trong. Tất cả thật hoàn hảo!

Hắn tự hỏi không biết còn những kẻ nào khác cũng bỏ mạng trong vụ nổ.

Hắn cầu mong trong đó có cả Lincoln Con Giòi.

Con bé cảnh sát tóc đỏ?

Hắn quan sát ngôi nhà an toàn và nhìn thấy khói đen ngòm đùn ra từ cửa sổ tầng trên cùng.

Nào, chỉ có vài phút ngắn ngủi thôi, trước khi những người còn lại trong đội của hắn cũng xuất hiện.

Chuông điện thoại vang lên và Rhyme ra lệnh cho máy tính tắt tín hiệu radio để anh trả lời điện thoại.

“Tôi nghe”, anh nói.

“Lincoln.” Hóa ra là Lon Sellitto gọi tới. “Tôi dùng đường dây cố định”, giọng viên thám tử vang lên, ý muốn nhắc đến việc mình gọi bằng điện thoại. “Tôi muốn tập trung tần số Tác chiến Đặc biệt cho cuộc truy đuổi.”

“Được rồi. Anh nói tiếp đi.”

“Hắn cho nổ bom rồi.”

“Tôi biết”. Rhyme cũng đã nghe thấy; thực ra ngôi nhà an toàn chỉ cách phòng ngủ của anh một, hai dặm, vậy mà những khung cửa sổ phòng anh cũng rung chuyển dữ dội và lũ chim ưng bên ngoài cửa sổ vụt bay lên rồi lượn những vòng chậm rãi trên trời, giận dữ vì bị quấy rầy.

“Mọi người không sao chứ?”

“Tên khốn kia đang sợ xanh mặt, tên Jodie ấy. Ngoài chuyện đó ra thì mọi người đều ổn cả. Mà có vẻ như mấy cha đặc vụ liên bang đang cho là ngôi nhà an toàn bị hư hại nghiêm trọng hơn dự đoán của họ. Mấy cha đó bắt đầu kêu ca rồi đấy.”

“Bảo họ là năm nay chúng ta sẽ đóng thuế sớm hơn mọi năm vậy.”

Điều khiến Rhyme phát hiện quả bom gài trong chiếc điện thoại di động chính là những vết nhựa polystyrene nhỏ li ti mà Sachs đã tìm thấy trong các bằng chứng tại nhà ga tàu điện ngầm. Điều đó cùng với những dư chất của thuốc nổ dẻo, có công thức hơi khác một chút so với quả bom sát thương đã phát nổ trong căn hộ của Sheila Horowitz. Rhyme chỉ cần đối chiếu những mẩu nhựa polystyrene với chiếc điện thoại mà Vũ công đã đưa cho Jodie và phát hiện ra rằng có người đã mở lớp vỏ ra.

Tại sao? Rhyme đã tự hỏi câu này. Và anh chỉ nhận thấy có đúng một lý do duy nhất hợp logic, và thế là anh gọi cho đội rà phá bom mìn ở Đồn Cảnh sát Sáu. Hai viên thám tử đã vô hiệu hóa quả bom, tháo bỏ miếng thuốc nổ dẻo khá lớn cùng thiết bị kích nổ ra khỏi điện thoại, sau đó họ gắn một lượng nhỏ thuốc nổ cùng chính thiết bị kích nổ đó vào một thùng đựng dầu gần một ô cửa sổ ở tầng trên cùng, miệng thùng chĩa thẳng xuống con hẻm như một khẩu súng cối. Họ đã phủ một lớp đệm chống bom dày kín trong phòng, rồi bước ra ngoài hành lang và trả chiếc điện thoại vô hại lại cho Jodie, gã này cầm lấy nó bằng hai bàn tay run lẩy bẩy và khăng khăng đòi họ phải chứng minh cho gã thấy là toàn bộ thuốc nổ trong đó đã được tháo ra.

Rhyem đã phỏng đoán rằng chiến thuật của tên Vũ công là lợi dụng vụ nổ bom làm thủ đoạn đánh lạc hướng sự chú ý của mọi người vào chiếc xe thùng, giúp hắn có cơ hội ra tay thuận lợi hơn. Rất có thể tên sát thủ cũng đã tính toán rằng kiểu gì Jodie cũng ra đầu thú cảnh sát và, khi gọi điện, người đàn ông bé choắt này sẽ ở gần những tên cớm đang dàn xếp chiến dịch. Nếu loại bỏ được những người chỉ huy thì khả năng thành công trong phi vụ này của tên Vũ công sẽ cao hơn rất nhiều.

Đánh lạc hướng…

Không có tên tội phạm nào mà Rhyme lại căm thù hơn tên Vũ công Quan tài, không kẻ nào mà anh khát khao hơn là được quật ngã xuống đất và đâm xuyên thẳng vào tim hắn. Mặc dù vậy, hơn tất thảy Rhyme vẫn là một nhà hình sự học và anh không khỏi thầm khâm phục sự tinh quái của tên sát thủ.

Sellitto giải thích, “Chúng ta có hai chiếc xe bám theo sau chiếc Nissan. Chúng ta chuẩn bị…”

Một khoảng im lặng kéo dài.

“Ngu ngốc thật”, Sellitto lẩm bẩm.

“Sao vậy?”

“Ồ không có gì. Chỉ là không ai nhớ đến việc thông báo cho Trung tâm. Đang có mấy chiếc xe cứu hỏa ập tới đây. Quên không có ai báo trước với họ là cứ bỏ qua báo cáo về việc có vụ nổ.”

Ngay cả Rhyme cũng đã quên phắt điều đó.

Sellitto nói tiếp. “Giờ chỉ còn thông báo bằng radio thôi. Chiếc xe thùng mồi nhử đã rẽ về phía đông, Linc ạ. Chiếc Nissan vẫn bám theo. Có lẽ là cách chiếc xe thùng khoảng gần 40 thước. Từ đó đến bãi đỗ xe bên cạnh đường Franklin Delano Roosevelt còn khoảng bốn khối nhà nữa.”

“Được rồi, Lon. Amelia có ở đấy không? Tôi muốn nói chuyện với cô ấy.”

“Lạy Chúa”, anh thoáng nghe thấy tiếng ai đó đang gọi tới trong điện thoại. Bo Haumann, Rhyme thầm nghĩ. “Cơ man nào là xe cứu hỏa đang vây kín chỗ chúng tôi đây này.”

“Thế không có ai…?” Một giọng khác bắt đầu định hỏi, nhưng rồi lại loãng dần.

Không, rõ ràng là không có ai, Rhyme tự nhủ. Con người không thể nào nghĩ hết…

“Tôi phải gọi lại cho anh, Lincoln”, Sellitto nói. “Chúng ta phải làm gì đó. Xe cứu hỏa đang đỗ chật cứng mấy cái vỉa hè khốn kiếp rồi.”

“Để tôi tự gọi cho Amelia”, Rhyme nói.

Sellitto gác máy.

Căn phòng tối om, những tấm rèm đều được đóng kín.

Percey Clay thấy sợ.

Nghĩ đến con chim ưng của cô, con chim đã trưởng thành, bị mắc vào bẫy lưỡi, đôi cánh lực lưỡng của nó đập loạn xạ. Những móng vuốt và chiếc mỏ của nó cào rách toang không khí như những lưỡi dao cạo sắc lẹm, tiếng kêu rít điên cuồng. Nhưng đối với Percey thì điều khủng khiếp nhất là ánh mắt hoảng loạn của con chim. Khi bị tước khỏi bầu trời của nó, con chim hoàn toàn lạc lối trong nỗi kinh hoàng. Mong manh.

Đó cũng là cảm giác của Percey lúc này. Cô căm thù cảm giác bị giam hãm ở đây trong ngôi nhà an toàn. Tù túng. Nhìn mãi – với ánh mắt căm thù – những bức tranh ngu xuẩn treo trên tường. Những thứ mạt hạng được tha về từ các siêu thị của Woolworth và J.C. Penney.

Tấm thảm trải sàn nhợt nhạt. Chiếc chậu rửa mặt và bình đựng nước rẻ tiền. Một tấm ga trải giường có viền may màu hồng nhăn nhúm và diêm dúa, với cả chục đầu chỉ dài lòng thòng thò ra ở một góc vải; có lẽ một tên chỉ điểm nào đó đã từng ngồi ở đây, bứt rứt giật mép vải màu hồng gớm ghiếc.

Lại tu thêm một hớp từ cái chai bẹt. Rhyme đã cho cô biết về chiếc bẫy. Về việc tên Vũ công sẽ bám theo chiếc xe thùng mà hắn tưởng Percey và Hale đang ở bên trong. Họ sẽ đột ngột chặn xe hắn lại để bắt giữ hoặc tiêu diệt hắn. Sự hy sinh của cô sắp được đền đáp. Chỉ mười phút nữa thôi là họ sẽ tóm được hắn, kẻ đã giết Ed của cô. Kẻ đã khiến cuộc đời cô thay đổi mãi mãi.

Cô tin tưởng vào khả năng của Lincoln Rhyme, cũng như tin vào con người anh. Nhưng cô cũng chỉ tin anh giống hệt như cô vẫn tin lời Đài Kiểm soát Không lưu khi họ thông báo là không có những tầng gió chênh lệch và bất thình lình cô chợt nhận ra máy bay của mình đang rơi với vận tốc 3000 feet một phút trong khi độ cao trong không trung lúc này của máy bay chỉ còn là 2000 feet.

Percey liệng chiếc chai bẹt của cô lên giường, đứng bật dậy và đi đi lại lại trong phòng. Cô muốn lúc này mình đang được bay, chỉ khi đó cô mới cảm thấy an toàn, khi cô được nắm quyền chỉ động. Roland Bell đã ra lệnh cho cô tắt đèn, đã ra lệnh cho cô khóa chặt cửa và ở trong phòng. Tất cả mọi người đều tập trung ở tầng trên cùng. Cô đã nghe thấy âm thanh đinh tai nhức óc của vụ nổ. Cô đã được biết trước về vụ nổ. Nhưng cô không thể ngờ nỗi sợ hãi mà nó mang đến lại khủng khiếp đến thế. Không thể nào chịu đựng nổi. Cô sẵn sàng đánh đổi bất kỳ điều gì để được nhìn ra ngoài cửa sổ.

Cô bước tới cửa trước, mở khóa, bước ra ngoài hành lang.

Bên ngoài tối đen. Đặc quánh như màn đêm…Tất cả những vì sao đêm.

Cô ngửi thấy một mùi hóa chất nồng nặc. Có lẽ là do vụ nổ gây ra, cô thầm nghĩ. Gian sảnh chính vắng hoe. Thoáng có gì đó chuyển động ở đàu kia của gian sảnh chính. Một bóng người vừa chạy vụt từ ô cầu thang ra. Cô căng mắt nhìn. Nhưng không thấy có gì thêm.

Phòng của Brit Hale chỉ cách đó 10 feet. Cô rất muốn vào nói chuyện với anh, nhưng cô cũng không muốn anh nhìn thấy cô như thế này, mặt mũi tái nhợt, chân tay run lẩy bẩy. Mắt ầng ậc nước vì sợ hãi… Lạy Chúa tôi, cô đã từng điều khiển một chiếc Boeing 737 ra khỏi cú rơi bổ nhào trong tíc tắc mà còn bình tĩnh hơn lúc này; trân trân nhìn ra hành lang tối om của ngôi nhà.

Cô bước lùi vào trong phòng mình.

Hình như cô vừa nghe thấy tiếng bước chân?

Cô đóng cửa lại, quay về giường ngồi.

Vẫn là những tiếng bước chân.

“Chế độ chỉ huy”, Lincoln Rhyme ra lệnh. Hình ảnh chiếc hộp tự động hiện lên trên màn hình.

Anh nghe thấy tiếng còi hụ từ đằng xa vẳng lại.

Và đúng lúc này Rhyme mới chợt nhận ra sai lầm của mình.

Những chiếc xe cứu hỏa…

Không! Tại sao mình lại không nghĩ đến chuyện đó.

Nhưng tên Vũ công thì có. Tất nhiên! Chắc chắn hắn đã ăn trộm bộ đồng phục của một nhân viên cứu hỏa hoặc cứu thương nào đó rồi và ngay lúc này đang lẻn vào ngôi nhà an toàn.

“Ôi không!” Anh rên lên. “Không, tại sao mình lại có thể sai lầm đến thế được?”

Máy tính chỉ nhận biết được từ cuối cùng[93] trong câu nói của Rhyme và thế là nó ngoan ngoãn đóng phần mềm liên lạc của anh lại.

“Không!” Rhyme gào lên. “Không!”

Nhưng hệ thống không thể hiểu được giọng quát to ầm ĩ đến cuống cuồng của anh, và sau khi đèn hiệu lóe sáng một dòng thông báo hiện lên trên màn hình, Bạn có thực sự muốn tắt máy tính của mình không?

“Không”, anh tuyệt vọng thì thầm.

Một thoáng trôi qua không có gì xảy ra, nhưng hệ thống cũng không tắt đi. Một dòng thông báo khác lại hiện lên. Bạn muốn làm gì bây giờ?

“Thom!” Anh quát to. “Ai đó… làm ơn đi. Mell!”

Nhưng cánh cửa đang đóng kín; không có ai ở dưới nhà đáp lời anh.

Ngón đeo nhẫn bên tay trái của Rhyme giật giật một cách điên cuồng. Từng có thời gian anh sử dụng một thiết bị điều khiển ECU cơ khí và anh có thể dùng ngón tay duy nhất còn cử động được của mình để bấm số điện thoại. Giờ thì hệ thống máy tính này đã thay thế thiết bị kia và điều đó có nghĩa là anh phải sử dụng chương trình ra lệnh bằng giọng nói để gọi điện đến ngôi nhà an toàn, thông báo cho mọi người rằng tên Vũ công đang trên đường tới đó, hắn sẽ đóng giả là một nhân viên cứu hỏa hoặc một nhân viên cứu hộ.

“Chế độ chỉ huy”, anh nói vào mic của mình. Cố gắng đọc mệnh lệnh thật rành rọt.

Tôi không hiểu bạn vừa nói gì. Xin vui lòng thử lại.

Lúc này tên Vũ công đang ở đâu? Liệu hắn đã vào được bên trong chưa? Có lẽ nào hắn đang chuẩn bị nổ súng vào Percey Clay hoặc Brit Hale?

Hoặc Amelia Sachs?

“Thom! Mell!”

Tôi không hiểu…

Tại sao mình lại không thể suy nghĩ khôn ngoan hơn?

“Chế độ chỉ huy”, anh nói như người hụt hơi, cố gắng làm chủ cơn hoảng loạn.

Chú thích

[93]Trong câu nói của mình, Rhyme sử dụng cấu trúc “be far off” có nghĩa là “phạm sai lầm” hoặc “đi chệch hướng. Nhưng “off” cũng có nghĩa là “tắt”, “khóa” nên máy tính đã hiểu sai.

Hộp ra mệnh lệnh của chế độ chỉ huy vụt hiện lên. Con trỏ hình mũi tên xuất hiện ở góc trên cùng của màn hình và cách đó cả một lục địa mênh mông, ở góc dưới màn hình, là biểu tượng của phần mềm liên lạc.

“Kéo con trỏ xuống”, anh hổn hển thốt lên.

Không có gì xảy ra.

“Kéo con trỏ xuống”, anh quát, lần này còn to hơn.

Vẫn là dòng thông báo cũ hiện lên: Tôi không hiểu bạn vừa nói gì. Xin vui lòng thử lại.

“Ôi, mẹ kiếp… ”

Tôi không hiểu…

Nhẹ nhàng hơn, cố bắt mình phải phát âm rành rọt bằng giọng bình thường nhất, anh nói, “Kéo con trỏ xuống dưới.”

Và mũi tên màu trắng nhấp nháy bắt đàu lười nhác lê xuống phía dưới màn hình.

Chúng ta vẫn còn đủ thời gian, anh cố tự trấn an. Với lại đâu phải những người ở trong ngôi nhà an toàn không hề được bảo vệ hoặc vũ trang đầy đủ.

“Kéo con trỏ sang trái”, anh gần như hụt hơi.

Tôi không hiểu…

“Ôi, khốn khiếp thật!”

Tôi không hiểu…

“Kéo con trỏ lên… rê con trỏ sang trái.”

Mũi tên màu trắng dịch chuyển ì ạch trên màn hình như một con sên cho đến khi cuối cùng nó cũng tới được biểu tượng đó.

Bình tĩnh nào, bình tĩnh nào…

“Dừng con chuột lại. Nháy đúp.”

Rất ngoan ngoãn, biểu tượng một chiếc bộ đàm vụt hiện lên trên màn hình.

Anh hình dung ra tên Vũ công vô hình đang trườn tới từ phía sau Percey với một con dao sắc hoặc một sợi dây thít cổ.

Bằng một giọng nói cố gắng hết sức để tỏ ra bình tĩnh anh ra lệnh cho con trỏ điều chỉnh hộp tần số liên lạc.

Nó di chuyển tới đúng vị trí một cách hoàn hảo.

“Bốn”, Rhyme nói, rành rọt phát âm từ này cực kỳ thận trọng.

Một số 4 hiện ra trong ô. Và anh đọc tiếp, “Tám”

Một chữ A hiện lên trong ô thứ hai[94].

Lạy Chúa trên thiên đường!

“Xóa ô bên trái.”

Tôi không hiểu…

Không, không!

Anh có cảm giác như vừa nghe thấy tiếng bước chân. “Ai đấy?” Anh gào toáng lên. “Có ai ngoài đó không? Thom? Mell?”

Không có tiếng trả lời trừ người bạn máy tính kiên nhẫn của anh, một lần nữa nó vẫn điềm nhiên đưa ra trên màn hình câu trả lời như trêu ngươi.

“Tám”, anh chậm rãi đọc.

Con số hiện lên. Cố gắng tiếp theo của anh, “Ba”, hiện lên trong ô mà không hề gặp chút khó khăn nào.

“Phẩy.”

Từ phẩy hiện ra trong ô.

Chó chết!

“Xóa ô bên trái. ” Và đọc tiếp. “Thập phân.”

Ký tự đó hiện lên.

“Bốn”

Còn một ô trống. Nhớ kỹ nào, phải đọc là zero chứ không phải là không. Mồ hôi túa ra dầm dề trên mặt Rhyme, cuối cùng anh cũng điền nốt con số cuối cùng của tần số Tác chiến Đặc biệt một cách xuôi chèo mát mái.

Tín hiệu radio bật lên.

Được rồi!

Nhưng trước khi anh kịp truyền tin đi, tiếng tín hiệu loẹt xoẹt vang lên muốn ù cả tai và Rhyme lạnh cứng người khi nghe thấy giọng một người đàn ông đang cuống cuồng thét to, “Cấp cứu, cần yểm trợ, cơ sở bảo vệ nhân chứng liên bang số sáu.”

Chính là ngôi nhà an toàn.

Anh nhận ra đó là giọng của Roland Bell. “Hai người bị bắn và… Ôi, Chúa ơi, hắn vẫn còn ở đây. Hắn đã phát hiện ra chúng tôi, hắn đã tấn công chúng tôi! Chúng tôi cần…”

Tiếp theo đó là hai phát súng nổ đinh tai. Rồi lại những phát súng khác. Phải hơn chục phát. Một cuộc đọ súng dữ dội. Nghe không khác gì màn trình diễn pháo hoa bên bờ sông Đông đêm Quốc khánh 4 tháng 7.

“Chúng tôi cần…”

Tín hiệu kết nối tắt phụt.

“Percey!” Rhyme gào lên. “Percey…”

Trên màn hình vẫn là dòng thông báo lạnh lùng, vô cảm: Tôi không hiểu những gì bạn vừa nói. Xin vui lòng thử lại.

Một cơn ác mộng.

Chú thích

[94]Số 8 trong tiếng Anh được phát âm hơi giống với khi đánh vần nguyên âm “A”. Vì Rhyme đọc khi hồi hộp nên máy tính nhận biết nhầm giọng nói anh.

Stephen Kall, đầu trùm kín bằng mặt nạ trượt tuyết và mặc chiếc áo khoác rộng thùng thình của lính cứu hỏa, nằm nép chặt người trên sàn hành lang của ngôi nhà an toàn, đằng sau xác của một trong hai nhân viên cảnh sát tư pháp Mỹ mà hắn vừa sát hại.

Một phát súng nữa, gần hơn, cày vỡ tung một mẩu đá lát sàn nhà gần đầu hắn. Phát súng được bắn ra từ người cảnh sát với mái tóc màu nâu đang mỏng dần – chính kẻ mà hắn đã nhìn thấy trong cửa sổ ngôi nhà an toàn sáng hôm đó. Tay cảnh sát đang nép sau ngưỡng cửa, một mục tiêu khá ngon ăn nhưng Stephen cũng không thể thảnh thơi mà ngắm bắn. Gã cảnh sát sử dụng những khẩu súng ngắn tự động bằng cả hai tay mà lại còn bắn cực kỳ chính xác.

Stephen trườn về phía trước thêm một đoạn, về phía một trong những ngưỡng cửa đang để ngỏ…

Hoảng sợ, nhớp nháp, ngập ngụa trong đống giòi…

Hắn bắn thêm phát nữa và tay cảnh sát tóc nâu nằm bẹp xuống, bò giật trở lại vào trong phòng, thét gọi gì đó vào bộ đàm, nhưng rồi lại thò ra ngay lập tức, bắn trả rất lạnh lùng.

Khoác trên người chiếc áo khoác dài màu đen của lính cứu hỏa – giống hệt như ba, bốn chục lính cứu hỏa khác đang ở phía trước ngôi nhà – Stephen đã phá tung cánh cửa trổ ra con hẻm bằng một khối thuốc nổ xuyên phá và lao vào trong. Hắn đã đinh ninh sẽ trông thấy phần nội thất của ngôi nhà chỉ còn là một đống đổ nát đầy khói lửa, còn Người vợ cùng với Người bạn – cũng như cả nửa số người có mặt trong ngôi nhà – đã bị nổ tan xác hoặc không, ít nhất cũng bị thương rất nặng. Nhưng một lần nữa Lincoln Con Giòi đã lại đánh lừa hắn. Đồ con giòi kia đã đoán ra rằng chiếc điện thoại là một cái bẫy giết người. Điều duy nhất bọn chúng không ngờ tới chính là việc hắn sẽ lại tấn công vào ngôi nhà an toàn lần nữa; chúng cứ đinh ninh rằng hắn sẽ tấn công trên đường. Vậy mà, khi lao vào trong hắn được chào đón bằng những loạt đạn bắn ra xối xả từ hai nhân viên cảnh sát tư pháp. Nhưng họ đã bị khối thuốc nổ xuyên phá làm cho choáng váng và hắn nhanh chóng hạ gục hai người.

Thế rồi đến lượt tay cảnh sát tóc nâu lao ra từ trong góc phòng, nổ súng bằng cả hai tay, nã hai viên găm sượt qua áo giáp chống đạn của Stephen, trong khi chính Stephen cũng kịp bắn một phát vào người gã cảnh sát và cả hai đồng thời ngã ngửa ra phía sau. Lại bò dậy bắn nhau túi bụi và lại những phát đạn gần trúng. Tay cảnh sát cũng là một thiện xạ hầu như không kém hắn chút nào.

Cùng lắm là một phút nữa. Đó là khoảng thời gian tối đa mà hắn có.

Stephen cảm thấy nhớp nhúa đến nỗi hắn chỉ muốn gào lên… Hắn đã dồn hết tâm sức vào việc vạch ra kế hoạch này. Hắn đã làm tất cả những gì hắn cho là khôn ngoan nhất, vậy mà tên Lincoln Con Giòi vẫn nghĩ xa hơn hắn. Liệu đây có phải là Con Giòi đó không? Tên cảnh sát đang sắp hói với hai khẩu súng ngắn?

Thêm một loạt đạn khác từ súng của Stephen. Và… thật khốn kiếp… gã cảnh sát tóc nâu vẫn nhảy xổ vào giữa làn đạn đó, vẫn lao mình về phía trước. Tất cả những tên cớm khác trên đời hẳn đã phải nhào vào đâu đó tìm nơi ẩn nấp. Nhưng không phải tên này. Anh ta cố tiến thêm được hai feet về phía trước, rồi thành ba. Stephen nạp đạn, lại nổ súng, và cũng bò thêm được một khoảng cách dài tương đương về phía cánh cửa phòng mà mục tiêu của hắn đang ở trong.

Anh hãy biến mất vào trong đất, cậu nhóc ạ. Anh có thể tự biến mình thành người vô hình, nếu anh muốn.

Tôi có muốn, thưa ngài. Tôi muốn trở thành vô hình…

Lại thêm một thước nữa, gần như chạm vào ngưỡng cửa.

“Vẫn là tôi, Roland Bell đây!” Viên cảnh sát hét vào bộ đàm của mình.“Chúng tôi cần được yểm trợ ngay lập tức!”

Bell, Stephen thầm nhớ cái tên này. Hóa ra gã này không phải là Lincoln Con Giòi.

Viên cảnh sát nạp đạn và tiếp tục bắn. Mười hai phát, rồi lại mười hai phát nữa… Stephen không thể không khâm phục chiến thuật của viên cảnh sát. Thằng cha Bell này theo dõi sát sao số phát đạn mà gã bắn ra từ mỗi khẩu súng của mình rồi luân phiên nạp đạn lại cho từng khẩu, như thế lúc nào gã cũng có trên tay một khẩu súng đã nạp đạn sẵn sàng.

Viên cảnh sát găm một viên đạn đúng vào tường chỉ cách mặt Stephen có một inch, và Stephen bắn trả lại phát súng sát sạt không kém.

Bò thêm về phía trước được hai feet nữa.

Bell liếc nhìn lên và nhận thấy cuối cùng Stephen cũng tiến tới sát ngưỡng cửa của căn phòng ngủ tối om. Mắt hai người khóa chặt vào nhau và mặc dù là một quân nhân giả hiệu trong tưởng tượng của chính mình, Stephen Kall cũng đã chứng kiến quá đủ cảnh giao tranh ác liệt để biết rằng những sợi thần kinh lý trí có trong tay cảnh sát này đã đứt phựt và anh ta đã trở thành thứ đáng sợ nhất trên đời – một chiến binh thiện chiến không hề màng đến sự an nguy của bản thân. Bell đứng bật dậy và lao mình về phía trước, cả hai khẩu súng cùng khạc đạn.

Đó là lý do tại sao người ta phải dùng đến đạn cỡ .45[95] hồi Chiến tranh thế giới thứ hai ở Thái Bình Dương, nhóc ạ. Đạn thật bự để chặn đứng bọn Nhật lùn cuồng tín. Khi chúng lao vào anh, chúng không bao giờ quan tâm đến việc bị giết; đơn giản chỉ là chúng không muốn bị chặn lại.

Stephen cúi thấp đầu xuống, tung quả lựu đạn choáng[96] có thời gian chờ nổ một giây về phía Bell và nhắm mắt lại. Quả lựu đạn phát hỏa với một tiếng nổ to khủng khiếp. Hắn nghe thấy viên cảnh sát rú lên rồi trông thấy anh ta khuỵu xuống trên hai đầu gối, hai tay đưa lên ôm lấy mặt.

Sở dĩ Stephen đoán ra được là bởi vì hắn thấy hai người cảnh sát bảo vệ cùng với Bell đều liều chết ngăn chặn hắn, chắc chắn hoặc Người vợ hoặc là Người bạn đang ở trong căn phòng đó. Stephen cũng đoán rằng cho dù trong phòng đó có là ai thì người đó cũng sẽ nằm trốn trong tủ hoặc dưới gầm giường.

Hắn đã nhầm.

Khi vụt liếc vào trong ngưỡng cửa hắn thoáng thấy một bóng người đang lao về phía mình, tay giương cao chiếc đèn bàn làm vũ khí, miệng buột ra một tiếng thét pha trộn giữa căm giận và sợ hãi.

Năm phát súng nổ đanh từ khẩu súng của Stephen. Tất cả đều găm vào đầu và ngực, rất chụm. Cơ thể người kia khựng giật lại, lảo đảo xoay một vòng rồi đổ ngửa xuống sàn nhà.

Làm tốt lắm, quân nhân.

Và rồi thêm nhiều tiếng bước chân nện trên sàn nhà, chạy xuống cầu thang. Giọng của một phụ nữ. Và nhiều giọng khác nữa. Không còn thời gian để kết liễu Bell, không còn thời gian để truy tìm nốt mục tiêu còn lại.

Rút lui…

Hắn chạy tới cửa sau và thò đầu ra bên ngoài, lớn tiếng gọi thêm lính cứu hỏa đồng nghiệp.

Gần mười người vội vàng chạy tới.

Stephen hất đầu ra hiệu cho họ khẩn trương vào trong. “Đường dây ống dẫn ga bị nổ. Tôi sẽ cho mọi người di tản. Khẩn trương lên.”

Và hắn biến mất vào trong con hẻm, rồi bước ra phố, chạy luồn lách giữa những chiếc xe cứu hỏa hiệu Mack và Seagrave, xe cứu thương, xe tuần tra.

Run bắn, đúng thế.

Nhưng phấn khích. Công việc của hắn đã hoàn thành được hai phần ba.

Amelia Sachs là người đầu tiên kịp phản ứng với tiếng nổ của khối thuốc xuyên phá cùng tiếng la hét.

Rồi giọng của Roland Bell từ dưới tầng một thét vọng lên : “Yểm trợ! Yểm trợ! Có cảnh sát bị bắn!”.

Rồi tiếng súng nổ. Một loạt đạn nổ đinh tai, rồi một loạt nữa.

Chú thích

[95]Đạn .45: Một loại đạn cỡ lớn, tương đương đạn 11 milimét, có khả năng sát thương cực mạnh.

[96]Lựu đạn choáng: Loại lựu đạn không sát thương nhưng gây tiếng nổ lớn và lóe sáng, làm đối phương bị ù tai và hoa mắt.

Cô không biết tên Vũ công đã lọt vào như thế nào và cô cũng không kịp quan tâm. Lúc này cô chỉ muốn thoáng phát hiện được mục tiêu cùng khoảng thời gian hai giây cần thiết để trút cả nửa băng đạn chín ly đầu khoét lõm[97] vào hắn.

Với khẩu Glock nhẹ bẫng trên tay, cô lao vụt ra hành lang tầng hai. Chạy sau cô là Sellitto và Dellray cùng một tay cảnh sát trẻ mặc sắc phục, với anh chàng này cô chỉ kịp ước, giá kể mình có thời gian để tìm hiểu phẩm chất của anh ta khi lâm trận. Jodie nằm chết gí trên sàn, kinh hoàng nhận ra rằng gã đã phản bội một kẻ cực kỳ đáng sợ đang có vũ khí và chỉ cách đó chưa đầy 30 feet.

Hai đầu gối Sachs như đang muốn kêu gào phản đối khi cô lao phăm phăm xuống cầu thang, vẫn là căn bệnh viêm khớp và cô không khỏi nhăn mặt đau đớn khi nhảy thẳng từ ba bậc thang cuối cùng xuống sàn tầng một.

Qua tai nghe của mình cô nghe rõ yêu cầu lặp đi lặp lại của Bell về việc cần yểm trợ khẩn cấp.

Chạy dọc hành lang tối om, khẩu súng ép sát vào người, đây là tư thế an toàn nhất để kẻ thù không thể bất ngờ đánh văng súng của cô (chỉ những cảnh sát trên ti vi và nhưng tên găngxtơ trên phim mới lăm lăm chĩa thẳng súng về phía trước đầy vênh váo trước khi rẽ vào các góc, hoặc ghếch mũi súng chĩa lên trên). Liếc thật nhanh vào những căn phòng cô bước qua, khom thấp người xuống, dưới tầm cao ngang ngực, nơi một nòng súng thường đang phục sẵn để chĩa vào.

“Để tôi lo phía trước”, Dellray ra lệnh và biến mất vào cuối gian sảnh phía sau cô, khẩu Sig-Sauer to bự lăm lăm trên tay anh.

“Hãy cảnh giới phía sau”, Sachs ra lệnh cho Sellitto và người thanh niên mặc sắc phục, không thèm đếm xỉa đến cấp bậc lúc này.

“Rõ”, anh ta tuân lệnh.“Tôi sẽ cảnh giới. Phía sau lưng chúng ta.”

Sellitto cũng đang thở hổn hển, đầu anh ta hết cúi phía trước lại ngả về ra sau.

Tín hiệu loẹt xoẹt trong tai cô nhưng Sachs không nghe thấy giọng nói nào. Cô giật chiếc tai nghe xuống khỏi đầu – để không bị phân tâm – và thận trọng đi tiếp dọc hành lang.

Dưới chân cô là xác của hai cảnh sát tư pháp Mỹ nằm trên mặt sàn.

Mùi hóa chất thuốc nổ cháy khét lẹt và cô liếc nhanh về phía cửa sau của ngôi nhà an toàn. Cánh cửa bằng thép tấm nhưng hắn đã cho nó nổ tung bằng một khối thuốc nổ xuyên phá cực mạnh như thể cánh cửa được làm bằng giấy bồi.

“Chúa ơi”, Sellitto thốt lên, anh thừa đủ chuyên nghiệp nên không cúi xuống kiểm tra hai cảnh sát tư pháp chết trên sàn nhưng cũng quá con người nên không thể không kinh hoàng liếc mắt nhìn hai thi thể bị đạn bằm nát.

Sachs bước tới một căn phòng, dừng lại bên cánh cửa. Hai trong số những cảnh sát đặc nhiệm của Haumann cũng vừa bước vào từ ngưỡng cửa bị thuốc nổ phá tung.

“Yểm trợ”, cô thét to và trước khi bất kỳ ai kịp có cơ hội ngăn cô lại, Sachs đã nhảy vọt qua ngưỡng cửa.

Khẩu Glock giương lên, lia nhanh qua căn phòng.

Không có gì.

Cũng không có mùi cordite. Tức là ở đây không có nổ súng.

Lại quay ra hành lang. Tiến về phía ngưỡng cửa tiếp theo.

Cô chỉ tay vào người mình rồi chỉ vào căn phòng. Hai cảnh sát đặc nhiệm 32-E gật đầu.

Sachs lao vụt vào rồi quay ngoắt người quanh ngưỡng cửa, sẵn sàng nổ súng, hai cảnh sát đặc nhiệm sát phía sau. Cô cứng đờ người khi nhận ra một họng súng đang chĩa thẳng vào ngực mình.

“Chúa ơi”, Roland Bell rên lên và hạ thấp họng súng xuống. Tóc viên cảnh sát lật rối tung, mặt anh thì nhem nhuốc khói súng. Hai viên đạn đã xé rách áo sơ mi và hằn dấu trên chiếc áo giáp chống đạn của anh.

Rồi mắt Sachs chợt nhìn tới khung cảnh khủng khiếp trên sàn nhà.

“Ôi, không…”

“Tòa nhà đã an toàn”, một cảnh sát đặc nhiệm từ ngoài hành lang nói vọng vào. “Họ nhìn thấy hắn đã bỏ đi. Hắn mặc đồng phục của lính cứu hỏa. Hắn trốn thoát rồi. Hòa lẫn vào đám đông tụ lại trước ngôi nhà.”

Amelia Sachs, lúc này lại trở thành nhà hình sự học chứ không còn là một sĩ quan hành động, bắt đầu quan sát các vết máu, hít ngửi mùi thuốc súng cháy khét lẹt, nhìn chiếc ghế đổ nhào, đây có thể là dấu hiệu cho thấy đã có một cuộc vật lộn xảy ra và theo logic thông thường thì đó sẽ là điểm chuyển tiếp dấu vết và bằng chứng quý giá. Những vỏ đạn rải rác trên sàn, chỉ cần liếc qua cô cũng kịp nhận thấy ngay rằng chúng được bắn ra từ một khẩu tự động cỡ 7,62 milimét.

Cô cũng quan sát cả tư thế của nạn nhân khi ngã xuống, điều đó nói lên rằng nạn nhân đã chết khi đang tấn công hung thủ, rõ ràng là với một chiếc đèn bàn. Còn rất nhiều câu chuyện khác mà hiện trường vụ án sẽ tiết lộ và, vì lý do đó, Sachs biết rằng cô nên giúp Percey Clay gượng đứng dậy và dẫn người nữ phi công rời xa khỏi thi thể người bạn thân xấu số của mình. Nhưng Sachs không thể nào làm được điều đó. Tất cả những gì cô có thể làm là đứng chết lặng nhìn người phụ nữ nhỏ bé với khuôn mặt ngắn bè bè xấu xí đang ôm cái đầu bê bết máu của Brit Hale vào lòng, miệng không ngớt lảm nhảm, “Ôi, không, ôi không…”

Khuôn mặt người phụ nữ chỉ còn là một chiếc mặt nạ, như hóa đá, không một giọt nước mặt trào ra.

Cuối cùng Sachs gật đầu ra hiệu cho Roland Bell. Viên cảnh sát quàng tay ôm lấy Percey và dìu cô bước ra ngoài hành lang, mặc dù vậy anh vẫn không quên cảnh giác, tay nắm chặt khẩu súng ngắn.

Cách ngôi nhà an toàn 230 thước.

Đủ các loại đèn xanh và đỏ của hàng chục xe cứu thương, và xe cảnh sát đang loạn xạ nhấp nháy loang loáng khắp nơi như thể cố làm cho hắn bị lóa mắt. Mặc dù vậy Stephen vẫn tập trung quan sát qua chiếc kính ngắm Redfield và hoàn toàn không để ý tới bất kỳ điều gì ngoài dấu chữ thập quang học. Hắn chậm rãi lia qua lia lại khắp khu vực tiêu diệt.

Lúc này Stephen đã trút bỏ bộ đồng phục của lính cứu hỏa và lại ăn mặc như một sinh viên đại học quá tuổi. Hắn đã lấy lại khẩu Model 40 giấu bên dưới tháp chứa nước, nơi hắn ẩn náu sáng hôm đó. Khẩu súng đã được nạp đạn và lên khóa nòng sẵn sàng. Dây đeo súng được quấn cẩn thận quanh cánh tay và hắn đã sẵn sàng cho việc tiêu diệt con mồi.

Ngay lúc này đây kẻ mà hắn săn lùng không phải là Người vợ.

Và đó cũng không phải là Jodie, đồ đĩ đực Judas phản bội.

Hắn đang săn lùng Lincoln Con Giòi. Kẻ vừa một lần nữa đã chiến thắng hắn trong cuộc đấu trí này.

Kẻ đó là ai? Tên nào trong số bọn chúng?

Nhớp nhúa.

Lincoln… Ông hoàng của lũ giòi.

Mày đang ở đâu? Có phải mày đang đứng trước mặt tao ngay lúc này không? Trong đám đông đang tụ tập quanh tòa nhà nghi ngút khói?

Có lẽ nào đó là tên cớm béo ị kia, mồ hôi nhễ nhại như một con lợn thiến?

Hay là gã mọi mặc bộ com lê màu xanh? Trông mặt gã quen quen. Stephen đã nhìn thấy gã này ở đâu nhỉ?

Một chiếc xe không có dấu hiệu riêng vừa xịch tới và có mấy người mặc com lê nhảy xuống.

Có thể Lincoln là một trong số chúng.

Cô ả cảnh sát tóc đỏ bước từ trong xe ra. Cô ta đang mang găng tay cao su. Hóa ra cô em ở bộ phận CS? Hừm, ta đã xử lý kỹ vỏ và đạn của mình rồi, cưng ạ, hắn thầm nói với cô ta trong khi thước ngắm hình chữ thập của ống kính quang học đã chọn được một điểm ngắm rất tuyệt vời trên cổ cô nàng. Và cô em sẽ phải bay tới tận Singapore thì may ra mới lần được manh mối liên quan đến khẩu súng của ta.

Hắn nhẩm tính hắn chỉ có đủ thời gian để bắn đúng một phát súng trước khi bị dồn bật trở lại vào con hẻm bằng loạt đạn bắn trả xối xả chắc chắn sẽ bung ra sau đó.

Mày là ai?

Lincoln? Lincoln?

Nhưng hắn không có chút manh mối nào.

Chú thích

[97]Đạn đầu khoét lõm: Loại đầu đạn không nhọn hoắt như thông thường, mà hơi lõm xuống, tăng khả năng sát thương.

Đúng lúc đó cánh cửa trước bật mở và Jodie xuất hiện, gã e dè bước ra khỏi ngưỡng cửa. Gã nhớn nhác nhìn quanh, hấp háy mắt, rồi co rúm người dựa hẳn vào tường nhà.

Mày…

Lại là cảm giác râm ran như điện giật. Dù là ở khoảng cách xa ngần này.

Stephen dễ dàng chỉnh thước ngắm vào giữa ngực gã.

Hành động đi, quân nhân, hãy nổ súng đi. Hắn là một mục tiêu tất yếu; hắn có thể khai ra anh.

Thưa ngài, tôi đang tính toán khoảng cách và vận tốc gió.

Stephen bắt đầu chầm chậm tăng lực vào ngón tay đặt trên vành cò.

Jodie…

Hắn đã phản bội anh, quân nhân. Khử… hắn… đi.

Rõ, thưa ngài. Hắn lạnh như đá rồi. Coi như hắn chỉ còn là xác thối. Thưa ngài, lũ kền kền bắt đầu lượn lờ trên kia rồi.

Quân nhân, điều lệnh huấn luyện xạ thủ bắn tỉa của lính thủy đánh bộ Hoa Kỳ chỉ rõ rằng người bắn phải từ từ tăng lực trên ngón tay bóp cò khẩu Model 40 thật tự nhiên sao cho anh ta không thể biết được thời điểm chính xác khẩu súng của mình sẽ khai hỏa. Có đúng thế không, quân nhân?

Đúng, thưa ngài.

Nếu đúng thì thế quái nào anh lại không làm theo hả?

Hắn xiết mạnh tay cò hơn nữa.

Thật chậm rãi, thật từ từ…

Nhưng khẩu súng vẫn chưa nổ. Hắn nâng kính ngắm lên nhằm vào đầu Jodie. Và đúng lúc đó, đôi mắt của Jodie, từ đầu đến giờ vẫn lia khắp các mái nhà xung quanh, nhìn thấy hắn.

Hắn đã chần chừ quá lâu.

Bắn đi, quân nhân. Bắn!

Một tiếng thì thầm do dự…

Rồi hắn kéo mạnh tay cò như một thằng nhóc đang tập bắn với khẩu súng trường .22 ở một trại hè chết tiệt.

Đúng lúc Jodie lao người ra khỏi đường đạn, xô cả những cảnh sát đứng cạnh gã ngã sang một bên.

Quỷ tha ma bắt thế quái nào mà anh lại bắn trượt phát đó hả, quân nhân? Bắn lại ngay!

Rõ, thưa ngài.

Hắn nổ thêm hai phát súng nữa nhưng Jodie và tất cả mọi người xung quanh đều đã tìm được chỗ nấp hoặc thụp người xuống chạy tránh đạn dọc đường phố và vỉa hè.

Và rồi loạt đạn bắn trả bắt đầu. Đầu tiên là hơn chục khẩu súng khạc đạn, tiếp theo là hơn chục khẩu súng nữa phụ họa. Chủ yếu là súng ngắn, nhưng cũng có cả mấy khẩu tiểu liên H&K, xối xả vãi đạn nghe chiu chíu như những động cơ ô tô hỏng ống xả.

Đạn đang nối tiếp nhau dội vào tháp thang máy phía sau lưng Stephen, trút xuống đầu hắn một cơn mưa những mẩu gạch và bê tông vỡ, cùng với những mảnh đồng và chì sắc nhọn từ đầu đạn bắn ra, cắt sâu vào cả hai cánh tay và mu bàn tay của hắn.

Stephen ngã nhào về phía sau, hai tay buông súng giơ lên che lấy mặt. Hắn cảm thấy những vết rách và nhìn thấy những giọt máu nhỏ li ti của mình đang rỏ xuống mái nhà phủ giấy tráng nhựa đường.

Tại sao mình lại chần chừ? Tại sao? Mình đã có thể bắn hắn và cao chạy xa bay.

Tại sao?

Âm thanh phành phạch của một chiếc trực thăng đang tăng tốc về phía tòa nhà. Thêm những tiếng còi hụ đang ập tới.

Rút lui ngay, quân nhân! Rút lui!

Hắn liếc nhanh xuống và nhìn thấy Jodie đang nhoài người bò tìm chỗ nấp sau một chiếc xe. Stephen ném khẩu Model 40 vào hộp, khoác vội chiếc ba lô lên vai và trèo nhanh theo cầu thang thoát cháy dẫn xuống con hẻm.

Bi kịch thứ hai.

Percey Clay đã thay quần áo và bước ra ngoài hành lang, người cô mềm oặt như tàu lá và phải dựa vào thân hình chắc nịch của Roland Bell. Anh quàng tay ôm quanh người cô.

Bi kịch thứ hai trong ba. Không phải việc tay thợ kỹ thuật chính bỏ việc hoặc những vấn đề đang xảy ra với công ty. Mà là về cái chết của người bạn thân thiết của cô.

Ôi, Brit…

Cô hình dung ra anh, hai mắt trợn trừng, miệng há hốc trong một tiếng thét uất nghẹn, lao thẳng về phía tên giết người khủng khiếp. Cố chặn bước hắn lại, kinh hoàng trước việc có kẻ đang thực sự tìm cách giết mình và Percey. Cảm thấy căm hặn và bị phản bội hơn là sợ hãi. Cuộc đời anh mới thật rạch ròi làm sao, cô thầm nghĩ về Brit. Ngay cả những rủi ro của anh cũng được tính toán cẩn thận. Cú bay lật bụng ở độ cao 50 feet, nhưng cú bổ nhào xoắn ốc, nhảy tự do không dù. Những trò biểu diễn mà người xem tưởng chừng như là không thể. Nhưng anh biết rõ những gì mình làm và nếu như có lúc nào đó anh nghĩ về khả năng đột tử, thì anh cũng tin rằng đó sẽ là do một mối hàn nào đó phía sau máy bay bị bung ra, rồi thì đường dẫn nhiên liệu bị tắc hoặc do một tay phi công tập sự cẩu thả nào gây tai nạn.

Nhà văn nổi tiếng chuyên viết về ngành hàng không Ernest K.Gann từng viết rằng số phận là một kẻ đi săn. Từ trước tới nay Percey vẫn đinh ninh ông muốn nói đến thiên nhiên hoặc hoàn cảnh khách quan – nhưng yếu tố hay thay đổi, những cơ chế hoạt động đầy khiếm khuyết cùng về hùa với nhau để đẩy máy bay bổ nhào xuống đất. Nhưng số phận còn phức tạp hơn thế rất nhiều. Số phận phức tạp không khác gì suy nghĩ của con người. Phức tạp như bản thân cái ác.

Không bao giờ hai mà không ba… Và điều gì sẽ là bi kịch cuối cùng? Chẳng lẽ là cái chết của cô? Của Công ty? Hay của một người khác?

Gục hẳn vào Roland Bell, người cô run lẩy bẩy vì căm giận trước sự ngẫu nhiên đến tàn nhẫn của số phận. Nhớ lại tất cả: cô cùng với Ed và Hale, mắt nhắm mắt mở vì thiếu ngủ, đứng trong quầng sáng của ánh đèn pha trong hangar xung quanh chiếc Learjet Charlie Juliet, khắc khoải hy vọng họ sẽ giành được hợp đồng của Tập đoàn U.S. Medial, vừa rét run cầm cập trong cái lạnh ẩm ướt của màn đêm vừa phải cố tính toán sửa sang lại chiếc máy bay phản lực như thế nào để phục vụ cho công việc tốt nhất.

Rất khuya, một đêm lạnh đầy sương. Sân bay vắng tanh và tối om. Giống như cảnh cuối cùng trong phim Casablanca.

Ba người nghe thấy tiếng phanh nghiến ken két và cùng liếc ra ngoài.

Người đàn ông đang lôi những chiếc túi bạt lớn ra khỏi chiếc xe trên đường băng, lẳng chúng vào khoang lái và khởi động chiếc Beachcraft. Tiếng nổ nghèn nghẹt rất đặc trưng của loại động cơ van pít tông bắt đầu vang lên.

Cô còn nhớ lúc đó Ed đã nói với vẻ nghi ngờ, “Hắn đang làm gì thế? Sân bay đóng cửa rồi mà.”

Đó là số phận.

Khi họ tình cờ có mặt ở sân bay đêm hôm đó.

Khi Phillip Hansen đã chọn đúng thời điểm đó để thủ tiêu những bằng chứng giết người của hắn.

Khi Hansen lại là kẻ sẵn sàng giết bất kỳ ai để giữ cho chuyến bay giữa đêm khuya hôm ấy mãi mãi là một bí mật.

Số phận…

Bỗng cô giật nẩy mình – vì một tiếng gõ vang lên trên cánh cửa của ngôi nhà an toàn.

Hai người đàn ông xuất hiện trên ngưỡng cửa. Bell nhận ra họ ngay lập tức. Họ thuộc Đội Bảo vệ Nhân chứng của NYPD. “Chúng tôi tới đây để đưa bà tới cơ sở bảo vệ Shoreham trên đảo Long Island, thưa bà Clay.”

“Không, không”, cô nói. “Chắc có nhầm lẫn rồi. Tôi phải tới sân bay Mamaroneck.”

“Percey”, Roland Bell lên tiếng.

“Tôi phải tới đó.”

“Tôi không biết gì về chuyện đó, thưa bà”, một trong hai người sĩ quan nói. “Chúng tôi nhận được mệnh lệnh là phải đưa bà tới Shoreham và tiến hành các biện pháp cần thiết để bảo vệ bà tại đó, cho tới khi một bồi thẩm đoàn được triệu tập vào thứ Hai tới.”

“Không, không, không. Hãy gọi cho Lincoln Rhyme. Anh ta biết chuyện này.”

“À ừm…” Hai nhân viên cảnh sát bối rối nhìn nhau.

“Làm ơn đi”, cô nói, “hãy gọi cho anh ta. Anh ta sẽ cho các anh biết chuyện đó.”

“Thật ra, thưa bà Clay, chính ông Lincoln Rhyme là người ra lệnh di chuyển bà khỏi đây. Xin bà hãy vui lòng đi cùng chúng tôi. Bà đừng lo gì cả. Chúng tôi sẽ chăm sóc bà thật chu đáo, thưa bà.”