Hầu hết các nhà thơ nhà văn đều có tác phẩm liên quan đến đề tài dòng sông nhưng có lẽ con sông Đà uốn lượn trong trang văn của Nguyễn Tuân là có dáng vẻ độc đáo nhất. Trước hết đó là dòng sông có “nhiều vực xoáy nhiều luồng nhiều đá ghềnh nhiều sóng thác” mà Nguyễn Tuân gọi là con sông hung bạo.
Bờ sông có những đoạn rất hiểm trở mà Nguyễn Tuân gọi là “bờ sông dựng vách thành vách đá chẹt lòng sông như một cái yết hầu”. Hơn thế nữa “mặt sông chõi đúng ngọ mới thấy mặt trời ngồi trong khoan đò đi qua quãng ấy vào mùa hè cũng cảm thấy lạnh”. Mặt sông đà “cả một chân trời đá nó bày thạch trận trên sông đám tản đám hòn chia làm ba hàng chặn ngay trên sông đòi ăn chết cái thuyền”.
Có những đoạn mặt ghềnh “nước xô đá đá xô sóng sóng xô gió cuồn cuộn những luồng ghùm ghè suốt năm”. Lại có những đoạn sông nước xoáy “có những cái hút nước như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu”.
Sông Đà không chỉ dữ dội về hình khối mà còn dữ dội về âm thanh “tiếng thác nước nghe như oán trách rồi lại như van xin rồi rống lên như ngàn con trâu mộng”. Ở những đoạn nước xoáy “nước ở đây thở và kêu như cái cống bị sặt”.
Với cách miêu tả mang cảm giác mạnh nhà văn Nguyễn Tuân đã dựng nên một nét tính trội của sông Đà đó là rất dữ dội hung bạo nhưng đồng thời nó cũng rất sống động như một sinh thể sống. Vì thế tác giả gọi con sông Đà chứ không phải là dòng sông.
Nguyễn Tuân khi phản ánh sự vật sự việc bao giờ cũng tìm cách đẩy sự vật sự việc đến độ tột cùng tột đỉnh. Vì thế sông Đà trong con mắt của Nguyễn Tuân hung bạo bao nhiêu thì cũng rất trữ tình bấy nhiêu.
Trước hết sông Đà hiện lên rất giàu chất thơ đẹp đến mê hồn người “sông Đà tuôn chảy như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa bang hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi mèo đất nương xuân”.
Sông Đà không chỉ đẹp ở hình dáng mà còn đẹp ở sự thay đổi sắc màu ấn tượng “mùa xuân dòng xanh ngọc bích”, “mùa thu nước từ từ chín đỏ”.
Bờ sông không phải lúc nào cũng dựng vách thành mà nhiều quãng sông “bờ sông hoang dại như thời tiền sử, bờ sông hồn nhiên như nỗi niềm cổ tích”, “cảnh ven sông ở đây lặng lẽ như tờ, hình như đời Lí đời Trần đời Lê quãng sông này cũng lặng tờ thế thôi”.
Trên bãi sông sự sống dâng tràn “cỏ gianh đầu núi đang ra nõn búp”, “nương ngô nhú mấy lá ngô non đầu mùa”, “một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương”.
Sông Đà không chỉ có vẻ đẹp trữ tình của hình dáng của màu sắc mà còn có vẻ đẹp trữ tình của sức sống êm đềm sinh sôi. Đối với Nguyễn Tuân sông Đà đã trở thành một cố nhân và sông Đà càng đẹp hơn trong khúc hát xây dựng tương lai.
Để xây dựng hình tượng con sông Đà như một sinh thể có số phận nhà văn đã huy động tổng hợp nhiều thủ pháp nghệ thuật. Đó là nghệ thuật tả thực và lãng mạn, đó là sự phối hợp nhiều thủ pháp nghệ thuật của hội họa, của điện ảnh. Đặc biệt là nghệ thuật sử dụng ngôn từ một cách đa dạng sáng tạo, nhờ thế vẻ đẹp của dòng sông đặc tính của dòng sông được hiện lên rất đa diện. Xây dựng hình tượng con sông Đà nhà văn vừa để chứng mình tài nghệ của người lái đò sông Đà vừa để chứng minh sông Đà là một con sông đặc biệt vừa hung bạo vừa trừ tình nhưng cũng vừa đầy triển vọng trong khúc hát xây dựng tương lai.