Ván Bài Lật Ngửa

P9 - Chương 20

Việc mà Luân và Dung linh cảm sẽ đến đã đến. Jones Stepp và Saroyan rời Sài Gòn theo lệnh của Bộ Quốc phòng Mỹ, với lý do “Thiếu tướng Jones Stepp đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ tại Việt Nam Cộng hòa” và đồng thời vinh thăng lên Trung tướng. Cái không bình thường là hạn kỳ rời Sài Gòn của trung tướng – trong vòng ba hôm.

Jones Stepp không tỏ ra bối rối trước quyết định của chính phủ Mỹ, hình như ông đã biết từ lâu. Mời Luân đến nơi làm việc, Jones Stepp tỏ vẻ hài lòng thời gian gian ông có mặt ở Việt Nam. Cuộc trao đổi bên ngoài coi như rất cởi mở nhưng mỗi bên đều thăm dò lẫn nhau.

- Tình hình Nam Việt tất nhiên là xấu, có thể đi đến chỗ tồi tệ nữa. Song, xét về chức trách cá nhân tôi cố gắng hết mức. Tổ chức tình báo quân sự do tôi lãnh đạo đạt nhiều kết quả hơn tôi hy vọng, và nếu tình hình không ổn thì rõ ràng do ngươi ta chưa biết sử dụng các kiến nghị của tôi và do nội bộ chính trị xứ này quá phức tạp... Tôi cảm ơn đại tá về tình cảm dành cho Saroyan và tôi cũng như về những đóng góp của đại tá vào chính sách chung của chính phủ Việt Nam Cộng hòa. Đại tá dự định sẽ làm gì trong tương lai?

- Người cần phải cảm ơn tướng quân là tôi. Tình bạn mà tướng quân và phu nhân không ngừng thể hiện với tôi và nhà tôi khiến tôi xúc động. Trong tương lai, tôi làm gì? Tôi là một quân nhân và sẽ theo sự điều động của cấp trên...

- Rất tiếc tôi không ở Sài Gòn nữa và càng tiếc hơn tôi sẽ nghỉ hưu khi về đến Mỹ, nên không thể cộng tác với đại tá. Dù sao, tôi không bao giờ quên đại tá và khi cần, đại tá và phu nhân báo với chúng tôi một tiếng, lập tức đại tá sẽ được hỗ trợ của chúng tôi, dĩ nhiên, với tư cách riêng. Tại sao đại tá không vận động ra đơn vị, nơi đó phù hợp với thói quen năng nổ của đại tá.

Luân cười:

- Tôi không bao giờ vận động cho mình một cái gì đó.

- Nhưng bạn bè của đại tá rất thích đại tá cầm quân.

Luân nhún vai:

- Chúng ta là quân nhân và quân nhân cần kỷ luật...

Mắt của Jones Stepp ánh lên một thoáng giễu cợt:

- Đúng... tôi đồng ý. Tôi sẽ không cần giới thiệu đại tá với người tiếp nhiệm tôi. Ông James Casey chẳng lại gì với đại tá – ông ta cũng vừa được thăng đại tá. Tôi không được ủy quyền thay mặt cho nước Mỹ nói mấy lời sau đây, song tôi nghĩ bổn phận buộc tôi phải nói: Nước Mỹ tự hào có ở đây những người bạn tốt như đại tá.

Saroyan đến nhà Luân. Cuộc chia tay thật buồn.

- Ai biết được cái gì sẽ xảy ra với anh Luân, Thùy Dung và bé Lý... Tất cả đều kỳ quặc. James Casey thành thạo mọi thứ và tôi rất lo. – Saroyan ngập ngừng, liếc Dung – Gã thuộc hạng dâm đãng... Ngay với tôi, hễ có dịp là hắn sỗ sàng...

- Cái đáng lo không phải từ gã James Casey đâu. – Luân bùi ngùi bảo Saroyan... - Cuộc tranh giành ghế bất kể sống chết từ khi ông Diệm chết, đến đỉnh cao. Người Mỹ, qua thí nghiệm, đang sửa soạn tốp kéo cỗ xe mới và họ quyết định chơi một canh bạc lớn, thậm chí lớn hơn canh bạc Triều Tiên. Vai trò của Jones Stepp chấm hết, dù Saroyan ở lại hay về Mỹ, tình hình vẫn không thay đổi.

- Anh lo lắng điều gì? – Saroyan hỏi.

- Tôi và Dung mến Saroyan. Chúng ta gần như cùng một nhà với nhau. Tôi nhớ lại, có lần Saroyan nói rằng ở lâu trên mảnh đất này, Saroyan hiểu thêm và kính trọng thêm dân tộc chúng tôi. Một dân tộc như thế mà bị vùi dập bằng bom, bằng pháo, bằng hàng trăm nghìn quân ngoại quốc. Saroyan có thấy nỗi bất công, nỗi đau không? Tại sao? Tại sao người ta nhất quyết bắt dân tộc chúng tôi phải sống theo mẫu của người ta? Tôi bất lực ngăn ngừa thảm họa đó...

- Em hiểu. Nhưng, nếu anh cho phép, em có lẽ khuyên: anh bất lực với cả một ý đồ khó mà cưỡng lại nổi, song lẽ nào anh không đủ sức bảo vệ anh, Thùy Dung và bé Lý? Điều đó chẳng khó khăn mấy, thậm chí dễ dàng nữa...

- Saroyan khuyên tôi khom lưng làm ngựa à?

- Không! Không đời nào! Em trọng anh và dù có mặt Thùy Dung ở đây, em cũng không dấu em yêu anh... vì anh không chịu khom lưng. Tại sao anh không xin giải ngũ và sống ở nước ngoài?

- Saroyan! Em hiểu cho anh, anh ghét thói khom lưng ngang thói đào ngũ...

- Anh đâu có đào ngũ? Anh đã phục vụ hết mình và anh có quyền nghỉ ngơi...

Dung nãy giờ lặng lẽ theo dõi cuộc đối thoại, chợt lên tiếng:

- Saroyan, mỗi người có một lý do riêng. Cám ơn Saroyan quan tâm đến chúng tôi. Nhưng, Saroyan yên tâm. Chúng ta biết cư xử thế nào cho phù hợp...

Bữa cơm tiễn biệt không có lấy một tiếng cười.

- Anh đã từng cứu mạng sống em, suốt đời em không quên... Em nghĩ cách trở lại Sài Gòn... - Saroyan nói.

Luân hốt hoảng:

- Chớ! Saroyan đừng ly dị Jones. Nguy hiểm lắm.

- Và tai tiếng nữa – Dung thêm vào.

- Nguy hiểm? Tai tiếng? Em đâu cần. Em cần cái khác chỉ có anh, Thùy Dung mới giúp em đủ can đảm mà sống. Tại sao em không thể sống có ích hơn?

- Bất kể như thế nào, tôi van Saroyan đừng trở lại đây... – Luân nói thiểu não.

- Đó là quyền của em... Thôi, ta từ biệt. Chúc may mắn.

Saroyan vào phòng, hôn bé Lý, trở ra hôn Dung thật lâu rồi hôn Luân – nước mắt đầm đìa.

Vợ chồng Saroyan lên máy bay được hai hôm thì Luân đựoc công lệnh: bổ nhiệm là tùy viên báo chí của tòa đại sư Việt Nam Cộng hòa tại Mỹ.

Nhận công lệnh, Luân gặp Quốc trưởng Phan Khắc Sửu; vị quốc trưởng ngớ ra: Tại sao điều động người phát ngôn của Quốc trưởng mà không tham khảo Quốc trưởng lấy một tiếng?

Luân thấy không cần trao đổi với Phan Khắc Sửu – ông ta vẫn có thể nhận một công lệnh tương tự!

- Tổng trưởng ngoại giao Phạm Đăng Lâm ký công lệnh à? – Sửu hỏi.

Luân biết Phạm Đăng Lâm chỉ là cái máy ký, nơi quyết định là ở chỗ khác.

- Chắc họ thấy tôi nghe lời đại tá trong một loạt vụ hủy bỏ án tử hình, thả sinh viên học sinh bị bắt nên muốn đẩy đại tá đi xa. Thôi, đại tá cứ thi hành, tôi sẽ bàn lại với ông Hương...

Hẳn là Phan Khắc Sửu chẳng bao giờ bàn lại với ông Huong. Trong đầu Luân, một kế hoạch hành động hiện rõ dần.

Dung không đi theo Luân. Tổng giám đốc cảnh sát quốc gia Trần Thanh Bền dứt khoát bác bỏ đơn xin nghỉ việc của Thùy Dung:

- Bà chưa thể nghỉ, dù nghỉ có thời hạn... Bao giờ tôi thôi nhiệm vụ Tổng giám đốc, lúc đó sẽ tùy bà...

Luân chào tướng Dương Văn Minh tại nhà riêng.

- Thưa đại tướng...

Luân chưa nói hết câu, Big Minh đã ngăn anh:

- Đừng gọi tôi là đại tướng... Tôi không nhận cấp bậc đó, đại tá hiểu từ lâu...

- Thưa trung tướng, – Luân sửa cách xưng hô – Tôi trình với trung tướng tôi được lệnh sang Mỹ, làm tùy viên báo chí đại sứ quán Việt Nam Cộng hòa...

Tướng Minh không tỏ một chút ngạc nhiên:

- Vậy đó! Tướng Khiêm đi, bây giờ anh. Và, sắp tới, tôi cũng đi, lần này giống anh, đi luôn!

- Làm sao đi luôn được, thưa trung tướng?

- Ờ... Nhưng, họ nắm quyền...

- Ta đành chịu mãi số phận cá nằm trên thớt hay sao?

Tướng Minh nhìn Luân mệt mỏi:

- Không chịu cũng không được! Ngay mấy bạn của tôi nay chỉ đóng vai trò hụ hợ... Cỡ ông Đôn mà trợ lý cho ông Nguyễn Khánh thật tức cười... Anh có biết ông Hinh sang Pháp làm chức gì không?

Luân không theo dõi việc này nên lắc đầu.

- Nguyễn Văn Hinh, bạn của ông Đôn, hàm tướng 4 sao Pháp, tư lệnh không quân Pháp kiêm Tổng tham mưu phó!

Trong cách nói của tướng Big Minh, Luân tìm thấy nhiều ẩn ý: Người Pháp biết trọng dụng nhân tài hơn người Mỹ, loại tướng lĩnh do Pháp đào tạo giỏi hơn loại tướng lĩnh do Mỹ đào tạo...

Luân thở dài. Anh mong chờ một Dương Văn Minh khác.

- Thưa trung tướng, nghe tin ông Dưong Văn Nhựt đang cầm quân...

Tướng Minh không phản ứng gì cả, nói rất bình thản:

- Gia đình tôi chia làm hai xu hướng. Chú Nhựt theo Việt Minh từ ngày đầu. Tôi không giống chú Nhựt... Đó là chuyện mấy chục năm qua...

- Còn bây giờ? – Luân hỏi, hơi lộ liễu.

- Bây giờ, có lẽ chú Nhựt đúng... Việt Minh, Việt Cộng có cái gì đó như lý tưởng. Còn tôi, anh nhiều bạn bè, chúng ta có cái gì?

- Nếu người Mỹ mời trung tướng ra làm Quốc trưởng, trung tướng có chấp nhận không?

Tướng Minh cười, cái cười vừa hộc hạc vừa chua chát:

- Lúc này, Mỹ không nghĩ đến tôi đâu. Nếu họ nghĩ đến tức là tách tôi khỏi Nam Việt. Họ đang thí nghiệm một lý thuyết và tôi phản đối. Tôi đã gặp tướng Taylor, khuyên ông ta thận trọng. Chết hàng triệu người không phải chuyện chơi. Mỗi ngày nghe tin chiến sự gia tăng tôi buồn lắm. Taylor hỏi tôi chịu ném bom miền Bắc không, tôi lắc đầu: ném bom ở đâu cũng không được.

- Nhưng, theo tôi biêt, ông Trần Văn Hương đồng ý...

- Ồ! Ông Hương là thầy dạy tôi, nhưng ông tìm lối đi khác tôi, ông muốn tiêu diệt Cộng sản, cả Cộng sản miền Bắc. Ông thích làm lãnh tụ, nhưng...

- Xin nghe trung tướng...

- Nhưng ngày cái ghế thủ tướng của ông cũng chẳng vững vàng gì. Ông hạ thấp mình trước Nguyễn Khánh...

- Trung tướng có nhiều bè bạn, anh em, học trò, cấp dưới đang nắm quân... - Luân gợi ý chẳng lấy gì làm khéo.

- Anh, đại tá Nguyễn Thành Luân, cũng có nhiều bè bạn, anh em, học trò, cấp dưới đang nắm quân. Anh làm được cái gì? Trừ khi anh là Tổng thống Mỹ hoặc đại sứ Mỹ ở Sài Gòn. Tôi không ưa lối làm lơ lửng của anh Dương Văn Đức, Lâm Văn Phát.

- Thưa trung tướng, tôi biết trung tướng rất quả quyết trong vụ 1-11-1963.

- Cám ơn anh, nhưng anh phải trừ cho tôi tội giết anh em ông Diệm...

- Trong tương lai, trung tướng sẽ làm gì?

- Sẽ gặp anh ở một nước nào đó, ngoài Việt Nam Cộng hòa!

Tướng Dương Văn Minh rõ ràng thối chí, bi phẫn. Luân từ giã “thần tượng 1-11-1963” và đến gặp Nguyễn Khánh.

- Tôi biết quyết định cử anh là tùy viên báo chí tại Mỹ. - Nguyễn Khánh nói liền – Quyết định đó do áp lực của tướng Thiệu và Kỳ. Anh chịu khó một thời gian, rồi đâu sẽ vô đó...

- Liệu “đâu sẽ vô đó” không? – Luân cười mỉm.

- Ờ! Thì nói vậy... Biết ngày mai ra sao? Tôi đang được thổi lên mây đây. Nhưng, có khi tôi gặp anh ở Mỹ... Huê Kỳ mà! Họ làm chính trị y như trên phim, biến các cấp chức y như Garry Cooper, cần giật gân thì rút hai khẩu Colt 45 bắn lia lịa...

- Nhưng đại tướng...

- Trời đất! Đại tướng ăn thua mẹ gì, Chủ tịch cũng chẳng ăn thua mẹ gì. Tụi nó điếm đàng lắm. Tôi hơi chậm hiểu...

- “Tụi nó” là ai?

- Trời đất! Anh còn hỏi đố tôi. Thằng Thiệu, thằng Kỳ, chớ ai!

- Nhưng, hai người đó khó hợp tác với nhau lắm...

- Đúng, rồi hai đứa nó sẽ lôi ông bà ông vãi ra chửi nhau, trong khi trước mặt, hai đưa phải ngoi lên cái đã.

- Còn tướng Nguyễn Chánh Thi nữa?

- Ối! Thằng bá láp. Đại xạo. Nó không nằm trong thực đơn của Mỹ đâu.

- Đại tướng căn dặn gì tôi trước khi tôi sang Mỹ?

- Căn dặn anh là kiếm cho tôi một tiệm ăn nào đó để tôi sang có chỗ mà sống!

- Đại tướng bi quan quá!

- Kép hát nào cũng chỉ một thời ăn khách. Tôi tính toán rồi, bọn Mẽo xài tôi bấy nhiêu thôi...

- Và đại tướng cam chịu số phận?

- Không cam chịu thì làm cái gì? – Anh có một cái đầu để Mẽo suy tính cách đối phó với anh. Tôi thua anh xa quá!

Luân không nói nhiều với Dung. Hai vợ chồng biết rõ bước ngoặc trong đời họ bắt đầu.

- Cố liên lạc với A.07, báo cáo... - Luân dặn.

- Anh nên tin cho anh Nguyễn Thành Động, Lưu Khánh Nghĩa, cả anh Lâm biết anh ra đi...

- Báo chí sẽ công bố. Anh đề nghị báo công bố... Anh lo cho em. Có gì bất trắc, nên vào khu ngay...

- Anh yên tâm. Em đủ sức đương đầu với mọi bất trắc. Nhất là em biết chúng ta xa nhau chẳng bao lâu.

Luân ghì vợ vào lòng, hôn thắm thiết. Đó là đêm cuối cùng của Luân và Dung trên chiếc giường quen thuộc, vương hơi của cả hai gần 10 năm...

°

Thông cáo của Bộ Ngoại giao:

Chính phủ Việt Nam Cộng hòa vừa cử đại tá Nguyễn Thành Luân làm tùy viên báo chí tòa đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ.

°

Tin các báo:

Sáng hôm nay, ngày 1-1-1965, đại tá Nguyễn Thành Luân lên đường sang châu Âu và sẽ từ châu Âu sang Mỹ nhận nhiệm vụ mới: tùy viên báo chí đại sứ quán Việt Nam Cộng hòa.

Ra tiễn đại tá có bà đại tá và con, phó đại sứ Mỹ ở Sài Gòn William Porter, đại diện đại tướng Nguyễn Khánh, đại diện Tổng trưởng Ngoại giao, đại diện Bộ Quốc phòng và nhiều thân hữu của đại tá, các nhà báo trong ngoài nước. Đại tá Nguyễn Thành Luân đã trả lời phỏng vấn ngắn của nữ ký giả Hélen Fanfani tờ Financial Afairs...

°

Luân tạm biệt Sài Gòn với bao nhiêu sự cố dồn dập. Trận Bình Giã lại nổ ra, với mức độ và quy mô lớn hơn lần trước. Quân đội Sài Gòn rơi vào cái bẫy giăng sẵn, cuộc truy kích của quân đội Sài Gòn thực tế là sai lầm về chiến thuật: ngỡ rằng quân Giải phóng đã rút xa, nên tung hằng mấy trung đoàn cốt giương oai và cũng cốt chứng minh với người Mỹ khả năng đối phó của lực lượng tổng trù bị, can thiệp nhanh ở những nơi sôi bỏng nhất, đạt hiệu quả cao nhất cùng khả năng chỉ huy và tham mưu vững vàng của sĩ quan trong các chiến dịch mang tính chất binh chủng hợp thành. Những tham vọng ấy đều tiêu tan giống như các đơn vị bị băm nát có đơn vị mất luôn phiên hiệu. Đài Giải phóng và đài Hà Nội đánh giá trận Bình Giã là bước ngoặc trong loạt chiến tranh được mệnh danh “không tuyên chiến” hoặc “chiến tranh đặc biệt” – Mỹ cung cấp khí tài và cố vấn là chủ yếu. Bình Giã tuyên án tử hình chiến lược mà Taylor là cha đẻ: một kiểu tiết kiệm nhân mạng Mỹ.

Taylor sẽ phải rời Sài Gòn thôi – Luân nghĩ. Ngũ Giác Đài dứt khoát xem xét phương án thứ hai – đổ bộ thực binh Mỹ lên Nam Việt với một số lượng nhất định, chắc chắn đợt đầu phô trương, không thể ít hơn một trăm ngàn. Chính Taylor đã thú nhận: Mỹ phải trả đũa – tức Mỹ phải tự mình gánh vác trách nhiệm ở Nam Việt. Dọn đường cho phương án thứ hai. Mỹ gợi ý các nước Đông Nam Á chi viện cho Sài Gòn. Philippines đáp ứng sớm nhất nhưng chỉ bằng một đội y tế gồm 34 người. Đại Hàn hưởng ứng tiếp theo: Gởi 2.000 quân trong sư đoàn Mãnh Hổ. Dù sao Mỹ cũng gặp khó khăn hơn lúc chiến tranh Triều Tiên: lúc ấy, lợi dụng được lá cờ Liên hiệp quốc, còn bây giờ thì không. Đồng minh Mỹ ở Tây Âu phản đối sự can thiệp quân sự của Mỹ vào Việt Nam. De Gaulle không phải là loại dễ khuất phục. Tuy nhiên, Mỹ vẫn sửa soạn cho phương án đã chọn. Các vụ ném bom bắc vĩ tuyến 17 nhặt hơn, cho phép Sài Gòn bắn phá Vĩnh Linh. Chính Nguyễn Cao Kỳ trực tiếp lái máy bay Skyraider cùng cả một phi đội làm việc đó. Mỹ đặt ở Đà Nẵng giàn hỏa tiễn đất đối đất Hawks. Và, cố vấn an ninh của Tổng thống Mỹ L.B. Johnson vừa nhậm chức, William Bundy, bay sang Sài Gòn.

Muốn triển khai quân, Mỹ cần hai điều kiện: quân đội Sài Gòn phải đảm bảo đương nổi vai trò hỗ trợ và bình định để quân Mỹ đứng trên tuyến 1, tình hình chính trị Sài Gòn phải ổn.

Điều kiện thứ nhất không đơn giản. Các tướng Sài Gòn chẳng ai chịu ai và hội đồng tướng lãnh cứ họp liên miên, khi ở thủ đô, khi ở Vũng Tàu, khi ở Đà Lạt, khi ở Nha Trang. Kết quả đầu tiên là tướng tư lệnh vùng IV Nguyễn Văn Thiệu trở thành tướng 3 sao – trung tướng. Đại tá đầu 1963, trung tướng đầu 1965, Thiệu leo lên chiếc thang quân hàm với tốc độ phi mã.

Điều kiện thứ hai còn gay cấn hơn gấp bội. Thượng hội đồng quốc gia – một kiểu nghị viện – bị giới quân sự giải tán, có người bị bắt, chưa biết xoay xở làm sao để chính phủ có được cái áo hợp pháp thì Phan Khắc Sửu và Trần Văn Hương hục hặc. Nguyễn Khánh đứng ra hòa giải: Hương phải nhận Sửu và Sửu phải nhận Hương trên chức danh do thằng cha tào lao nào đó đặt ra. Rồi, đến lượt Sửu mời hết các phe – cả dân lẫn quân sự - đến phủ Quốc trưởng để “tìm tiếng nói chung”. Trong lúc đó, thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ đột nhiên nhảy ra tiếp xúc giới Phật giáo gọi là tham khảo thành lập một hội đồng quân dân. Nguyễn Chánh Thi, tư lệnh vùng I không chịu lép vế: gã họp báo, tuyên bố lia lịa về đủ thứ chuyện, kể luốn chuyện gã dốt trân. Nguyễn Khánh điên tiết, bảo Trần Văn Hương tuyên bố danh sách chính phủ cải tổ: Hương vẫn thủ tướng, Nguyễn Lưu Viên đệ nhất phó thủ tướng kiêm Tổng trưởng nội vụ, trung tướng Thiệu đệ nhị phó thủ tướng, tiến sĩ Nguyễn Xuân Oánh đệ tam phó thủ tướng, trung tướng Trần Văn Minh – biệt danh là Minh nhỏ - tổng trưởng quân lực, Phạm Đăng Lâm tổng trưởng ngoại giao, Lữ Văn Vĩ tổng trưởng tư pháp, thiếu tướng Linh Quang Viên tổng trưởng tâm lý chiến, Nguyễn Duy Xuân tổng trưởng kinh tế, Huỳnh Văn Đao tổng trưởng tài chính, Ngô Ngọc Đối tổng trưởng cải tiến nông thôn, Nguyễn Văn Trường tổng trưởng văn hóa giáo dục, Trần Quang Diệu tổng trưởng y tế, Đàm Sĩ Hiến tổng trưởng xã hội, Nguyễn Hữu Hùng tổng trưởng lao động, thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ tổng trưởng thanh niên và thể thao, Phạm Văn Hoàn tổng trưởng Phủ Thủ tướng.

Chính phủ dự định trình diện ngày 19-1-1965, phải đình hoãn vì bốn tướng không đến họp, mãi ngày 21 mới ra mắt được. Dư luận đón chính phủ Trần Văn Hương bằng các cuộc biểu tình mà xu hướng chống Mỹ mỗi ngày mỗi rõ: Phòng thông tin Mỹ ở nhiều nơi bị người biểu tình đốt phá, quy mô biểu tình khá lớn, xô xát với cảnh sát cũng dự dội. Đặc biệt cuộc biểu tình trưa 22-1, tức một ngày sau khi nội các Trần Văn Hương ra mắt, hàng nghìn người đứng trước sứ quán Mỹ đường Hàm Nghi, với các biểu ngữ: Hãy để cho dân Việt tự quyết định công việc của nước Việt. Đám biểu tình đập phá thư viện Mỹ. Trần Văn Hương bẽ mặt, công khi xin lỗi đại sứ Taylor và chửi rủa dân chúng thậm tệ. Trong một bài phát thanh, Hương gọi phần tử biểu tình là “lũ lưu manh cạo trọc đầu để làm trò khỉ”. Hương điều quân dù canh gác Viện Hóa đạo, lính dù có thái độ cực kỳ khả ố đối với nữ sinh Phật tử. Ở Huế, Phòng thông tin Mỹ bị đốt cháy, phó lãnh sự Mỹ can thiệp, bị dân biểu tình ném đá.

Taylor đành phải họp với Phan Khắc Sửu, Trần Văn Hương và Nguyễn Khánh. Cuộc họp chẳng thu kết quả. Sửu đòi quyền Quốc trưởng thật sự, Hương đòi chức thủ tướng không lệ thuộc vào Sửu, Khánh đòi hai người phải tôn trọng quân đội, Taylor đòi mọi lộn xộn phải được thu xếp thật nhanh.

Hàng nghìn tăng ni khắp Nam Việt tuyệt thực. Học sinh, sinh viên tiếp tục xuống đường, ở Sài Gòn và hầu như không sót tỉnh nào, từ Quảng Trị trở vào. Trường Bồ Đề trở thành một thứ bản doanh của thanh niên. Lại tự thiêu: nữ sinh Đào Thị Yến Phi 17 tuổi; tự thiêu giữa thành phố Nha Trang.

Hội đồng quân lực quyết định: giao cho tướng Nguyễn Khánh giải quyết cuộc khủng hoảng nhưng theo hướng của tướng Kỳ: triệu tập hội đồng quân dân.

Lần này, Sửu thắng Hương: Hương nhường ghế cho tiến sĩ Nguyễn Xuân Oánh. Tiến sĩ Oánh chỉ lót đường thôi. Ngày 16-12-1965, Hội đồng quân lực tuyên cáo:

“Như đã nhiều lần trình với quốc dân đồng bào, các tướng lãnh Việt Nam Cộng hòa chỉ mong muốn ở Nam Việt thiết lập được một thể chế dân chủ, thế nhưng thời gian qua chứng tỏ dân tình ly tán, chính phủ không điều khiển được công việc quốc gia, không đủ sức đoàn kết các đồng bào, làm cho uy tín của Việt Nam Cộng hòa suy giảm, an ninh rối loạn, tạo cơ hội tốt cho Việt Cộng đánh mạnh. Một lần nữa, Hội đồng quân lực buộc phải hành động cứu nước. Hội đồng tuyển nhiệm quốc trưởng, chỉ định thủ tướng, thành lập hội đồng quân dân, triệu tập quốc dân đại hội. Sau khi xong nhiệm vụ lịch sử, Hội đồng trở lại vị trí của mình. Hội đồng quân lực tuyên bố chính sách quốc gia như sau: nỗ lực chiến đấu để xây dựng tự do và thanh bình cho xứ sở, liên kết thân thiện với các nước tự do, chống xâm lược Cộng sản, xây dựng dân chủ, cải tiến xã hội”.

Đại tướng Nguyễn Khánh, Tổng tư lệnh quân đội, theo nội dung tuyên cáo của Hội đồng quân lực, ký quyết định tuyển nhiệm kỹ sư nông học Phan Khắc Sửu làm Quốc trưởng và bổ nhiệm Phan Huy Quát làm thủ tướng.

Phan Huy Quát nhanh nhẩu nêu danh sách nội các ngay trong ngày: Quát thủ tướng, trung tướng Nguyễn Văn Thiệu phó thủ tướng kiêm tổng trưởng quân lực, luật sư Trần Văn Đỗ phó thủ tướng kiêm tổng trưởng ngoại giao, luật sư Trần Văn Tuyên phó thủ tướng phụ trách kế hoạch, bác sĩ Lê Văn Hoạch quốc vụ khanh, bác sĩ Nguyễn Tiến Hỷ quốc vụ khanh kiêm tổng trưởng giáo dục, thiếu tướng Linh Quang Viên tổng trưởng thông tin tâm lý chiến, Trần Văn Ân, tổng trưởng chiêu hồi, giáo sư Nguyễn Văn Vĩnh tổng trưởng kinh tế, giáo sư Trần Văn Kiện tổng trưởng tài chính, kỹ sư Nguyễn Ngọc Tố tổng trưởng canh nông, kỹ sư Ngô Trọng Anh tổng trưởng giao thông công chánh, giáo sư Trần Quang Thuận tổng trưởng xã hội, bác sĩ Nguyễn Tăng Nguyên tổng trưởng y tế, Nguyễn Văn Hoàng tổng trưởng lao động, Y sĩ trung tá Nguyễn Tấn Hồng tổng trưởng thanh niên, Bùi Diêm bộ trưởng Phủ Thủ tướng, Nguyễn Văn Tương thứ trưởng nội vụ, kỹ sư Bùi Hữu Tuấn thứ trưởng công chánh.

Danh sách trên cho thấy tham vọng của Phan Huy Quát: lôi kéo đủ phe nhóm, từ Phật giáo, Thiên Chúa, Cần Lao, đến Bình Xuyên, Cao Đài...

Hội đồng quân lực cũng ra quyết định thành lập Hội đồng quốc gia lập pháp gồm 20 người thuộc nhiều xu hướng: Luật sư Nguyễn Huy Chiểu, bác sĩ Phạm Hữu Chương, trung tướng Phạm Xuân Chiểu, Đề đốc Chung Tấn Cang, thiếu tá Đỗ Đăng Công, giáo sư Cao Hữu Định, giáo sư Nguyễn Lương Hưng, bác sĩ Phạm Văn Hạt, giáo sư Bùi Hữu Tuấn, Trịnh Quốc Khánh, đại tá Đoàn Chí Khoa, giáo sư Phạm An Khoang, Nguyễn Long, đại tá Bùi Văn Mạnh, Hùynh Văn Nhiệm, thiếu tá Nguyễn Phúc Quế, luật sư Nguyễn Lâm Sanh, Nguyễn Văn Thanh, Nguyễn Trân, Trần Quang Vinh. Phạm Xuân Chiểu được bầu làm chủ tịch hội đồng.

Đài phát thanh BBC dành cho đại tá Nguyễn Thành Luân một buổi phỏng vấn đặc biệt, nhân đại tá trên đường sang Hoa Kỳ nhận nhiệm vụ tùy viên báo chí đại sứ quán Việt Nam Cộng hòa, ghé thăm Anh quốc: “Như đa số thính giả bản đài biết, đại tá Nguyễn Thành Luân là một nhân vật nổi tiếng ở Việt Nam Cộng hòa, ông cùng cố vấn chính trị Ngô Đình Nhu thảo ra nền tảng lý thuyết Cần lao Nhân vị cho chế độ Ngô Đình Diệm và nền tảng đó tỏ ra hữu hiệu ngót 10 năm trên một đất nước mà Cộng sản giữ ưu thế trên nhiều phương diện. Sau đây xin mời quý vị thính giả nghe cuộc phỏng vấn bằng tiếng Việt. Đại tá nhã nhặn dành cho thính giả tiếng Anh buổi phỏng vấn mà bản đài sẽ phát liền khi chấm dứt chương trình Việt Ngữ.

BBC: Thưa đại tá, xin đại tá cho thính giả của đài BBC một cái nhìn tổng quát tình hình hiện nay ở Việt Nam Cộng hòa.

ĐẠI TÁ NGUYỄN THÀNH LUÂN: Tôi cám ơn đài BBC đã tổ chức buổi phỏng vấn này, tạo cơ hội cho tôi trình bày vài suy nghĩ về vị thế hiện tại của Việt Nam Cộng hòa. Nhìn tổng quát, tình hình không khả quan so với trước chính biến 1-11-1963, cách nay hơn một năm. Lúc bấy giờ, trên cả ba bình diện Việt Nam Cộng hòa đều khá ổn định. Về bình diện chính trị, đất nước có một quốc hội, một hiến pháp, một Tổng thống và một nội các khả thi các chính sách, tuy xảy ra vụ Phật giáo song đang trên đà giàn xếp ổn thỏa, dan tâm xao xuyến mức nào đó nhưng vẫn chưa sứt mẻ niềm tin ở chính nghĩa quốc gia và khả năng phục hồi an ninh. Việt Nam Cộng hòa giữ được uy tín quốc tế và mối quan hệ thân thiết với thế giới tự do, không nảy sinh tranh chấp gì quan trọng với các quốc gia theo xu hương Bangdun trong vùng Nam Á và Thái Bình Dương. Việt Nam Cộng hòa là đồng minh trung thành của Hoa Kỳ. Về bình diện kinh tế và xã hội, các mặt nông, kỹ nghệ, kinh tế, thương mại, các mặt học đường và ngôn luận, tất cả đều phát triển bình thường, có tăng hàng năm, số tiền viện trợ của Hoa Kỳ và các nước bạn được dùng đúng mục tiêu, không có tệ nạn tham nhũng. Về bình diện quân sự, Việt Cộng quấy phá từng nhóm nhỏ an ninh lãnh thổ nói chúng không đáng lo ngại, quân lực Việt Nam Cộng hòa đảm đương không quá vất vả các quân khu, sĩ quan không tham chính, kỷ luật được tôn trọng.

BBC: Thưa đại tá theo cách trình bày của đại tá chế độ của ông Diệm là lý tưởng. Nhưng tại sao dân chúng Việt Nam lại ủng hộ chính biến 1-11-1963?

ĐẠI TÁ LUÂN: Tôi không bao giờ cho rằng chế độ ông Diệm là lý tưởng. Nó có một số khuyết tật, tỷ như nó tự giới thiệu gần như độc quyền của những người Thiên Chúa giao di cư, như thuộc địa phương của miền Trung, quê quán của ông Diệm và về sau nó mang dáng dấp cung đình. Tuy nhiên, tôi so sánh thời kỳ ông Diệm với hiện nay là ai cũng thấy sự hoán đổi đáng phàn nàn: từ trị ra loạn, từ hiến chế ra quân phiệt, từ vững vàng ra suy yếu...

BBC: Nghĩa là đại tá kết án chính biến 1-11-1963 và các vị chủ xướng chính biến đó?

ĐẠI TÁ LUÂN: Về một khía cạnh nào, chính biến có nhu cầu khách quan của nó. Một số vị chủ xướng cuộc lật đổ ông Diệm, theo tôi nghĩ, vì lòng yêu dân tộc. Nhưng, sát hại anh em ông Diệm dứt khoát là sai lầm. Sai lầm nối tiếp là không kịp thời định hướng chính trị, thiếu những người sáng suốt cai trị đất nước, quá mềm yếu trước nguy cơ kiêu binh. Tôi cho rằng người Mỹ hối hận đã hại anh em ông Diệm và xóa mà không có cái thay thế.

BBC: Thưa đại tá, có phải đại tá cho rằng mọi sự nay đều quá muộn?

ĐẠI TÁ LUÂN: Tôi không nghĩ một cách tuyệt đối như vậy. Song, nếu người Mỹ từ trước đến nay đều lo lắng sự dính liệu của bản thân mình quá sâu vào một đất nước xa lạ và luôn muốn tránh điều ấy thì tình thế chưa quá muộn...

BBC: Người Mỹ, Tổng thống Johnson chắc chắn ngại một Triều Tiên thứ hai?

ĐẠI TÁ LUÂN: Nam Việt không phải là một Triều Tiên theo nghĩa sao chép sự kiện cách chúng ta 15 năm. Nhưng, Nam Việt có thể dành cho nước Mỹ một số phận bi đát hơn Triều Tiên dù ở đây rất ít khả năng Mỹ chạm trán với Trung Cộng hay Nga Sô mà chỉ chạm trán với Cộng sản Việt Nam thôi.

BBC: Xin đại tá nói rõ hơn ý vửa rồi.

ĐẠI TÁ LUÂN: Không hoặc ít khả năng chạm trán trực diện với Trung Cộng và Nga Sô, tình cảnh Mỹ không vì vậy mà ít phức tạp hơn. Chạm trán với cả làn sóng thế giới kết án chiến tranh xâm lược, với sự thiếu nồng nhiệt của một số đồng minh lớn như Pháp, Anh, với thái độ bất bình của Ấn Độ, Indonésia và sau cùng, với chính các tầng lớp người Mỹ...

BBC: Theo đại tá, đâu là lối thoát?

ĐẠI TÁ LUÂN: Phải đặt vấn đề Nam Việt, vấn đề Nam Việt và Đông Dương trên mối cân bằng chính trị. Đây là bài toán chính trị cần đáp số chính trị. Theo đuôi một phương pháp khác giải bài toán sẽ không bao giờ tìm được chìa khóa và hậu quả thì vô cùng nặng nề, cho cả Việt Nam lẫn Mỹ.

BBC: Xin được hỏi câu cuối cùng: Đại tá dự định làm gì ở Hoa Kỳ?

ĐẠI TÁ LUÂN: Tôi thành thực vui mừng trở lại Mỹ, gặp lại bạn bè. Trong nhiệm vụ tùy viên báo chí, tôi cố làm cho dư luận hiểu thực chấp vấn đề Nam Việt.

BBC: Thế thì đại tá sẽ làm ngược lại ý kiến của chính phủ Việt Nam Cộng hòa!

ĐẠI TÁ LUÂN: Miễn tôi không làm ngược lợi ích lâu dài và cơ bản của Việt Nam Cộng hòa và Mỹ.

BBC: Xin cảm ơn đại tá.

°

Điện khẩn: Gửi đại tá Nguyễn Thành Luân.

Sứ quán Việt Nam Cộng hòa tại Washington.

Thủ tướng chính phủ không hài lòng về những câu trả lời của đại tá với đài BBC. Thủ tướng yêu cầu từ nay đại tá không được lên tiếng nếu không xin ý kiến đại sứ.

Văn phòng phủ Thủ tướng – Sài Gòn.

°

SAI LẦM VÀ SAI LẦM

(Bài của cựu đại sứ ở Nam Việt F. Rheinardt trên báo New Yorker Magazine).

Một người bạn của tôi – và đương nhiên cũng là một người bạn của nước Mỹ- vừa đến thủ đô Washinton trong một nhiệm vụ hết sức khiêm tốn: tùy viên báo chí tòa đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Mỹ. Vợ tôi và tôi ra sân bay đón ông cùng với vị đại diện sứ quán Việt Nam Cộng hòa. Buổi đón tiếp, trong bụi tuyết lả tả sẽ hết sức lạnh lẽo nếu không có mặt tướng hồi hưu Jones Stepp và phu nhân, cùng một số nhà báo, truyền thanh, truyền hình đông đảo khác thường. Vị đại diện lên máy bay và chúng tôi biết ông trao cho đại tá Nguyễn Thành Luân, người bạn mà tôi nói, bức điện khẩn của Sài Gòn yêu cầu không được tuyên bố điều gì với báo chí Mỹ. Tất nhiên, như tôi biết về ông trong những ngày đầu khó khăn của chế độ Sài Gòn, ông vẫn là ông. Ông tươi cười bắt tay và ôm hôn chúng tôi, tươi cười với các ống kính. Ông đã thoải mái trả lời nửa giờ liền các câu hỏi của báo chí và đài truyền hình như ông đã làm ở London. Vị đại diện sứ quán mặt tái, còn ông, ông hẹn các nhà báo lần khác, nhiều thì giờ hơn, sẵn sàng thỏa mãn mọi tò mò của công luận Mỹ. Tuy nhiên, 30 phút cũng đủ cho chính giới Mỹ hiểu được hai điều trọng yếu: một là, nếu Tổng thống Johnson tiếp tục đường lối hiện nay thì Nam Việt là con đường hầm như bộ tiêu hóa cực kỳ tốt nuốt hàng nghìn tỉ dollar và hàng trăm nghìn binh sĩ Mỹ, nuốt luôn uy tín của một đại cường quốc đang lãnh đạo thế giới tự do; hai là ông đầy bản lĩnh. Điều trọng yếu thứ nhất, với tôi, chưa phải đã thật hoàn hảo, tôi còn nhiều điểm để tranh luận và tôi chờ đợi dịp thuận lợi, chờ bài báo mà ông hứa sẽ viết ngay cho tờ Washington Post. Điều trọng yếu thứ hai, cũng với tôi, thì không còn gì để bàn cãi. Nguyễn Thành Luân, một sĩ quan cấp cao của Việt Minh kiến thức phong phú, hợp tác với Ngô Đình Diệm khi ông này lên cầm quyền ở Sài Gòn. Là sĩ quan (ông bổ túc ở học viện Fort Bragg), Nguyễn Thành Luân đúng hơn là nhà tư tưởng chiến lược, tổ chức và chỉ đạo. Tôi từng trao đổi với ông và tìm thấy ở ông một tiềm năng trí tuệ đặc sắc. Tướng Collins cũng đồng ý với tướng Taylor nhận định về ông không khác. Lúc còn là phó tổng thống, ông L.B. Johnson từng nói với tôi: Đó là người cần cho nước Mỹ.

Thế nhưng, chính ông Cabot Lodge đã làm hỏng tất cả. Hạ bệ ông Diệm chỉ là một khía cạnh, khía cạnh kia quan trọng hơn, là hình thành đội ngũ kế tiếp. Chúng ta lún sâu vào sai lầm. Tập đoàn đang thống trị Nam Việt bát nháo chưa từng thấy và bây giờ chính nước Mỹ bị họ xỏ mũi dẫn đi chẳng biết về đâu và đến đâu. Lẽ nào nước Mỹ phải thỏa mãn thói đàng điếm, thói bốc đồng của các tướng và chính khách Nam Việt tối dạ nhất về chính trị? Và, một con người, cha đẻ mọi chủ thuyết hoàn hảo, chống Cộng khôn ngoan, con người đó đột nhiên bị đuổi ra khỏi Tổ quốc mình và nhận một chân thơ lại tại một sứ quán. Cách làm của tướng Nguyễn Khánh, chắc chắn được ông Colby ngầm ủng hộ, nhằm thải loại tất cả những ai nhiệt thành tiết kiệm máy cho Mỹ và thuế cho công dân Mỹ. Tổng thống Johnson, ngoại trưởng Dean Rusk cần hiểu: sai lầm như thế là đủ, quá đủ. Tướng Westmoreland đang xin quân. Tôi, với tư cách nguyên đại sứ Mỹ ở Nam Việt xin cái khác: Hãy biết dùng người Việt, họ đủ tài năng và kinh nghiệm hơn chúng ta. Ngăn chặn Cộng sản ở Nam Việt không thể bằng các sư đoàn Mỹ, không thể bằng hạm đội và không quân Mỹ.

Công chúng Mỹ cần biết: ở Việt Nam không chỉ có Nguyễn Khánh lố bịch mà còn có những người nghiêm túc như đại tá Nguyễn Thành Luân.