Việc Máu

Chương 41

Ý nghĩ của ông vừa đỏ như máu vừa đen kịt. Ông cảm thấy như mình đang ở trong một khoảng hư vô thường hằng nào đó, vây quanh là một bức màn không gian đen ngòm mịn như nhung, hai bàn tay ông tìm hoài tìm mài cái đường chỉ nối để may ra qua đó thoát thân nhưng chẳng bao giờ tìm được. Ông thấy gương mặt của Graciela Rivers và Raymond như những hình ảnh xa xăm cứ lùi dần lùi dần vào bóng tối.

Đột ngột, ông cảm thấy một bàn tay lạnh ngắt trên cổ mình, liền nhảy dựng lên, một tiếng thét bật khỏi họng ông giống như người tù nhảy phắt qua tường. Ông ngồi dậy. Đó là Winston. Phản ứng của ông khiến chị kinh hoảng chẳng khác gì chị đã làm ông kinh hoảng. “Terry? Anh có ổn không?”

“Có. Ý tôi là, không. Chính hắn. Noone là Sát thủ Mật mã. Hắn đã giết tất cả họ. Ba người cuối là cho tôi. Hắn giết cho đến khi làm cho bằng được. Hắn giết Gloria Torres để lấy tim cô ấy. Lấy cho tôi. Để tôi vẫn sống mà làm chứng cho vinh quang của hắn.”

Sự trùng hợp giữa cái tên với mục đích của Noone bất thần khiến McCaleb choáng váng.

“Đợi đã,” Winston nói, “Chầm chậm thôi. Anh đang nói cái gì thế?”

“Chính hắn. Tất cả nằm đây. Kiểm tra hồ sơ, máy tính đi. Những người khác toàn hắn giết tất. Rồi thì hắn quyết định cứu tôi. Giết người vì tôi.”

Ông chỉ màn hình máy tính, nơi thông điệp gửi cho McCaleb vẫn còn hiển thị. Ông đợi cho chị đọc hết thông điệp đó nhưng rốt cuộc ông không kìm nổi mình nữa.

“Tất cả các mảnh, chúng nằm ngay đó. Trước giờ vẫn nằm ngay đó.”

“Mảnh nào kia?”

“Mật mã. Giản dị quá chừng. Hắn dùng tất cả các chữ số ngoại trừ số một. No one - không có số một, mà cũng chẳng là ai cả. Hiểu không? Tôi chẳng là ai cả. Hắn nói là nói vậy đấy.”

“Terry, chuyện này ta sẽ nói sau. Cho tôi biết làm sao anh đến đây được? Làm sao anh biết là Noone?”

“Cuốn băng. Buổi chúng ta đã làm với hắn.”

“Buổi thôi miên á? Thì sao?”

“Chị có nhớ tôi đã bảo chị đừng nói gì để đương sự không bị rối trí không?”

“Đúng. Anh có nói chỉ nên một mình anh hỏi Noone thôi. Giữa chúng ta thì muốn nói gì cũng chỉ nên ra dấu hay viết ra giấy.”

“Nhưng đến khúc cuối, khi tôi biết tất cả đều xôi hỏng bỏng không rồi, tôi thất vọng quá. Tôi hỏi chị, ‘Còn gì nữa không?’ và chị lắc đầu ý bảo không. Tôi hỏi ‘Chị có chắc không?’ thì chị lại lắc đầu nữa. Tôi đã vi phạm quy tắc của chính tôi khi nói chuyện với chị. Vấn đề là mấy câu đó tôi hỏi chị thành tiếng. Cho nên lẽ ra Noone phải trả lời tôi. Nếu thực sự đang trong trạng thái thôi miên thì hắn đã phải trả lời, vì hắn không thể biết mấy câu hỏi đó là dành cho chị. Nhưng hắn không trả lời. Điều đó cho thấy hắn nhận thức được hoàn cảnh. Hắn biết, do nhận thấy tôi nói sang hướng khác hoặc là qua cách tôi nhấn giọng, rằng tôi đang nói với chị chứ không phải với hắn. Lẽ ra chuyện đó hắn không biết mới phải. Gì chứ nếu đang thực sự bị thôi miên thì không. Lẽ ra hắn phải trả lời bất cứ câu hỏi nào được hỏi trong phòng đó trừ phi người ta nói cụ thể là câu đó hỏi ai. Mà tôi thì đâu có khi nào gọi tên chị đâu.”

“Hắn giả vờ.”

“Đúng. Mà nếu hắn giả vờ giả vịt thì các câu trả lời của hắn toàn bịa tuốt. Thế nghĩa là James Noone chỉ là một phần của trò sắp đặt. Tôi đã nhờ người so sánh mấy cuốn băng video trước khi đến đây. Tôi có ảnh in ra, để trong xe ấy. James Noone và Người Tốt bụng là cùng một gã. Là hung thủ.”

Winston lắc đầu như thể ra hiệu là đầu óc bị quá tải.

Mắt chị lướt khắp phòng tìm một chỗ để ngồi. Chỉ có cái giường xếp mà thôi.

“Chị cần ngồi xuống đây,” McCaleb vừa nói vừa đứng dậy.

“Tôi cần ngồi nhưng không phải ở đây. Chúng ta phải rút khỏi đây, Terry. Tôi cần gọi cho Đội trưởng Hitchens rồi thì những người khác, cảnh sát Los Angeles và Cục nữa. Với lại tốt nhất là tôi xin lệnh bắt Noone.”

McCaleb sửng sốt thấy chị vẫn chưa ghép được tất cả các mảnh của câu chuyện vào thành một.

“Chị không nghe tôi nói à? Chẳng có Noone nào hết. Làm gì có hắn.”

“Anh nói thế là thế nào?”

“Tên. Cái tên Noone ấy, nó khớp với mọi cái khác. Thử chiết tự ra xem, chị sẽ có no one - chẳng ai. Tôi chẳng là ai cả. Các mảnh từ đầu đến giờ đã có đó rồi...”

Ông lắc đầu rồi ngã phịch trở lại vào ghế. Ông úp mặt vào hai bàn tay.

“Làm sao tôi... Tôi không sống nổi với chuyện này.” Một lần nữa Winston đặt tay lên cổ ông nhưng lần này ông không giật thót.

“Thôi nào, Terry, ta đừng nghĩ tới chuyện này nữa. Ta ra ngoài xe đợi đi. Tôi phải gọi một đội hiện trường tội ác đến đây, may ra tìm được vài dấu tay để có thể nhận diện thằng này.”

McCaleb đứng dậy đi vòng quanh bàn rồi tiến về phía cửa. Ông nói mà không ngoái lại nhìn chị.

“Xưa nay hắn chưa bao giờ để ảnh lại ở bất cứ đâu. Đến giờ chắc cũng vẫn thế thôi.”

Hai giờ sau sau McCaleb ngồi trong chiếc Taurus, đỗ ngoài đường trên Đại lộ Atoll, phía sau dải băng màu vàng mà cảnh sát đã chăng ra giữa hai hàng ga ra. Cách khoảng trăm mét ở đầu kia đường nội bộ, ông thấy đám người nhộn nhịp ra vào ga ra của Noone lúc này đèn đã bật sáng trưng. Có mấy thám tử - vài người trong số đó McCaleb nhận ra là thuộc đội đặc nhiệm trong vụ Sát thủ Mật mã, kỹ thuật viên, nhân viên quay phim của ít nhất hai Cục điều tra có liên quan, và đứng cạnh họ còn có nửa tá sĩ quan mặc sắc phục nữa.

Lửa đâu bướm đêm chầu đấy, ông nghĩ.

Ông quan sát toàn bộ cảnh đó với sự thờ ơ kỳ lạ. Ý nghĩ của ông nằm ở chuyện khác. Graciela và Raymond. Rồi thì Noone. Ông không thể thôi nghĩ về kẻ tự gọi mình là Noone. Hắn đã ở trong cùng một căn phòng với ông. Hắn đã từng ở gần đến thế.

Ông cần được uống, muốn cái vị cay xé của whiskey trong cổ họng, nhưng ông biết nếm cái vị đó cũng bằng như cho viên đạn vào đầu mình. Ông biết rằng mặc cho cái đau đang cứa ngang ông, ông sẽ không cho Noone - hay là ai cũng vậy - được hưởng niềm thỏa mãn đó. Ông quyết định trong bóng tối của chiếc xe rằng ông sẽ sống. Mặc tất cả chuyện này, ông sẽ sống.

Ông không nhận thấy những người đàn ông đang đi dọc đường nội bộ tiến về phía ông, cho mãi đến khi họ đã gần như đến sát gần chiếc Taurus. Ông bật đèn pha thì nhận ra đó là Nevins, Uhlig và Arrango. Ông tắt đèn rồi đợi. Họ mở cửa xe chui vào, Nevins ngồi đằng trước, hai người kia đằng sau, Arrango ngay sau lưng McCaleb.

“Trong này có máy sưởi không?” Nevins hỏi. “Càng lúc càng lạnh đấy.”

McCaleb khởi động xe nhưng đợi khi nào động cơ ấm lên mới bật máy sưởi. Ông nhìn Arrango trong kính chiếu hậu. Tối quá nên không thấy được gã có ngậm tăm trong mồm hay không.

“Walters đâu?”

“Bận.”

“OK,” Nevins nói. “Ờ, tụi tôi tới đây để nói với anh rằng xem ra tụi tôi đã nghĩ sai về anh, McCaleb. Tôi xin lỗi. Tụi tôi xin lỗi. Xem ra Noone mới là thằng ấy. Anh làm tốt lắm.”

McCaleb chỉ gật. Đó là một lời xin lỗi nửa vời nhưng ông chẳng buồn bận tâm. Điều ông đã khám phá ra để có thể gột sạch thanh danh mình sẽ khiến ông khó sống hơn so với nếu ông bị công khai buộc tội là thủ phạm các vụ giết người này. Những lời xin lỗi chẳng có ý nghĩa gì với ông hết.

“Tụi tôi biết đêm nay với anh hẳn là dài lắm nên tụi tôi muốn giúp anh. Tôi đang nghĩ tụi tôi có thể bảo anh thuật tóm tắt xem toàn bộ chuyện này diễn ra thế nào rồi thì có thể mai anh đến trình diện và tường trình chính thức. Anh nghĩ sao?”

“Được. Riêng tường trình chính thức thì tôi sẽ nộp cho Winston. Không phải các anh.”

“Đúng thôi. Cái đó tôi hiểu. Nhưng hiện thời, sao anh không kể cho tụi tôi nghe xem, theo như anh hiểu thì toàn bộ chuyện này diễn ra thế nào. Anh kể được không?”

McCaleb cúi về phía trước bật máy sưởi. Ông sắp xếp đâu vào đó những ý nghĩ của mình mất một hồi rồi mới bắt đầu.

“Tôi gọi hắn là Noone bởi vì chúng ta chỉ có mỗi chừng đó và có thể cả sau này cũng chỉ có mỗi chừng đó. Chuyện khởi đầu với Sát thủ Mật mã. Đó là Noone. Hồi đó tôi là đặc vụ chính của Cục tham gia lực lượng đặc nhiệm. Theo thỏa thuận với cảnh sát Los Angeles, tôi trở thành người phát ngôn trước báo chí về vụ này. Tôi dẫn dắt các cuộc họp cung cấp thông tin cho báo giới, có ai yêu cầu phỏng vấn là họ chuyển hết cho tôi. Trong vòng mười tháng, gương mặt tôi trở thành đồng nghĩa với Sát thủ Mật mã trên truyền hình. Thế là Noone gắn bó với tôi. Chúng tôi càng đến gần hắn hơn thì hắn càng gắn bó với tôi. Hắn gửi thư cho tôi. Trong óc hắn, tôi là thần báo oán. Tôi là hiện thân của cái lực lượng đặc nhiệm đang săn lùng hắn.”

“Chả phải là anh đang giành quá nhiều công trạng về mình đấy sao?” Arrango hỏi. “Ý tôi là anh chả phải người duy nhất.”

“Câm mồm mà nghe, Arrango. Cậu có thể học được vài thứ đấy.”

McCaleb nhìn chằm chằm vào Arrango trong kính chiếu hậu và gã nhìn chằm chằm lại. Ông thấy Nevins giơ một tay lên hướng về Arrango ra hiệu hãy bình tĩnh.

“Hắn mới là kẻ cho tôi công trạng đó,” McCaleb nói. “Tôi không nhận. Cuối cùng, khi hắn biết là rủi ro quá lớn, hắn bỏ cuộc. Các vụ giết người ngừng lại. Sát thủ Mật mã biến mất. Cũng khoảng thời gian đó tôi suy sụp vì... vì những vấn đề của riêng tôi. Tôi cần ghép tạng và rồi chuyện đó cũng lên báo chí vì tôi đâm ra nhẵn mặt trên báo chí rồi. Noone đọc được bài báo đó. Hắn có thể dễ dàng biết điều này. Và rồi hắn thai nghén cái mà hắn cho là mưu đồ vĩ đại nhất của hắn.”

“Hắn quyết định rằng thay vì giết anh, hắn sẽ cứu anh,” Uhlig nói.

McCaleb gật đầu.

“Chuyện đó sẽ mang lại cho hắn chiến thắng tối hậu bởi nó kéo dài mãi mãi. Nếu chỉ đơn thuần trừ khử tôi, giết tôi, hắn sẽ chỉ có được một cảm giác thỏa mãn trong thoáng chốc. Nhưng nếu cứu tôi... thì sẽ có một cái gì chưa từng có xưa nay, cái gì đó sẽ đưa hắn lên đỉnh vinh quang. Và rồi hắn sẽ luôn luôn có tôi theo cùng hắn để nhắc cho hắn nhớ hắn thông minh và mạnh mẽ đến thế nào. Các anh hiểu không?”

“Tôi hiểu,” Nevins nói. “Nhưng đó là khía cạnh tâm lý. Cái tôi muốn biết là hắn làm bằng cách nào? Làm sao hắn có mấy cái tên được? Làm sao hắn biết về Kenyon và Cordell rồi sau đó là Torres?”

“Máy tính của hắn. Kỹ thuật viên của các anh rồi sẽ phải tháo tung nó ra.”

“Chúng tôi gọi Bob Clearmountain tới rồi,” Nevins nói. “Anh nhớ cậu ta chứ?”

McCaleb gật. Clearmountain là chuyên viên máy tính thường trú ở văn phòng tác chiến của cảnh sát Los Angeles. Một tay hacker cừ khôi đúng nghĩa.

“Tốt. Vậy thì anh ta sẽ trả lời được câu hỏi đó tốt hơn tôi. Rốt cuộc thì cũng được. Tôi thì tôi đoán là các anh sẽ tìm ra một chương trình hacker trong cái máy tính đó. Noone đã chui vào được hệ thống của CMN và lấy được danh sách họ tên từ đó ra. Hắn chọn con mồi dựa trên tuổi tác, thể chất phù hợp và khoảng cách ở gần. Rồi hắn hành sự. Với Kenyon và Cordell thì việc hỏng bét. Rồi với Torres thì êm xuôi. Ấy là theo cách nhìn của Noone.”

“Và trước sau hắn chỉ mưu toan đổ hết lên đầu anh?”

“Tôi chỉ nghĩ rằng hắn muốn tôi lần theo dấu vết, rồi thì tự mình khám phá ra hắn đã làm gì. Hắn biết rồi sẽ ra như thế nếu tôi trở thành nghi phạm. Bởi vì chừng đó tôi sẽ phải tự mình điều tra vụ việc. Nhưng rồi chuyện ấy không xảy ra trước hết là vì những người điều tra vụ này đã nhầm manh mối.”

Trong khi nói vậy, ông nhìn Arrango qua kính chiếu hậu. Ông thấy cặp mắt gã thám tử tối sầm lại vì giận dữ. Gã sắp nổ bùng ra tới nơi.

“Arrango, sự thực là các anh đã coi đây chỉ như một vụ đột nhập và cướp của thường tình, có chăng là thêm vài phát súng nổ, không hơn không kém. Các anh đã bỏ qua nó. Thành thử Noone mới tự mình khởi động toàn câu chuyện.”

“Bằng cách nào?” Uhlig và Nevins đồng thanh hỏi.

“Tôi dính vào vụ này là bởi một bài báo đăng trên Thời báo. Bài ấy được viết theo gợi ý từ một thư bạn đọc. Dù bức thư đó ký tên ai đi nữa, tôi đánh cuộc đó chính là Noone.”

Ông ngừng nói, đợi người ta phản đối. Chẳng ai phản đối.

“Bức thư gợi ý cho bài báo ra đời. Bài báo gợi ý cho Graciela Rivers. Graciela Rivers gợi ý cho tôi. Như chuỗi quân bài domino vậy.”

Một ý nghĩ bất thần lóe lên trong ông. Ông nhớ lại người đàn ông ngồi trong chiếc xe ngoại quốc cũ đỗ bên kia đường khi ông đến Siêu thị Sherman lần đầu tiên. Ông nhận ra rằng chiếc xe đó khớp với chiếc xe ông đã thấy lao thẳng ra khỏi bãi đỗ xe của vũng neo thuyền vào cái đêm ông đuổi theo kẻ đột nhập.

“Tôi nghĩ thời gian qua Noone theo dõi tôi suốt,” ông nói. “Theo dõi kế hoạch của hắn được triển khai. Hắn biết khi nào thì đến lúc đột nhập vào thuyền tôi để cài bằng chứng vào đó. Hắn biết khi nào thì gọi điện cho các anh.”

Ông nhìn Nevins, tay này rời mắt đi chỗ khác, cũng không nhìn vào kính chiếu hậu.

“Anh nhận một cuộc gọi nặc danh phải không? Nó nói gì?”

“Thật ra là tin nhắn nặc danh. Do nhân viên trực qua đêm ghi lại. Chỉ nói: ‘Hãy kiểm tra nhóm máu. McCaleb có nhóm máu như họ.’ Thế thôi.”

“Khớp lắm. Chính là hắn. Chỉ là thêm một nước đi trong cuộc chơi.”

Họ im lặng một hồi. Cửa sổ xe bắt đầu đọng hơi nước vì cái nóng và hơi thở của họ.

“Dù sao thì, tôi chẳng biết chúng ta rồi sẽ xác minh được bao nhiêu phần trong chuyện này,” Nevins nói. “Nhất định sẽ có nhiều thứ có thể thế này mà cũng có thể thế kia.”

McCaleb gật. Ông ngờ rằng không một cái nào trong tất cả chuyện này rồi sẽ được xác minh bởi ông ngờ rằng Noone rồi sẽ chẳng bao giờ bị người ta nhận diện hay tìm thấy.

“Thôi được rồi.” Nevins tiếp. “Chắc chúng ta sẽ còn liên lạc.”

Anh ta mở cửa bên phía mình và những người khác ra theo. Trước khi chui ra, Uhlig với tay qua lưng ghế, tay cầm một chiếc harmonica vỗ vỗ lên vai McCaleb.

“Nó nằm trên sàn xe dưới này,” anh ta nói.

Khi Arrango đã bước xuống mặt đường nhựa, McCaleb hạ kính xe xuống nhìn lên gã.

“Anh biết không, lẽ ra anh có thể đột kích vào chỗ ấy. Mọi thứ nằm cả trong sổ sách rồi. Chỉ còn đợi anh đến thôi.”

“Mẹ cha mày, McCaleb.”

Gã bỏ đi, theo sau hai đặc vụ kia trở lại chỗ ga ra của Noone. McCaleb khẽ mỉm cười. Ông buộc phải thừa nhận rằng dù thế nào đi nữa, ông vẫn chưa vượt lên trên được cái niềm vui thú tội lỗi là châm chọc Arrango.

McCaleb ngồi trong xe thêm vài phút nữa rồi mới đi. Đã khuya, quá mười giờ đêm, nên ông tự hỏi mình đi đâu bây giờ. Ông chưa nói gì với Graciela và chờ đợi cái lúc phải làm nhiệm vụ đó với cảm giác lẫn lộn giữa kinh sợ và nhẹ nhõm, riêng nhẹ nhõm thì là bởi ông biết rằng, bằng cách này hay cách khác, mối quan hệ giữa hai người sắp được xác định rõ ràng tới nơi rồi. Mắc mứu là ở chỗ ông không chắc liệu mình có muốn cho nàng biết tin giữa lúc đêm khuya thế này không. Tin tức của ông hình như nếu được đưa ra giữa thanh thiên bạch nhật thì sẽ tốt hơn.

Ông đặt tay lên bộ phận đánh lửa, nhìn thêm lần cuối đường nội bộ dẫn đến chỗ ga ra sáng đèn nơi cuộc đời ông đã bị thay đổi một cách phũ phàng đến thế. Ông thấy ánh đèn từ trong ga ra hắt ra và phía bên kia lối đi đang di chuyển. Ông đoán rằng đèn pha trước bị nhiễu vì sao đó nên đang đung đưa từ bên này sang bên nọ. Ông chợt nảy ra điều gì đó, liền nhấc tay khỏi bộ phận đánh lửa.

McCaleb bước ra khỏi chiếc Taurus rồi chẳng chút phân vân chui xuống dưới dải băng vàng. Viên sĩ quan vận đồng phục đứng gác ở lối vào hiện trường tội ác chẳng nói gì. Hẳn là anh ta suy luận - nhầm - rằng McCaleb là một thám tử, vì đã thấy ba điều tra viên chính đi lại chỗ ông rồi vào ngồi trong xe với ông.

Ông đi lại chỗ vùng biên của ánh sáng đó rồi đợi đến khi bắt được ánh mắt Jaye Winston. Chị đang đứng cầm kẹp hồ sơ ghi lại những mô tả về các vật có trong căn nhà kho. Mọi vật tại chỗ đều đang được người ta dán nhãn mang đi.

Khi Winston bước sang bên tránh đường cho một kỹ thuật viên, chị liếc ra ngoài bóng tối và McCaleb chỉ cần vẫy tay là khiến chị chú ý. Chị đi ra khỏi ga ra tiến về phía ông. Trên mặt chị có một nụ cười dè dặt.

“Tôi cứ nghĩ anh biến rồi. Sao anh chưa đi?”

“Tôi sắp đi. Chỉ là muốn cảm ơn chị về mọi chuyện thôi. Chị có tìm được gì ở đó không?”

Chị cau mày lắc đầu.

“Anh nói đúng. Chỗ này sạch bong. Nhân viên tìm vân tay thậm chí chẳng tìm ra lấy một vết ố. Có mấy dấu tay trên máy vi tính nhưng tôi đồ là của anh. Tôi không biết chúng tôi sẽ làm thế nào truy ra dấu vết thằng này. Cứ như hắn chưa từng ở đây bao giờ cả.”

Ông ra hiệu bảo chị lại gần khi nhận thấy Arrango bước ra khỏi ga ra rồi cho một điếu thuốc lên mồm.

“Tôi nghĩ hắn đã phạm một sai lầm,” ông nhẹ nhàng nói. “Hãy cử chuyên viên dấu tay giỏi nhất của chị đến Trung tâm Sao. Bảo anh ta chụp bằng laser mấy cái bóng đèn trên trần phòng thẩm vấn. Khi bố trí địa điểm cho buổi thôi miên, tôi đã gỡ vài bóng đèn rồi chuyền xuống cho Noone. Hắn phải nhận lấy mấy cái bóng đèn từ tay tôi nếu không thì có thể bị lộ tẩy. Có thể có dấu tay ở đấy.”

Mặt chị bừng sáng và chị mỉm cười.

“Có trên cuốn băng quay buổi thôi miên đấy,” ông nói. “Chị có thể bảo họ ấy là chị phát hiện ra.”

“Cám ơn, Terry.”

Chị nhẹ nhàng vỗ lên vai ông. Ông gật đầu rồi cất bước về lại xe. Chị gọi với sau lưng ông và ông ngoái lại.

“Anh ổn chứ?”

Ông gật.

“Tôi không biết anh sẽ đi đâu. Nhưng chúc may mắn.”

Ông vẫy tay rồi lại quay về hướng mình đang đi.