ôi không có ý định thuật lại. Sau bao nhiêu năm, nỗi đau đớn về thể xác lẫn tinh thần mà tôi chịu đựng suốt những tháng khủng hoảng mà tôi cứ ngỡ đời mình đã tàn. Đề tài ấy thật khá nghèo nàn. Có tội gì khi nhắc lại những nổi đắng cay hầu như đã được lãng quên? Nhưng phải nói rằng hồi đó mọi người cứ sợ tôi điên. Tôi trải qua nhiều tuần như người mất trí. Dần dần tôi tỉnh trí tại và bắt đầu ý thức toàn diện nỗi đau thể xác. Tôi hỏi thăm về Richard và được biết rằng, sau khi hoài công chờ đợi nơi tôi một dấu hiệu bình phục, nghe lời khuyên của Bevil, chàng đã trở về với trung đoàn. Như thế tốt hơn, chàng không thể ngồi yên được, ở Portsmouth, bạn thân của chàng, quận công Buckingham bị ám sát chết.
Khi Richard trở lại, tôi đang ở Lanrest và sức khỏe khá phục hồi để có thể quyết định về tương lai. Tôi đã quyết định không bao giờ gặp lại Richard nữa. Tôi đã viết cho chàng một bức thư, nhưng chàng không chịu nghe. Chàng từ Luân Đôn về cố ý để gặp tôi. Tôi từ chối. Chàng muốn phá cửa phòng tôi. Các anh tôi đã cản đường chàng. Chỉ khi các Y sĩ quả quyết rằng sự hiện diện của chàng sẽ làm cho bệnh của tôi thêm trầm trọng, chàng mới hiểu rằng thế là hết. Chàng bỏ đi không một lời. Tôi nhận lá thư cuối cùng của chàng, đầy lời lẽ điên khùng, cay đắng và trách móc. Sau đó là im lặng
.
Tháng mười một năm đó, chàng lấy bà Howard ở Fitxford, một góa phụ giàu, đã ba đời chồng, và già hơn chàng bốn tuổi. Tôi biết tin này một cách gián tiếp, do một lời nói hớ hênh của Matty. Tôi hỏi mẹ tôi đâu là sự thật. Thoạt đầu, mẹ tôi muốn dấu, vì sợ tôi lại bị cú sốc, nhưng rồi bà phải ngạc nhiên khi thấy tôi điềm tĩnh chấp nhận sự việc đó.
Chàng, cũng như mọi người khác, khó có thể hiểu được rằng, kể từ bây giờ, tôi tự coi mình là một sinh vật mới. Còn con người mang tên Honor đã chết rồi, chắc chắn chết như con hạc sa xuống vực vào một buổi trưa tháng năm.
Nằm trên giường, tôi mỉm cười khi nghĩ rằng, cuối cùng chàng đã tìm thấy một người thừa kế gia tài giàu có, và lại là một góa phụ lớn tuổi! Tôi thầm mong sao bà ấy, với kinh nghiệm sẵn có, sẽ mang lại hạnh phúc cho chàng và sự giàu có của bà ta sẽ bảo đảm phần nào cuộc sống của chàng.
Cũng trong khoảng thời gian này, tôi phải thích nghi với một lối sống mới, thích nghi với đôi chân bất động vĩnh viễn. Tinh thần phải khiến cho thể xác không bị suy sụp. Em trai tôi, Percy cũng vừa từ Oxford trở về, mang theo những cuốn sách học, và với sự giúp đỡ của nó, tôi bắt đầu học tiếng Hy lạp và la tinh. Trong gia đình ai cũng tốt và dịu dàng với tôi. Các chị tôi và các cháu, lúc nào nước mắt cũng chực rơi xuống vì thương hại tôi, nhưng rồi cũng quen dần với tình trạng của tôi và với thời gian, đứa con thứ nhất nhà này đã trở thành người hướng dẫn và môi giới trong những việc kinh doanh của họ. Người ta nhờ tôi giải quyết nhiều vấn đề. Lẽ dĩ nhiên, phải mất bao nhiêu năm mới được như thế. Matty, người hầu gái trẻ tuổi, ngay từ sau khi tôi bị tai nạn, đã một lòng tận tụy với tôi. Chỉ cần nhìn vào mắt tôi, Matty tinh ý biết ngay khi nào tôi mệt để xua đuổi khách ra về. Chính cô ta chăm sóc cho tôi từng miếng ăn, áo mặc cũng với mọi nhu cầu khác mặc dù tôi luôn luôn cố gắng tự xoay sở lấy. Ba năm sau tai nạn, tôi đã khá hồi phục sức để có thể ngồi hoặc quay sang trái phải một mình. Chỉ có đôi chân của tôi hoàn toàn mất cảm giác. Tội nghiệp Matly. Đôi khi trong trạng thái mệt mỏi tôi cáu kỉnh cả với Matty, nhưng cô ta vẫn một lòng một dạ với tôi. Còn ông anh Robin yêu quý của tôi là người đầu tiên nảy ra ý nghĩ làm cho tôi một cái ghế lăn, cho phép tôi có thể di chuyển từ phòng này qua phòng khác. Và chiếc ghế này là sáng kiến độc đáo nhất của anh ta. Robin đã miệt mài vẽ kiểu và chế tạo trong vài tháng. Lần đầu tiên khi tôi ngồi lên và tự mình điều khiển ghế lăn theo ý muốn mà không gặp trở ngại nào, niềm vui của anh tôi còn lớn hơn cả niềm vui của tôi.
Chiếc ghế lăn này mang lại một thay đổi lớn trong đời sống hàng ngày của tôi. Mùa thu, tôi có thể mạo hiểm ra đến tận vườn, hoặc di chuyển chút ít, chung quanh nhà.
Năm 1632, lại một đám cưới khác trong gia đình. Chị mary của tôi, người chị hiền dịu và mộ đạo nhất, đã lấy Jonathan Rashleigh ở Menabilly, người đàn ông góa vợ từ năm ngoái để lại cho anh ta những đứa trẻ thơ còn bồng trên tay. Dù thế nào đi nữa, hôn lễ diễn ra hết sức tốt đẹp ở Lanrest. Jonathan lúc ấy đã bốn mươi tuổi, còn Mary thì ba mươi hai. Bà đứa con của anh ta là Alice, Alisabeth và John cũng tham dự đám cưới của cha và chúng chiếm được lòng thương của tôi ngay. Bevil Grenvile vốn là bạn thân của Jonathan, cũng tới dự đám cưới. Chỉ sau khi hôn lễ và chị Mary đã lên đường về nhà mới phía bên kia Forwey, tôi mới có dịp được nói chuyện riêng với Bevil. Trước hết chúng tôi nói về các con của anh ta, về cuộc sống của gia đình anh ta ở Stowe, sau đó tôi yêu cầu anh ta cho tôi biết những tin tức liên quan đến Richard.
Bevil giữ im lặng một lúc, nhăn trán nghĩ ngợi.
Anh đã muốn giữ im lặng - cuối cùng anh ta hỏi - nhưng vì em muốn biết... Honor! Từ sau khi Richard lấy vợ, mọi sự đều diễn biến rất xấu với chú ấy.
Một thứ niềm vui ích kỷ chợt dấy lên trong lòng tôi, mà tôi muốn gạt đi.
- Tại sao thế? - tôi hỏi - Họ có với nhau một đứa con trai mà?
Thật ra thì tôi đã nghe tin con trai của Richard chào đời cách đây một năm, đúng vào ngày mười sáu tháng năm, ngày kỷ niệm - ôi, mỉa mai thay! - tai nạn của tôi trong cuộc đi săn. Lúc ấy tôi nghĩ rằng một cuộc sống mới đến thay thế cho cuộc sống đã tắt lịm ngày hôm đó. Và tôi đã gục đầu trên gối khóc suốt đêm khi nghĩ rằng định mệnh ác nghiệt đã khiến đứa trẻ sinh ra không phải là con của tôi.
Phải - Bevil trả lời - Chú ấy có một con trai, đúng vậy, và một đứa gái nữa. Nhưng anh không biết Richard có được gặp chúng không. Sự thật thì hai vợ chồng chú ấy cãi nhau dữ dội và nghe đâu Richard đánh vợ một bạt tai, thế là bà ta đòi ly dị. Ngoài ra, Richard đã xúc phạm đến danh dự của bá tước Suffold, bà con bên vợ và bị thua kiện. Nhưng chú ấy từ chối không chịu nộp tiền phạt. Có thể chú ấy sẽ bị ngồi tù để thế nợ.
Richard đánh vợ sao? - Tôi nói - có thể tại vì bà vợ quá quắt lắm.
Anh cũng không biết rõ - Bevil nói - nhưng anh tin rằng em cố lý. Vợ chú ấy khá dữ và thiếu đạo đức. Bà ta là bạn thân của Gartred. Sự thật thì Richard đã cưới Maty Howard chỉ vì tiền. Nhưng sau đó, Richard sớm nhận ra rằng chú ta không chút quyền hành nào đối với tài chính và của cải của vợ, hiện đang ở trong tay các pháp nhân hành động theo chỉ thị và quyền lợi riêng của bà ấy.
Rốt cuộc thì Richard vẫn không khá giả hơn trước?
Còn bết hơn nữa - Bevil nói - Tòa buộc chú ấy phải thanh toán tiền bồi thường danh dự cho viên bá tước. Còn về phần anh cũng đang gặp khó khăn, không thể giúp đỡ gì được chú ấy.
Một bức tranh khá buồn và mặc dầu trong cơn ghen tức, tôi hoàn toàn không sung sướng gì khi biết được thảm họa của chàng. Sự việc Richard đối xử thô bạo với vợ vì không bòn rút được tiền, không phải là chuyện vui đối với tôi. Tôi quá hiểu rõ Richard. Chàng lấy vợ không phải vì yêu, nhưng với tâm hồn cay đắng, và vì nghi ngờ mọi ý định của chàng, người vợ đã không để cho chàng trục lợi. Làm sao mà trên những cơ sở đó, có thể có một sự kết hợp bền vững được?
Sau này, chúng tôi được biết Richard ngồi tù vài tháng rồi, mùa thu năm sau, chàng rời khỏi Anh quốc để qua lục địa và phục vụ dưới trướng Vua nước Thụy Điển.
Trước khi xảy ra tai nạn, tôi là đứa con gái bướng bỉnh, nhưng vào năm 1642, khi mà chiến tranh bùng nổ làm rối loạn cuộc sống của chúng tôi. Tôi trở thành một phụ nữ ba mươi hai tuổi, thành "dì Honor tốt bụng'' của nhiều cháu trai, cháu gái, và trở thành một nhân vật khá quan trọng trong gia đình.
Người nào ngồi iìệt giiế hãy nằm liệt giường thường trở nên độc đoán và mặc dù tôi không thích động vai trò chuyện - chế, nhưng sau khi mẹ tôi chết, tôi trở thành người quyết định mọi việc trong gia đình. Các cháu rất yêu thương tôi, bởi vì khi cần thiết, tôi thường bênh vực cho chúng. Phòng ngủ của tôi ở Lanrest trở thành một hộp thư, một nơi hò hẹn, hay phòng xưng tội -. Các con của Jonathan thường xuyên lui tới phòng tôi, và tôi trở thành người phân xử mọi chuyện cãi cọ, bao che những cô cậu trốn học, kể cả làm trung gian những chuyện tình cảm của chúng. Anh rể tôi, Jonathan rất công bình và tốt, nhưng nghiêm khắc. Anh ta thuộc phe những người chủ trương đám cười "chín chắn, kịch liệt phản đối những tình cảm vội vã bộc phát của con tim. Lẽ dĩ nhiên là anh rể tôi có lý, nhưng tôi không thích kiểu hôn nhân do sự mặc cả giữa những ngươi lớn hai bên hoặc những cuộc bàn cãi bẩn thỉu về tiền bạc. Vì thế khi Alice, con gái lớn của anh ta, yêu một thanh niên lên là Peter Courtney.
Vợ chồng Jonathatt đã bàn bạc trong nhiều tháng về đề tài có nên đồng ý cho chúng cưới nhau hay không? tôi đã gọi hai đứa đến Lanrest, cho phép chúng gặp nhau và tạo niềm hạnh phúc cho chúng.
Cuối cùng thì hai đứa được phép cưới nhau, mặc dù sự kết hợp này lại kết thúc bằng sự phân ly - nguyên nhân do chiến tranh - ít ra chúng cũng được hưởng vài năm hạnh phúc, nhờ sự can thiệp của tôi.
Nhưng chiến tranh đã bất ngờ ập đến. Jonathan và các anh của tôi, cũng như bao người có tài sản đất đai, đều phải đối phó giải quyết nhiều vấn đề trọng đại. Xứ sở đã bất ổn từ lâu và ở Cornouailles này, ý kiến người dân cũng trái ngược nhau. Người thì cho rằng Đức Vua có quyền ban bó những đạo luật tùy theo ý ngài - mặc dù ai cũng phàn nàn về thuế cao nhưng người khác lại tuyên bố rằng phải trao quyền hành cho nghị viện để tránh sự độc tài chuyên chế của vị Quân vương. Tôi đã thường nghe các anh tội bàn cãi vấn đề đó với Jack Trelawaey, Ranald Mohun, Dick Elulier và những người khác. Các anh tôi cương quyết đứng về phía Đức Vua.
Anh Jo của tôi đã giữ một địa vị quan trọng. Nhiệm vụ của anh là tổ chức những cuộc phòng thủ ven biỂn. Những tháng trôi qua trong sự căng thẳng. Tình bạn trở nên lạt lẽo, người ta ngờ vực lẫn nhau. Người ta công khai nói đến cuộc nội chiến và mỗi người trong lãnh địa của mình bắt đầu chuẩn bị vũ khí, người, ngựa, sẵn sào bảo vệ chính kiến của mình. Phụ nữ cũng không thất nghiệp. Nhiều người, như chị Cecilia của tôi ở Mothercombe đã dùng những khăn trải giường cũ để làm vải băng vết thương và chuẩn bị lương thực, phòng ngừa khi bị bao vây. Những cuộc cãi cọ trở nên gay gắt kịch liệt. Bạn bè tôi dùng bữa với chúng tôi tuần trước nay bỗng trở nên đa nghi, bới móc những chuyện cũ của nhau. Chỉ vì bất đồng quan điểm, người ta đã bôi nhọ nhau.
Tôi vô cùng đau buồn trước sự việc đó. Trong phút chốc, những người đã từng sống chung hòa bình với nhau từ bao thế hệ, bỗng nhiên trở nên thù nghịch với nhau. Tôi không thích nghe Robin, người anh yêu dấu của tôi, có những lời lẽ phỉ báng Dick Buller vì anh này ủng hộ Nghị viện, trong khi Dick và anh tôi, sáu tháng trước đấy, cùng đi săn bằng chim ưng với nhau. Rob Bennét, bạn của Dick Buller, tung tín nói xấu anh rể tôi là Jonathan Rashleigh, nói rằng cha và anh của Jonathan trước đây không phải chết vì bệnh đậu mùa, mà là bị đầu độc.
Những chuyện tào lao này chứng tỏ, chỉ trong mấy tháng tinh thần con người biến đổi chừng nào. Từ bạn láng giềng với nhau, người ta trở thành những con sói sẵn sàng cấu xé lẫn nhau.
Năm 1642, Đức vua và Nghị viện chính thức đoạn tuyệt với nhau. Hai anh tôi là Jo và Robin, với một số đông bạn thân gồm có Jonathan Rashleigh và con rễ là Peter Courtaey, giòng họ Trelawncy, giòng họ Arundell và dĩ nhiên có cả Bevil Grenvile, tuyên bố đứng về phe Đức Vua. Thế là chấm dứt cuộc sống gia đình êm thấm. Robin và Peter đi Yoth để nhập vào đạo quân của Đức Vua. Ngay tức thì mỗi người được giao quyền chỉ huy một đại đội. Peter ngay trận đầu tiên đã chứng tỏ tinh thần dũng cảm và được phong tước hiệp sĩ ngay ngoài mặt trận.
Còn Jo và anh rễ Jonathan của tôi đi khắp vùng để tuyển mộ lính, đạn được, tiền bạc, ủng hộ Đức Vua. Công việc không phải dễ, bởi vì vùng Cornouailles luôn luôn nghèo nàn và thuế má làm nó thêm kiệt quệ.
Thái độ của tôi đối với cuộc chiến này khá kỳ lạ. Tôi ít chú ý đến những nguyên nhân lớn. Với nàng hầu Matty và một vài người phục vụ, tôi cảm thấy như sống tách biệt ra khỏi thế giới. Những chiến thắng trong năm đầu không làm tôi ngây ngất như những người trong gia đình. Thật ra, tôi không tin rằng Nghị viện chịu thua dễ dàng như thế. Về phe Nghị viện, là những người có uy thế và giàu có. Tất cả những thường gia giàu có ở luân đôn đều ủng hộ Nghị viện. Tôi luôn có cảm tưởng đạo quân của họ mạnh hớn đạo quân của chúng tôi. Chúa biết chúng tôi không thiếu can đảm, nhưng thiếu kinh nghiệm, trang bị vũ khí lại khá nghèo nàn, kỷ luật lại thiếu. Mùa thu, cuộc chiến lan tràn khá nguy hiểm đến vùng tôi ở. Hai phe dân quân ở phía tây và phía đông, hai bên con sông Tamar. Tôi trải qua lễ Noel trong lo âu. Vào tuần lễ thứ ba của tháng giêng, tôi nhận được tin rất xấu: kẻ thù đã vượt sông Tamar và tiến vào Cornouailies. Chúng tôi đang dùng bữa trưa thì Peter Courtney phi ngựa từ Bođmin về báo tin rằng quân địch đang tiến trên đường đi Liskeard. Trung đoàn của peter dưới quyền chỉ huy của ngài Ralph Hopton đang tập trung lực lượng để chặn bước tiến của địch quân.
Cuộc chiến khó có thể lan đến Lanrest này - Peter nói với tôi - nhưng sẽ xảy ra giữa Liskeard và Lostwithiel. Nếu chúng ta loại địch quân ra khỏi Cornouailles, coi như chúng ta thắng cuộc chiến này. Peter đang bị kích, thích mãnh liệt, dáng điệu uy dũng, mái tóc nâu xõa xuống mặt.
Cháu không có thì giờ đi Menabilly gặp vợ cháu - nó nói - Nếu cháu có mệnh hệ nào, xin dì hãy nói với Alice rằng cháu mãi mãi yêu nàng.
Nói xong, nó phóng ngựa đi như tên bắn. Chỉ còn lại tôi và Matty, với năm gia nhân, hai già ba trẻ, không vũ khí để tự vệ. Không còn cách nào khác ngoài việc lùa đàn bò và đàn cừu về, nhốt chúng trong chuồng và khóa chặt cửa nhà. Sau đó, chúng tôi chờ đợi,. Tụ tập trong phòng. Tôi, gần đống lửa. Thỉnh thoảng, mở hé cửa sổ, chúng tôi tưởng chừng như nghe tiếng đại bác nổ xa xa trong khí trời lạnh lẽo của tháng giêng. Vào khoảng ba giờ chiều, một người hầu của gia đình tôi chạy về, đập cửa phòng khách.
Kẻ thù đã bỏ chạy - anh ta la lên, kích động - Chúng bỏ chạy tán loạn như loài chó bị roi quất, dọc theo đường đi Liskcard. Hôm nay ở Biaddock Down, đang có đánh lớn. Người ta đồn rằng phe Đức Vua thắng lên và bắt giữ hàng ngàn tù binh.
Vẫn chưa tin chắc vào nguồn tin này, tôi ra lệnh cho các người hầu cứ ở yên chỗ chỗ dội, đóng chặt các cửa cho đến khi câu chuyện được xác nhận là có thật. Trước khi trời tối, chúng tôi biết chắc rằng phe ta thắng trận, bởi vì đích thân Robin trở về trấn an chúng tôi. Cũng đi với Robin, có anh em giòng họ Trelawney và Ranaid Mohun. Mình mẩy Robin bám đầy bụi, một cánh tay bị thương đã được băng bó nhưng vẫn còn vấy máu. Tất cả cười vang đắc thắng. Hai đạo quân của Nghị viện đã bị đánh tan tành và bỏ chạy về Saltash và theo lời Jack Trelawney nói, chúng không bao giờ dám ló mặt ra nữa. Cũng theo lời Jack, Robin đã ra chiến trường, tay cầm chim ưng. Anh ta đã tung chim ưng tấn công vào mặt các pháo thủ của đối phương khiến chúng hoảng hốt chạy tán loạn, bỏ cả đại bác.
Anh đã cá cược với Peter - Robin vừa nói vừa mỉm cười - Nếu thua trận này, anh phải làm cha đở đầu cho đứa con sắp tới của nó.
Cả hai gập người làm hai, cười ngặt nghẽo. Họ coi chuyện chém giết, đổ máu, đạp trên thấy người chết là chuyện bình thường. Anh tôi và các bạn bè ngồi vào bàn, vừa uống bia vừa lau mồ hôi trán. Ai cũng nói chuyện sôi nổi về cuộc chiến như những tay cá cược sau một trận đá gà..
Bevil Grenvile được đề cập tới như một người hùng trong ngày. Chính anh ta cầm đầu bộ binh Cornouailles tấn công địch quân từ đồi này sang đồi khác.
Honor! Thất đáng tiếc cho em không được thấy Bevil ra trận - Robin nói - Các người hầu và các tá điền của anh ta đều mặc đồng phục màu xanh dương và màu bạc. Ai cũng cầm kiếm sáng ngời, theo sau anh ta, miệng hô lớn: Hạ Grenvile! Hạ Grenvile!
Than ôi! Năm đó người dẫn Cornouailles chiến thặng khắp miền tây, đến tận Bristoi, nhưng mùa hè này, chúng tôi cũng mất đi một phần tinh hoa của tuổi trẻ.
Sydaey Godolphin, Jack Ticvannion, Nick Slanning, Níck Kendal, dần dần vĩnh biệt chúng tôi. Tất cả đều là những người đáng kính. Nhưng bi kịch lớn nhất trong năm.. Đó là. Cái chết của Bevil Grenvile ở Lanedowne. Matty chạy vào phòng tôi báo tin, đôi má đầm đìa nước mắt.
- Chúng đi giết ngài Bevil rồi - cô lạ la lên.
Bevil, con người duyên dáng, lịch sự, dễ mến, hơn hẳn tất cả các viên chỉ huy khác ở Cornouailles này!
Ngài đã gục xuống bởi một nhát-búa rìu - Matty tiếp tục kể - trong khi phe ngài đang thắng thế. Và quân địch bị đánh tan. Ngay lúc ấy, đoàn tùy tùng đưa Jack, con trai của Bevít, lên lưng ngựa của người cha.
Tôi tưởng tượng cảnh Bevil gục xuống, dầu bị chẻ làm hai, và Jack, một thiếu niên, chưa tròn mười bốn tuổi, leo lên lưng con ngựa chiến trắng như tuyết của Bevil, mắt rưng rưng lệ, bàn tay non trẻ cầm cây kiếm quá lớn của người cha. Trong khi đó, thì những người mặc đồng phục xanh và bạc, đi theo sau, lòng đầy oán hận đối với quân thù.
Qua năm 1644, quân của Đức Vua vẫn làm chủ miền tây. Nhưng Nghị viện không chịu thua, tập trung khắp nơi những lực lượng hùng mạnh của họ.
Mùa xuân năm 1644, một chiến binh từ vương quốc Ai-len trở về, đến Luân Đôn để lãnh lương. Chàng ta nói với các đại biểu trong Nghị viện rằng, khi trở về quê nhà, chàng sẽ huy động lực lượng của chàng về phố Nghị viện. Họ rất mừng vì thu nạp được mọi sĩ quan dạn dày kinh nghiệm chiến trưởng, liền cho chàng sáu trăm đồng liu và tiết lộ cho chàng biết kế hoạch tác chiến của họ. Chàng chỉ mỉm cười, gật đầu, lên cổ xe kéo bởi sáu con ngựa, cũng với toán lính theo sau. Đến Bagshot Heath, chàng thân thiện bước xuống xe hô hào mọi người đi Oxforđ chiến đấu vì Đức Vua, chứ không phải chống lại Đức Vua. Tất cả đều đồng thanh hưởng ứng lời chàng. Cả đoàn lên đường đi Oxford, mang theo một số tiền lớn và vũ khí do Nghị viện cung cấp, cùng với kế hoạch tác chiến bí mật mà Nghị viện vừa mới thông qua ở Luân Đôn.
Tên người chiến binh đã đánh lừa Nghị viện không ai khác là Richard Grenvile.