Ván Bài Lật Ngửa

P9 - Chương 12

Tám tháng sau ngày lật đổ Ngô Đình Diệm, ngày 28-6-1964, Henry Cabot Lodge rời Sài Gòn, nhường chức cho một người vốn rất quen thuộc ở Việt Nam, tướng Maxwell Taylor. Một nhà ngoại giao chuyên nghiệp, Alexis Johnson được Washington cử làm phó đại sứ. Sự thay đổi nhân sự này nằm trong một dự kiến đồng bộ: Tướng William Westmoreland trở thành Tư lệnh quân đội Mỹ ở Viễn Đông, còn tướng Paul Harkins thì về hưu.

Bắt chước đại sứ tiền nhiệm Nolting, Cabot Lodge ra sân bay Tân Sơn Nhất trong bộ “quốc phục” Việt Nam: Áo dài chấm đen, khăn be. Lễ tiễn thật long trọng. Đô trưởng Sài Gòn huy động gần một vạn công chức và binh sĩ cầm cờ hai nước tụ tập từ cổng sân bay vào phòng khác. Trẻ con hiếu kỳ, khá đông. Dẫu sao, một ông Mỹ mặc áo dài chít khăn be cũng vui vui. Nguyễn Khánh cùng văn võ trong Hội đồng quân đội, chính phủ có mặt. Nhà sư Thích Tâm Châu cầm đầu một đoàn Phật giáo hùng hậu đứng ngay cửa ra vào phòng khách. Cabot Lodge hoan hỉ vẫy tay đáp lễ. Tất nhiên các nhà báo trong và ngoài nước rất nhạy – họ phát hiện quốc trưởng Dương Văn Minh không có mặt và không nghe thông báo đại sứ Cabot Lodge chào từ biệt quốc trưởng, dù theo nghi thức ngắn ngủi. Gần như không có đại biểu giới theo đạo Thiên Chúa tiễn đại sứ Mỹ. Và, bộ trưởng Nội vụ Lâm Văn Phát, chẳng viện cớ gì cả, không ra sân bay.

Tại phòng khách, sâm banh nổ dòn. Nhưng, kẻ đi người ở chưa kịp chạm cốc thì một toán nhà báo quốc tế ùa vào, chủ yếu là nhà báo Mỹ. Cabot Lodge nhíu mày. Viên sĩ quan quân cảnh nhún vai, có vẻ phân bua: Tôi không thể ngăn họ. Dĩ nhiên, cảnh sát Việt càng bất lực hơn, bởi đấy là nhà báo phương Tây, nhà báo Mỹ.

Ánh magnesium lóe giống hệt một trận tiến công bằng các tia sáng giữa Cabot Lodge còn cau có. Những bức ảnh này thật bất lợi. Nhà ngoại giao Hoa Kỳ cỡ lớn, một ứng cử cỡ lớn, một ứng cử viên tổng thống sẽ xuất hiện trên mặt báo với dáng vẻ thiếu khả ái, cái cớ cho trăm thứ bình luận cực kỳ nguy hiểm. Và, trước công chúng Mỹ, chiếc áo gấm, chiếc khăn be quả đặc biệt hài hước. Vị đại sứ quê Massasuchetts, còn đúng một tuần nữa là lễ sinh nhật lần thứ 62, vốn cũng hành nghề báo chí – viết bài cho những tờ sừng sỏ: Boston Evening Transeript, New York Herald Tribune... – thế mà mãi chọn không ra tư thế trước ống kính quái ác. Vào giờ phút đó, bà đại sư Emily Sears cố gắng cứu chồng. Bà, vẫn mặc váy như mọi phụ nữ phương Tây, tươi cười nâng cốc sâm banh hướng về các nhà báo: “Xin chúc sức khỏe! Xin tạm biệt các bạn và mong các bạn được vui vẻ ở đất nước đáng yêu này!”

Đó là giây phút Cabot Lodge lấy lại tư thế.

- Tôi cảm ơn các bạn...

- Xin hỏi ngài một câu ngắn: Ngài có hài lòng không khi rời công vụ tại đây, tại Sài Gòn? – Phóng viên News Week phát pháo.

- Tất nhiên, tôi rất hài lòng. Mọi việc đều tốt!

- Ngài có lạc quan quá chăng? – Phóng viên News Week dấn thêm một bước...

- Không phải tôi mà sự thật cho thấy những mặt đáng hài lòng đó... - Cabot Lodge bắt đầu cảnh giác – Tôi nói đúng không, ngài chủ tịch Hội đồng quân đội?

Nguyễn Khánh mau miệng: “Đúng, rất đúng, hoàn toàn đúng”. Tiếng cười ồ của các nhà báo chuyển không khí từ dễ chịu sang căng thẳng.

- Mọi việc đều tốt! – Fanfani chĩa máy quay vào mặt Nguyễn Khánh – Ba anh em họ Ngô bị bắn, nhiều cuộc biểu tình của giáo dân Thiên Chúa ở Huế, Sài Gòn, hàng không mẫu hạm Card trọng tải những hơn 16.000 tấn bị Việt Cộng đánh mìn ngay tại cảng Sài Gòn... Đã có hơn 200 lính Mỹ chết ở chiến trường. Tổng thống Johnson phải xin việc trợ thêm 125 triệu dollar cho Nam Việt. Tất cả đều tốt! Dư luận không thể hiểu. Tôi muốn hỏi ngài cựu đại sứ và ứng cử viên tổng thống tương lai Cabot Lodge một câu: Điều gì ngài ân hận nhất trong thời gian làm việc tại Sài Gòn?

Chẳng rõ vô tình hay cố ý, thay vì trả lời câu hỏi hóc búa của Fanfani, Cabot Lodge lại ngó Nguyễn Khánh.

Phóng viên Washington Post rất nhạy bén:

- Ngài không hài lòng về những mẫu người kiểu ông Nguyễn Khánh?

Nguyễn Khánh nổi cáu:

- Ông nhà báo, ông có biết đây là đâu không?

Nhà báo Mỹ cười rất tươi:

- Thưa ông có biết ông là ai không?

Cabot Lodge không phủ nhận lối nhận xét rất thâm của nhà báo, ông ta nhìn ra cửa. Cô tiếp viên vào đúng lúc:

- Thưa, máy báy sắp cất cánh...

°

Bài của phóng viên News Week

Bộ “quốc phục” Việt Nam không còn tôn vinh Cabot Lodge và đúng như các nhà báo đã tặng ông các câu hỏi giá trị ngang những quả cà chua và trứng thối, ông để lại một gia tài tại Nam Việt khốn nạn hơn nhiều so với lúc ông nhậm chức: nội tình rối bét, phe phái phân tranh, dân chúng nhìn nước Mỹ bằng đôi mắt hoài nghi, đàn ngựa sẵn sàng lừa dip tặng nhau những cú đã chết người. Bài toán tuy của Kennedy song chính Cabot Lodge được toàn quyền đề xuất sáng kiến và thời gian tuy ngắn, đã chứng tỏ ông là một chính khách thành thạo các mưu mẹo vặt. Giết Diệm, Lodge bảo đảm với chính phủ Mỹ rằng không cần thêm lính Mỹ nào nữa, Nam Việt sẽ ổn định, Việt Cộng sẽ rút dần và tan rã thành từng đám phỉ. Tình hình Nam Việt không nghe ông, nó rẽ vào cái ngả mà cuối cùng ông phải bảo vệ một quan điểm khác: không có thực binh Mỹ, Nam Việt rơi vào tay Cộng sản.

Paul Harkin luôn không tán thành Cabot Lodge về việc giết Diệm. Harkins chủ trương duy trì Diệm để thắng Việt Cộng, có thể chỉ tăng thêm khí tài chiến tranh và thu xếp cho em xuôi vụ xung đột Diệm và Phật giáo.

Về mặt này, cả Cabot Lodge và Harkins đều theo thuyết ứng dụng, trong khi đằng sau Nhà Trắng còn có cả một thế lực áp đảo – dứt khoát Mỹ phải đứng vững ở Việt Nam và không lệ thuộc vào hình thức: ôn hòa cũng tốt, đưa quân Mỹ ồ ạt tham chiến cũng không xấu. Chắc chắn Cabot Lodge đã hiểu ra sự thật ấy cho nên ông không mấy băn khoăn, Harkins thì bất mãn. Cabot Lodge còn đi nốt con đường danh vọng mà ông đam mê và chức đại sứ chỉ là chiếc cầu; Harkins trái lại, xin về hưu.

Phó tướng của Harkins thay ông. Đây gần như một xếp đặt sẵn. Viên tướng có đôi mắt sâu nhận thêm một sao khi ngồi vào ghế Tổng chỉ huy lực lượng Mỹ ở Viễn Đông. William C. Westmoreland sinh năm 1914 tại Sparenburg County, bang Nam Carolina, nhỏ hơn tướng tiền nhiệm Paul Donal Harkins 10 tuổi, trong một gia đình không danh tiếng, thuộc dòng họ mà mãi đến ông mới có một sĩ quan cấp tướng – ông nhận quân hàm chuẩn tướng năm 1953 mặc dù nhập ngũ từ năm 1936, kinh qua Học viện quân sự, từng bị cú đánh bất ngờ của Nhật ở Trân Châu Cảng... Tuy nhiên, chỉ cần 8 năm, Westmoreland leo thật nhanh, những ngôi sao trên cầu vai thi nhau nẩy nở. Người ta nói trong lịch sử quân sự Mỹ chưa người nào thành đạt bằng ông và giữ kỷ lục khó phá vỡ nổi về tốc độ lên cấp – trung tướng vào tuổi 50.

Vợ ông, Katherine S. Van Deusen, gốc Hà Lan, lai Đức, thỉnh thoảng dẫn con sang Sài Gòn thăm ông.

Có một cách giải thích về sự xuất hiện của Westmoreland ở chiến trường Nam Việt: ông từng chỉ huy pháo binh, quân dù, không quân, từng tham chiến ở Triều Tiên, từng phụ giảng ở Học viện West Point và Fort Bragg, nghĩa là một người hội đủ các điều kiện: Lý thuyết, thực hành, kinh nghiệm và cả thế lực.

Giới chính trị biết Westy – nhà quân sự Mỹ gọi ông một cách thân ái – nhưng ông tự giới thiệu mình qua các bức điện của ông đăng trên tờ “Những ngôi sao và sọc”, cơ quan lực lượng quân sự Mỹ ở Thái Bình Dương trong ngày tướng Mac Acthur từ trần, 5-4 năm nay. “Với tư cách là một sĩ quan cấp tá trong tập đoàn quân thứ 8 dưới quyền của Ngài giữ lúc cuộc chiến Triều Tiên ở vào giai đoạn khốc liệt, tôi gởi điện phân ưu đến gia đình Ngài và đến những thân hữu của Ngài, từ một chiến trường sôi bỏng như ở Triều Tiên năm xưa. Tôi học được ở Ngài vị chỉ huy xuất sắc cả quân lực Hoa Kỳ, bậc thầy về chiến lược và chiến dịch, tính kiên định khi Ngài khi Ngài bất chấp các dư luận phản ứng của dư luận chính trị, cho đổ quân lên Fusan và vùng đất phân chia Nam và Bắc Triều Tiên, một quyết định vĩnh viễn đi vào lịch sử bởi nhờ nó mà Cộng hòa Đại Hàn được cứu thoát.

Giã từ cuộc sống trần thế vào tuổi 84, Ngài để lại một bề dày đồ sộ về quá khứ binh nghiệp mà các đân tọc Thái Bình Dương không bao giờ quên công ơn, từ Borneo, Lucon, Okinawa... Tôi học ở Ngài vô vàn đức tính và cái đọng sâu sắc trong tôi là thái độ của một chiến binh chuyên nghiệp, chỉ phục tùng một mệnh lệnh, ấy là lương tâm quyết chiến thắng. Nỗi bất hạnh đối với Ngài (1) càng khoác lên Ngài ánh hào quang của trí tuệ. Nếu bấy giờ, người ta chịu nghe ý kiến của Ngài, có thể không hề xảy ra một sự lặp lại như nước Mỹ đang đối phó ở Nam Việt. tôi hy vọng bài học cũ đang nhắc nhỡ giới chức cầm quyền nước ta. Và, thưa cố Thống tướng, tôi hy vọng Ngài không phiền lòng về đứa học trò nhỏ của Ngài đang ôn lại những gì Ngài nói và thực hiện...”

Không có một phản ứng nào của Nhà Trắng và Lầu Năm Góc về bức điện “tuyên ngôn” – như vài nhà báo bình luận – mang chữ ký của Westmoreland, một trung tướng trợ lý nơi vùng hẻo lánh của trái đất.

Lễ bàn giao chức vụ Tư lệnh Bộ Tư lệnh Mỹ ở Nam Việt và Thái Lan giữa Harkins vàWestmoreland cử hành tại trụ sở Bộ chỉ huy, một ngôi nhà cổ đường Trần Hưng Đạo, gần nơi giáp giới thành phố Sài Gòn và Chợ Lớn. Hơn hai trăm sĩ quan từ cấp trung tá trở lên có mặt, có mặt cả đại sứ Cabot Lodge, tướng Jones Stepp, tướng Trần Thiện Khiêm.

Paul Harkins nói ngắn: “Tôi cố gắng và có thành công cũng như không thành công. Nam Việt mang quá nhiều đặc thù, vai trò chính trị chi phối đậm nét trong mọi hoạt động của giới quân nhân chúng ta. Dù sao, tôi phải nói rằng cái gánh mà tôi trao cho tướng Westmoreland – tiện đây, tôi xin thông báo, Tổng thống đã quyết định nâng quân hàm Westy của chúng ta lên cấp đại tướng – quả thật nặng. Tôi xin lỗi người kế nhiệm tôi, các chiến hữu. Tôi tin tưởng tướng Westmoreland sẽ hoàn thành các việc mà tôi không hoàn thành...”

Westmoreland nói còn ngắn hơn – ông không ca ngợi nửa lời vị chỉ huy cũ của mình: “Các sĩ quan, tướng lãnh! Chấp hành lệnh của Tổng thống, từ giờ này, tôi chỉ huy lực lượng Mỹ ở Nam Việt và Thái Lan. Tôi báo trước và nhờ những người có mặt tại đây báo với toàn quân: Tôi là một chỉ huy khó tính, thích đòi hỏi cấp dưới!”.

Westmoreland lập lại gần như nguyên văn phát biểu đầu tiên của tướng De Lattre de Tassigny khi được cử làm Tổng chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương, năm 1950, tại lễ đón tiếp ông ở sân bay Tân Sơn Nhất.

Hôm sau, nhân cuộc họp ở Bộ Tổng tham mưu, nghe Trần Thiện Khiêm thuật lại lời của Westmoreland, Nguyễn Thành Luân cười mỉm:

- Ông ta chưa nói như Napoléon trong chiến dịch Ai Cập: “Hỡi binh sĩ Pháp! Từ tầm cao lồng lộng của các Kim Tự Tháp, lịch sử đang quan chiêm chúng ta!”.

°

Tình hình Nam Việt tiếp tục rối loan. Ngô Đình Cẩn và Phan Quang Đông bị kết án tử hình và bị bắn, chẳng thêm gì cho Nguyễn Khánh. Tướng Big Minh thì lại mất thêm: ông là Quốc trưởng, ông bác đơn xin ân xá của Cẩn. Nguyễn Thành Luân hiểu rõ tâm trạng của vị Quốc trưởng hoàn toàn tượng trưng và vị trí bấp bênh đến từng ngày.

- Tôi nghĩ trung tướng nên ân xá cho Ngô Đình Cẩn...

Luân vào phòng tướng Minh và chính thức nêu ý kiến.

- Nếu tôi có quyền! – Tướng Minh trả lời kèm theo tiếng thở dài nặng nề.

- Tôi có thể ký đơn xin ân xá không?

- Vô ích! Áp lực đòi bắn Cẩn không từ giới Phật giáo mà từ đại sứ Mỹ. - Tướng Minh không dấu vẻ cay đắng.

- Người Mỹ sẽ được gì khi bắn Cẩn?

- Đại tá hiểu hơn tôi...

- Trung tướng Nguyễn Khánh có thể là một trọng lực vào trong vụ này?

Tướng Minh lắc đầu ngao ngán:

- Tôi là bù nhìn của ông Khánh, ông Khánh là bù nhìn của đại sứ Mỹ và đại sứ Mỹ rất có thể, là bù nhìn của ai đó...

Luân thảo một loạt đơn xin ân xá cho Cẩn và tất cả đều quay trở về với những nhận xét giống nhau: Tội của ông Cẩn quá nặng...

Tội của Cẩn nặng, đúng, song vụ án lại không vì những tội trạng thông thường – ý đồ chính trị giảm tội cho người này, cột tội thêm cho người khác... “Mỹ và các thế lực thân Mỹ ở Sài Gòn muốn lật một trang sử với thái độ bề ngoài dứt khoát!...”. Luân hiểu chiều sâu của những phát súng thanh toán.

Mọi sự cố khác xôn xao dư luận: báo chí đưa tin hai Việt Cộng đặt mìn ở cầu Công Lý nhằm vào bộ trưởng quốc phòng Mac Namara, họ bị phát hiện và bị bắt. Ảnh trên báo thấy cả hai còn rất trẻ - một tên là Nguyễn Văn Trỗi, thợ điện.

Những diễn biến gần đây cho Luân và Dung một nhận định quang trọng: phong trào thành phố Sài Gòn và cả miền Nam đang chuyển mình. Về chính trị, lực lượng Phật giáo và học sinh, sinh viên vuột lần khỏi trên tay chi phối của tình báo Mỹ, các phái xấu, các phần tử cơ hội. Cuộc tranh chấp trong giáo hội Phật giáo khá gay gắt, mặc dù thượng tọa Tâm Châu và Trí Quang ra thông bạch “không hề có sự rạn nứt trong Phật giáo”. Vai trò của các bậc chân tu như Thích Thiện Hoa, Thích Thiện Hòa, Thích Trí Tịnh, Thích Thiện Luật, Thích Đôn Hậu, Thích Đức Nhuận v.v... tất cả đều giữ vị trí cao quanh Tăng thống Thích Tịnh Khiết – ngày mỗi nổi bật như đại biểu cho đạo pháp, cho đức từ bi, cho những gắn bó với dân tộc. Trong lúc các vị giữ nếp thanh bạch, không coi vụ lật đổ Diệm là dịp phô trương Phật giáo thì một bộ phận khác tập trung sức lực quảng cáo Phật giáo. Ngày Phật đản đầu tiên sau pháp nạn biến thành cuộc biểu dương hình thức: một tượng Phật cao 8 thước, nặng 3 tấn đặt ngay trên đài cao ở bến Bạch Đằng và 42 xe hoa diễn hành qua các phố. Nhiều tượng Phật từ chốn khiêm tốn âm thầm đột nhiên hiện ra ở những nơi dễ nhìn thấy nhất, từ Sài Gòn đến Vũng Tàu. Chùa chiền được sửa chữa, trang bị hiện đại. Nhà sư trẻ mặt đạo phục ủi phẳng phiu, phóng mô tô thậm chí lái ô tô, gảy đàn và hát... Cuộc cạnh tranh với đạo Thiên Chúa ráo riết. Chiến thắng được mô hình hóa kiểu đó khá rộng. Viện Hóa đạo mà Thích Tâm Châu là viện trưởng được chính phủ cho phép quyên trong một năm số tiền 20 triệu đồng để lo “Phật sự”. Được biết giá vàng 6.500 đồng một lạng – số tiền quá lớn... Và, các bậc chân tu thở dài, lo lắng. Bởi chưa thể gọi là chiến thắng. Vận nước đang ở vào thời điểm thử thách ác liệt... Một số nhà sư, cư sĩ, một số hội đoàn Phật tử linh cảm với điều không hay này. Đã nảy ra luồn dư luận phản đối kiểu “hiện đại hóa Phật giáo” tầm thường.

Các cố vấn quân sự Mỹ bận tâm hướng khác. Quân đội Nam Việt, theo quyết định của họ, thống nhất thành ba loại: chủ lực quân, địa phương quân và nghĩa quân. Năm đại tá thành chuẩn tướng: Nguyễn Chánh Thi, Phạm Văn Đổng, Bùi Hữu Nghĩa, Cao Hảo Hớn và Ngô Dzu.

Ngày 29-5, Hội đồng quân đội họp ở Đà Lạt để xử bốn tướng – cãi vã, chửi bới loạn ẩu. Cuối cùng Nguyễn Khánh ký một văn bản: bốn tướng bị phạt theo quân kỷ, loại khỏi hội đồng một thời gian và không được nắm cương vị chỉ huy. Cái màn “chỉnh lý” hạ khá tức cười và “tội trạng” của Trần Văn Đôn, Mai Hữu Xuân, Lê Văn Kim, Tôn Thất Đính không xuất hiện trong quyết định kỷ luật.

Ngày 31-5, hội nghị quân sự ở Honolulu đánh giá toàn diện tình hình Nam Việt với những tin tức mập mờ về khả năng thêm quân Mỹ ở Nam Việt và ném bom Bắc Việt.

Trong lúc đó, nước Lào láng giềng trải qua cơn khủng hoảng mới. Tướng Abhay cùng tướng Siho đảo chính, mưu toan lật đổ chính phủ liên hiệp của ông hoàng Phouma, song vấp phải phản ứng mạnh của các lực lượng ủng hộ chính sách trung lập và của các cơ quan đại diện nước ngoài đóng ở Vientiane. Abhay lại phải tuyên bố trung thành với ông hoàng Phouma. Sự kiện nói trên nối tiếp sự kiện máy bay Mỹ và Nam Việt ném bom biên giới Lào Việt và bổ sung, trắng trợn hơn, bàng trận ném bom Khang Khay, thủ đô của Pathét Lào, do chính không quân Mỹ thực hiện. Ý đồ Mỹ phá thế ổn định ở Lào, theo chủ trương trung lập của Phouma, ngày mỗi công khai. Tất nhiên Pathét Lào không khoanh tay: Paksane bị quân Pathét Lào uy hiếp, cánh đồng Chum thất thủ, Xiêng Khoảng thất thủ... Địa bàn của Pathét Lào mở rộng, thủ tướng Phouma lên án phái hữu, lên án Mỹ và kêu gọi ba phái Lào gặp mặt để hòa giải...

Mỹ đồng thời cũng đẩy quân đội Sài Gòn gây rối dọc biên giới Cambốt, một số cuộc đụng độ được ghi nhận và nhiệm vụ của tướng Huỳnh Văn Cao coi như thất bại. Dưới sức ép của Mỹ, Hội đồng bảo an Liên hiệp quốc cử một phái đoàn điều tra về các va chạm Việt – Cambốt. Nhưng ông hoàng Sihanouk từ chối; ông tuyên bố: Không cần một phái đoàn nào mới mà chỉ cần Ủy ban quốc tế giám sát và kiểm soát đình chiến Đông Dương quy định trong hiệp nghị Genève 1954 hoạt động là đủ.

Ngày 7-6, 29 họ đạo Thiên Chúa giáo Hố Nai cùng các họ đạo xóm Mới, Bắc Hà, Bình An... giương biểu ngữ, tràn ngập đường phố số lượng ước hai vạn. Đây là cuộc biểu dương quy mô lớn đầu tiên của giáo dân sau khi chế độ Ngô Đình Diệm bị lật đổ. Điểm tụ hội là công trường Lam Sơn. Trong hàng mấy trăm khẩu hiệu, đáng chú ý khẩu hiệu: Lột mặt nạ bọn lợi dụng cách mạng đàn áp Công giáo.

Ngày 15-6, vài vạn giáo dân biểu tình ở Huế với khẩu hiệu na ná như Sài Gòn.

°

TỔNG THỐNG JOHNSON VÀ ĐƠN THUỐC CHO CON BỆNH VIỆT NAM

(Financial Affairs – Helen Fanfani).

Sài Gòn, đầu tháng 7.

Nhà Trắng có vẻ từ do dự đã nghiêng về một thử nghiệm khác cho sự tìm chiến thắng ở Nam Việt. Những hoạt động ngoại vi Nam Việt cho thấy Tổng thống Johnson xếp chung hàng, nếu không đường hoàng thì cũng rón rén với thế lực được dư luận Mỹ gọi là “diều hâu” nhân danh cho tất cả, kể luôn Chúa. Một lần nữa, Bộ ngoại giao, được phố Wall yểm trợ, đã đánh bại chiến lược của Ngũ Giác Đài - không chờ đợi quân lực Việt Nam Cộng hòa trưởng thành mà chính người Mỹ gánh vác mọi diễn tiến ở Nam Việt, dù cái giá như thế nào. Bom Mỹ rơi trên đất Lào; bom Mỹ sẽ rơi trên đất Cambốt, cả hai quốc gia đều theo thuyết trung lập. Tính logic dẫn người ta đến một viễn cảnh gần gũi hơn: Bom Mỹ không từ chối rơi trên lãnh thổ Bắc Việt. Tình hình phơi bày hàng ngày ở Nam Việt củng cố tính toán của Tổng thống Mỹ: khó lòng hy vọng ở sức mạng chống Cộng của các phe cánh chính trị, còn lâu mới gọi được là đảng nếu thiếu dollar Mỹ làm chất keo dính số chính khách mà quá khứ từng người đã lau chùi mấy cũng chẳng bốc lên mùi hấp dẫn, dân chúng Nam Việt đã chán chê và nghi kỵ: khó lòng hy vọng ở các tướng và đội quân do Mỹ trang bị từ đầu đến chân, bận tâm giành chỗ ngồi và ngân khoản hơn đánh giặc...

Chưa bao giờ Sài Gòn đậm đặc những mây thuẫn đan chéo như hiện nay. Môt mặt người ta phải tỏ ra “cách mạng triệt để” với sắc luật lấy ngày 1-11 làm ngày Quốc khánh và với một loạt bản án lạc lõng và quái dị: bắn Ngô Đình Cẩn và một trùm mật vụ khác ở Huế, xử tù Dương Văn Hiếu không tên tuổi, đồng thời hạ án Đặng Sỹ, nổi tiếng hơn, xử chiếu lệ Tổng cục trưởng tình báo Nguyễn Văn Y... Giới ngoại giao và báo chí cười mỉa: Lẽ ra phải xử chính tướng Nguyễn Khánh, nếu không phải đại sứ Cabot Lodge và cao hơn nữa, các Tổng thống Mỹ từ năm 1954 đến nay!

Phật giáo được thỏa mãn: đoàn Tuyên úy chính thức thành lập trong quân đội. Nhưng người ta hỏi: mấy người theo đạo Phật thật sự vui mừng về việc một số tu sĩ thuộc tôn giáo đeo quân hàm và dấn sâu vào việc sát sinh mà đạo Phật cấm kỵ? Công giáo bực tức, nổ liền mấy cuộc biểu tình và chính phủ của tướng Khánh ve vãn.

Tướng Khánh giải tán Hội đồng Nhân sĩ và ra sắc luật lập Quốc hội lập hiến – trò chơi dân chủ như trò cút bắt của trẻ con. Sài Gòn đã có 7 đảng chính trị hoạt động, 15 đảng được cấp giấy phép và còn 16 đơn xin phép, tổng cộng 38. Số đảng mọc như nấm này ngang với số báo hàng ngày và tất nhiên người ta phải đăng trên mục rao vặt: Đảng X cần bao nhiêu đảng viên, ai đăng ký sẽ được một ổ bánh mù kẹp thịt nguội!

Chiến trường không chơi trò cút bắt. Việt Cộng tấn công mạnh, xe lửa quân sự bị giật mìn, huyện lỵ bị pháp kích, hàng không mẫu hạm Mỹ bị đánh thủng, quân đội Nam Việt bị phục kích liên miên, ấp chiến lược rã hàng mãnh, những trận đụng độ quy mô lớn, phi cơ Nam Việt xuất kích ồ ạt, an ninh suy sụp.

Khi tôi viết bài báo này, một tiền đồn quan trọng trên cao nguyên Trung phần lọt vào tay Việt Cộng, với thương vong công bố chính thức của Sài Gòn – bao giờ nhà báo chúng tôi cũng tính xác xuất theo cách riêng của mình: giảm một nửa thương vong của Việt Cộng và nhân gấp đôi thương vong của Việt Nam Cộng hòa – 45 chết, 27 bị thương, có 2 Mỹ; vài ngày sau, một tiền đồn khác ở Thừa Thiên bị hạ, thương vong của Việt Nam Cộng hòa lên đến 58 chết, trong đó có một Mỹ và một Úc... Ngay tại Sài Gòn, như các báo đưa tin, bộ trưởng Mac Namara bị mưu sát. Một trong hai thanh niên bị bắt đã hiên ngang nhận sứ mệnh trừng phạt kẻ gây chết chóc cho dân tộc Việt Nam.

Và, sự thể còn đáng lo ngại hơn nhiều: một cuộc xung đột đẫm máu không diễn ra ở chiến trường mà tại thủ đô và giữa những người có lẽ không hề có mối quan hệ với Việt Cộng. Toán giáo dân Thiên Chúa từ nơi nào đó ụp đến một trường dạy nghề cách chợ Bến Thành vài trăm mét, hành hung. Trường này không phải thuộc Phật giáo. Số tấn công đập cổ chai bia làm khí và rất không may cho họ, họ phải chọi với hàng nghìn học sinh có đủ dụng cụ đề kháng trong tay: búa, kềm, mỏ lết, thanh sắt... Cảnh sát can thiệp trễ tràng, máu nhuộm cả một đoạn đường. Lý do của cuộc tấn công vẫn chưa sáng tỏ. Hình như học sinh của trường dạy nghề này – trường rất cổ - là nòng cốt của bộ phận chống lại tướng Khánh trong tổ chức sinh viên và học sinh. Thế thì, không hẳn giáo dân cuồng tín này chủ mưu trả thù cho ông Diệm. Ai giật dây, đúng tính chất hơn, ai chi tiền cho họ? Thật là câu hỏi hóc hiểm, trừ đại sứ quân Mỹ, không đâu có câu trả lời thỏa đáng.

James Killens được chính phủ Mỹ bổ làm giám đốc viện trợ Mỹ ở Nam Việt. Máy tính điện tử mà ông sẽ sử dụng đòi nhiều hàng đơn vị, chắc chắn con số lên mức tỷ dollar. Mỹ tình nguyện đưa cả hai chân xuống bãi lầy. Đơn thuốc của Tổng thống Johnson đồng nghĩa: cả con bệnh lẫn thầy thuốc cùng chịu chung một hậu quả.

Viết thêm: Tôi chưa gửi bài báo thì được tin tướng Taylor đến Sài Gòn – lần này với tư cách đại sứ. Một đại sứ là tướng, ngôi sao sáng nhất của giới quân sự Mỹ và một tư lệnh nuôi nấng mơ ước thành Mac Arthur – bản giao hưởng từ nay không thể đổ cho sự thiếu hài hòa giữa các nhạc công chủ yếu.

Cũng lần đầu tiên, Tổng thư ký Liên Hợp Quốc, ông U Thant, công khai lên tiếng về vấn đề Việt Nam: ông đề nghị triệu tập lại hội nghị Genève.

Tất nhiên, ai cũng biết nội ngày mai, chính phủ Mỹ, Anh và Việt Nam Cộng hòa sẽ phản đối ông U Thant. Với Tổng thống Johnson, phải cho cả Đông Nam Á thấy thế nào là cơn thịnh nộ của Mỹ...

(H.F 9-7-64)

°

Bức thư theo đường bưu điện đặt cho Luân và Dung một bài toán từ khi nhận nhiệm vụ họ chưa phải giải đáp bao giờ. Một thế lực nào đó – một “siêu thế lực” – khống chế vợ chồng Luân, nói trắng ra, buộc vợ chồng Luân trở thành nhân viên tình báo chuyên nghiệp, ở đây, hẳn là của Mỹ.

Luân ngồi thừ rất lâu. Dung cũng vậy. Cả hai rất yêu con. Nhưng, sinh mệnh con và sinh mệnh chính trị cùng lúc đăt lên đòn cân.

Dung không khóc. Cô cố dằn và một lúc, chính cô thấy rằng khóc là vô lý, chẳng những rối tâm trí Luân mà trước hết không cho phép cô đủ sáng suốt phân tích sự việc.

- Con chúng ta ít có khả năng bị hại... - Dung nêu suy nghĩ của mình.

- Đúng! – Luân đồng tình.

- Vấn đề là chúng ta phải đóng vai trò như thế nào... Vai trò đó gần với trách nhiệm của chúng ta – Dung nói thêm.

- Em có lý...

Luân gọi điện. Saroyan cầm máy và sau đó, trao cho Jones Stepp.

- Tôi vừa nhận được thư nặc danh liên quan đến con tôi...

-Thế à? – Giọng Jones Stepp ngạc nhiên rất thành thực, hình như ông ta cho máy thông báo với Saroyan.

- Tôi muốn tướng quân cho xin số điện thoại của ông John Hing.

- Đại tá nghi ngờ John Hing?

- Không phải nghi ngờ mà quả quyết...

- Nội dung bức thư nói gì?

- Bảo nhà tôi chấp nhận cung cấp tin của Việt Cộng.

- Sao lại thế... Thôi được, số máy của ông ta đây...

- Cám ơn tướng quân...

Dung ngăn Luân:

- Anh khoan gọi cho John Hing.

Cô tìm trong danh bạ điện thoại đặc biệt.

- Anh để máy cho em.

Dung gọi, nói tiếng Anh.

- Hello! Tôi xin được nói chuyện với ngài William Porter... Vâng, tôi ở Tổng nha cảnh sát quốc gia... Xin chào ngài. Tôi là Hoàng Thị Thùy Dung, giám đốc Nha công vụ Tổng nha... Cám ơn ngài. Tôi đã có tin báo về cháu. Tôi nghĩ là một trò kém thông minh. Không... Vợ chồng tôi không bao giờ cho rằng ngài liên can đến vụ này. Tôi chỉ báo để, nếu có ai đó trao đổi với ngài về con chúng tôi và cả chúng tôi nữa thì ngài không ngạc nhiên... Vâng, tôi sẽ nói rõ với ngài sau. Cám ơn ngài...

Dung cắt máy và trao cho Luân. Luân cầm luôn tay vợ, hôn lên:

- Em tôi thông minh lắm!

Luân quay máy, giọng John Hing đầu máy kia. Y cũng nói tiếng Anh.

- Williams đấy hả?

- Không, một người khác... - Luân nói tiếng Anh.

- Tại sao ông biết số điện thoại của tôi?

- Chính ngài Porter cung cấp!

- Ồ! Lạ thật... Ông là ai?

- Tôi đi vào vấn đề: ông nên chấm dứt trò chơi ngu xuẩn bằng cách dùng con để uy hiếp cha mẹ...

- Thế ông là...

Luân không trả lời, nói luôn:

- Ông dùng Ly Kai với phương pháp quen thuộc của hắn... Tôi, vợ tôi sẵn sàng cùng ông bàn nghiêm chỉnh, nhưng không phải theo lối đặt sệt Chicago ấy. Hãy tỏ ra là người lớn và bàn việc người lớn.

Đầu dây kia im lặng một lúc nhưng nghe có tiếng máy quay. Luân đoán John Hing gọi William Porter.

- OK! – John Hing trở lại nói chuyện với Luân - Tôi sẽ gặp ông và bà... Đúng, nên cư xử như người lớn. Dù sao, con của ông bà vẫn bình yên, nếu tôi không lầm, không sụt cân. Còn Ly Kai, ông đã biết, tùy ông xử lý, tôi không can thiệp. Con của ông bà sẽ về nhà, trễ nhất là nửa giờ nữa. Còn người của tôi ở bưu điện...

- Ông yên tâm. Đó là người của ông. Chúng ta không chơi theo luật rừng...

- Bravo... Gần như tôi không cần gặp ông và bà, chúng ta hiểu nhau hơn mức tôi mong... Nói thế, tôi sẽ gặp. Xin lỗi ông. Và có lẽ cũng không cần phải nói quá kỹ về sự việc với Williams Porter hoặc Jones Stepp.

- Đồng ý...

- Xin ông bà đốt cho tờ giấy kém thông minh ấy...

---

(1) Ý nói sự tranh chấp giữa Mac Arthur và Eisenhower – Tổng thống Mỹ bấy giờ - chung quanh việc quân Mỹ vượt sông Áp Lục và ném bom lãnh thổ Trung Quốc, đã khiến Mac Arthur bị cách chức vì Eisenhower chủ trương khoanh chiến sự trên đất Triều Tiên.