Ung thư – Sự thật, hư cấu, gian lận và những phương pháp chữa lành không độc hại (Cancer – Step Outside The Box)

Chương 3: KHỦNG BỐ & ĐÀN ÁP

“Những liệu pháp điều trị ung thư tự nhiên luôn bị đàn áp còn những nhà trị liệu có tiếng tăm thì bị khủng bố. Vấn nạn này diễn ra nhiều nhất chính tại nước Mỹ.”

– Walter Last

Thưa các bạn, đó là sự thật

Sự đàn áp và bức hại đối với y học tự nhiên đã và đang tồn tại trong gần một thế kỷ qua là một thực tế. Ai nghi ngờ điều này hoặc là không để tâm hoặc là cố tình nói dối. Lịch sử không thiếu những ví dụ về các nhà tư tưởng độc đáo bị khinh miệt, chế giễu, hủy hoại và bị bỏ tù vì dám nghĩ khác với lối mòn cũng như cả gan đe dọa nguyên trạng và quyền lực của mafia y tế.

Daniel Haley đã viết một cuốn sách tuyệt vời có tựa đề Politics in Healing: The Suppression and Manipulation of American Medicine (Chính trị trong chữa bệnh: Sự đàn áp và thao túng của Y tế Mỹ), trong đó ông chứng minh rằng các cơ quan chính phủ bao gồm FDA, NCI và FTC đã đàn áp một cách có hệ thống các liệu pháp điều trị ung thư hiệu quả và sự đàn áp đó vẫn còn tiếp diễn cho đến ngày nay. Cựu dân biểu tiểu bang New York, người đã dành cả cuộc đời nghiên cứu sức khỏe và chữa bệnh ở Mỹ, ngài Haley, là người đàn ông duy nhất có thể kể câu chuyện về thói tham lam tai hại và ảnh hưởng chính trị đã tác động đến các liệu pháp chăm sóc sức khỏe thay thế. Mười hai trường hợp dẫn chứng đã được ghi chép lại mà ngài Haley mô tả không phải là cá biệt. Tuy nhiên, điều khiến những tài liệu ấy trở nên đặc biệt là bởi đó là những hồ sơ công khai về hiệu quả chữa trị ung thư cũng như sự đàn áp nhằm gây khó khăn cho bệnh nhân ung thư tìm kiếm và sử dụng những liệu pháp này.

Hơn một thế kỷ qua, hàng trăm bác sĩ sử dụng liệu pháp thay thế và các nhà nghiên cứu thảo dược có lương tâm đã bị đối xử như những tên tội phạm vì “tội” điều trị cho những bệnh nhân vô phương cứu chữa bằng những liệu pháp không được các cơ quan chính phủ chấp thuận, những kẻ nhào xuống các phòng khám với súng máy và áo giáp. Trong khi đó, cũng chính những cơ quan này lại làm bộ làm tịch trước ống kính truyền hình và công chúng, vờ vĩnh là đầy tớ của nhân dân và bảo vệ lợi ích chung.

Theo bác sĩ Robert Atkins, “Có rất nhiều liệu pháp điều trị ung thư, và tất cả đều đang bị đàn áp nhẫn tâm và có hệ thống dưới tay các tổ chức về ung thư. Các tổ chức này bao gồm Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ (ACS), Viện Ung thư Quốc gia (NCI), FDA và các bệnh viện ung thư hàng đầu. Sự thật là các tổ chức uy tín này đều bị chi phối bởi thành viên và vây cánh thuộc ngành công nghiệp dược phẩm, ngành hưởng lợi rất nhiều từ liệu pháp hoá trị.”

Tôi khuyên bạn nên đọc cuốn sách của nhà sử học y tế nổi tiếng Hans Ruesch, cuốn Naked Empress or the Great Medical Fraud (Nữ hoàng trần trụi hay Sự man trá không tưởng trong y tế). Trong cuốn sách này, Ruesch phơi bày rằng tham nhũng và gian lận tràn lan trong y học, truyền thông, khoa học, chính phủ và công nghiệp. Ruesch trích dẫn bác sĩ J.W. Hodge ở trang 75, “Độc quyền y tế hay hợp doanh y tế, nói hoa mỹ là Hiệp hội Y khoa Hoa Kỳ (AMA), không chỉ là tổ chức độc quyền xấu xa nhất, mà còn là tổ chức kiêu ngạo và nguy hiểm nhất. Mọi liệu pháp chữa bệnh an toàn, đơn giản và tự nhiên chắc chắn sẽ bị các nhà lãnh đạo kiêu ngạo của hiệp hội bác sĩ AMA công kích và lên án là giả mạo, gian lận, lừa bịp.”

Ông tiếp tục: “Những người hành nghề y mà không hòa mình với hợp doanh y tế sẽ bị lăng mạ là lang băm nguy hiểm. Những chuyên gia vệ sinh phòng bệnh cố gắng khôi phục sức khỏe cho bệnh nhân bằng các liệu pháp tự nhiên không cần đến dao mổ hay thuốc độc, truyền huyết thanh, độc tố mạnh hay vắc-xin, sẽ ngay lập tức bị các bạo chúa y tế và những kẻ cuồng tín vồ chộp, bị lên án cay nghiệt, bị phỉ báng và bức hại hết mức có thể.” Những nhà y tế hoạt động tự do, với những ý tưởng điều trị ung thư sáng tạo, bị vu khống, gán cho là “lang băm” hoặc “lang vườn” và bị ngược đãi, trong khi phác đồ điều trị của họ bị hạ thấp và cấm đoán.

Nhưng tại sao? Big Medicine nói rằng họ đang bảo vệ chúng ta khỏi liệu pháp điều trị ung thư thay thế vì chúng chưa được chứng minh khoa học là có hiệu quả và có thể trì hoãn liệu pháp điều trị ung thư chính thống hiệu quả hơn. “Điều trị ung thư chính thống hiệu quả hơn?” Đúng là trò đùa! Đó là cách họ nói về tỷ lệ 3% được chữa khỏi bằng hóa trị sao? Lập luận này thật nực cười nếu như không phải nó quá đau lòng đối với hàng triệu nạn nhân ung thư. Họ không hề bảo vệ chúng ta; họ đang bảo vệ con bò sữa của mình! Và chính xác thì “chứng minh khoa học là có hiệu quả” của FDA là gì? Snickers, Twinkies, Cupcakes, Coca Cola, và hàng ngàn sản phẩm đồ ăn nhanh khác được FDA “chấp thuận”, nhưng nếu bạn đưa ra liệu pháp điều trị ung thư thay thế, rất có khả năng kết cục của bạn là ở trong tù. Liệu tôi có đang thổi phồng chuyện này lên không? Xin hãy đọc tiếp…

Harry Hoxsey

Harry Hoxsey sinh năm 1901. Khoảng năm 1840, ông của Harry là John Hoxsey, một người chăn ngựa, có một con ngựa giống bị ung thư. Khi con ngựa được thả ra bãi cỏ, John nhận thấy con ngựa ăn chủ yếu một loại cây bụi đặc biệt. Vài tháng sau, con ngựa khỏi bệnh ung thư. Sau đó, John đã phát triển một loại thuốc bổ thảo dược có nguồn gốc từ những “cành cây kỳ diệu” này và bắt đầu điều trị cho những con ngựa mắc bệnh khác. John truyền lại công thức cho con trai, cha của Harry, người âm thầm sử dụng loại thuốc bổ này để giúp những người bị ung thư. Khi Harry mới 10 tuổi, ông đã bắt đầu giúp cha phân phát thuốc bổ này cho các nạn nhân ung thư giai đoạn cuối. Họ đã thành công lớn, và cuối cùng, khi người cha qua đời, Harry chịu trách nhiệm tiếp tục truyền thống chữa bệnh của nhà Hoxsey.

Năm 1924, khi mới 23 tuổi, Harry đã mở Bệnh viện ung thư Hoxsey ở Dallas. Trong hơn 30 năm, ông đã điều trị (và chữa khỏi) cho nhiều bệnh nhân ung thư bằng cách sử dụng thuốc bổ Hoxsey. Đến năm 1950, Bệnh viện ung thư Hoxsey ở Dallas đã trở thành trung tâm ung thư tư nhân lớn nhất thế giới, có chi nhánh ở 17 tiểu bang. Vào thời điểm đó, người đứng đầu AMA là Morris Fishbein, cũng là biên tập viên của Journal of the American Medical Association (JAMA ‒ Tạp chí của Hiệp hội Y khoa Hoa Kỳ). Fishbein đã cố gắng mua bản quyền thuốc bổ từ Hoxsey, nhưng khi bị từ chối, Fishbein tìm cách trả thù ông, sử dụng JAMA làm công cụ chính để hạ uy tín của ông.

Trong suốt nhiều năm, Fishbein đã công bố nhiều bài báo trên JAMA và tuyên bố rằng thuốc bổ Hoxsey chỉ là một “chai nước dầu vô giá trị” làm bằng “cỏ dại sau vườn”. Và do thực tế ông đã cho bệnh nhân ung thư sử dụng những cỏ dại này, Hoxsey, người không phải là bác sĩ, đã bị bắt giữ hơn 200 lần chỉ vì hành nghề thuốc không có giấy phép! Có lẽ kẻ thù lớn nhất của ông là công tố viên

Al Templeton, người đã bắt ông hơn 100 lần. Anh trai của Al là Mike bị ung thư giai đoạn cuối và đã điều trị bằng phương pháp chính thống. Sau khi các bác sĩ trả ông về nhà chờ chết, Mike đã đến Bệnh viện ung thư Hoxsey và cuối cùng đã được chữa khỏi. Khi Al biết anh trai mình đã phục hồi diệu kỳ từ ung thư giai đoạn cuối, ông đã từ bỏ công việc của mình và trở thành luật sư biện hộ cho Hoxsey.

Không may, đây là thời kỳ mà liệu pháp điều trị ung thư chính thống Big 3 với lợi nhuận khổng lồ trong toàn bộ ngành Công nghiệp ung thư đã có vị trí vững chắc. Thuốc bổ Hoxsey rẻ tiền đã đặt lợi nhuận của Big 3 trước một mối đe dọa và họ nhận ra ngay điều đó, thế nên chẳng khó gì để đoán chuyện gì sẽ xảy ra tiếp theo: một chiến dịch bôi nhọ quy mô lớn. Qua mạng lưới lật đổ của những người chung quyền lợi và qua hàng loạt những bài báo vu khống, Công nghiệp ung thư đã gán cho Hoxsey là “lang băm ung thư tồi tệ nhất thế kỷ”.

Tuy nhiên, nếu Hoxsey là một lang băm, chắc ông ấy không phải là lang băm giỏi, bởi các lang băm làm việc vì tiền, còn Bệnh viện ung thư Hoxsey điều trị cho toàn bộ bệnh nhân đến chữa, cho dù họ không có khả năng thanh toán. Thế nhưng mafia y tế vẫn không ngừng vu oan giá họa. Người của FDA sẵn sàng tràn vào nhà các bệnh nhân của ông, dọa dẫm họ, nói với họ rằng họ bị lừa gạt bởi một lang băm và lấy đi thuốc của họ.

Tuy nhiên, vào năm 1954, một nhóm độc lập gồm mười bác sĩ từ khắp nước Mỹ đã tiến hành thanh tra hai ngày tại Bệnh viện ung thư Hoxsey ở Dallas, xem xét các bệnh sử và nói chuyện với bệnh nhân. Sau đó họ đưa ra một tuyên bố ấn tượng. Đó là bệnh viện đã “điều trị thành công những trường hợp bệnh lý được chứng minh là ung thư, cả trong và ngoài, không dùng phẫu thuật, xạ trị hoặc tia X”. Tất nhiên là những kết quả điều tra này đã bị Công nghiệp ung thư phớt lờ. Năm 1953, báo cáo Fitzgarld do ủy ban Thượng viện Mỹ tiến hành kết luận rằng ngành Y đã có “âm mưu đàn áp” liệu pháp Hoxsey.

Vì một bài viết vu khống của Fishbein, Hoxsey đã kiện ông ta về tội phỉ báng và thắng kiện. Nhưng chừng đó là quá ít ỏi và muộn màng. Tên tuổi của Hoxsey cùng thuốc bổ của ông đã bị coi như rác rưởi và không bao giờ vãn hồi lại được. Tất cả các phòng khám, bệnh viện của Hoxsey rốt cuộc cũng bị đóng cửa. Bệnh viện ở Dallas đóng cửa năm 1960 và ba năm sau, để tránh áp lực, nữ điều dưỡng viên Mildred Nelson (một y tá trưởng lâu năm, có mẹ được chữa khỏi ung thư giai đoạn cuối nhờ thuốc bổ Hoxsey) đã chuyển hoạt động sang Tijuana, Mexico. Harry Hoxsey mất năm 1974, nhưng Trung tâm Y sinh vẫn tiếp tục điều trị tất cả các loại ung thư. Trước khi mất, Nelson chỉ định em gái bà là Liz Jonas lên làm quản lý của Trung tâm Y sinh.

Như đã đề cập trong cuốn sách, chúng tôi lên kế hoạch đưa cha tôi đến bệnh viện này, nhưng đáng tiếc là ông không bao giờ hồi phục sau ca phẫu thuật. Những hồ sơ y tế của họ cho thấy nhiều bệnh nhân (một số nhập viện khi bị ung thư cấp) đã được giúp đỡ và thậm chí được chữa khỏi hoàn toàn bằng thuốc bổ Hoxsey. Cá nhân tôi biết một số người đã được chữa khỏi bằng phương pháp này, họ là những ví dụ về một liệu pháp điều trị ung thư thay thế thành công đã bị Công nghiệp ung thư phủ nhận và coi như là “lang băm”.

Royal Raymond Rife

Royal Raymond Rife là một nhà khoa học xuất sắc sinh năm 1888. Rife đã phát triển công nghệ vẫn còn sử dụng phổ biến hiện nay trong lĩnh vực quang học, điện tử, hóa phóng xạ và hóa sinh. Trong những năm 1920, Rife phát minh ra kính hiển vi vi rút đầu tiên trên thế giới. Vào ngày 3 tháng 11 năm 1929, tờ San Diego Union đã đưa trên trang nhất bài viết về kính hiển vi của ông, sau đó là một loạt các bài viết khác. Năm 1931, ông công bố kết quả nghiên cứu đến giới bác sĩ và các trường đại học Y. Hầu hết các bác sĩ và các nhà nghiên cứu danh tiếng đều hăng hái ủng hộ công trình của ông. Trong số đó có bác sĩ Milbank Johnson, chủ tịch chi nhánh Nam California của AMA và thành viên ban giám đốc Bệnh viện Pasadena.

Vào năm 1933, Rife hoàn thiện công nghệ và chế tạo ra kính hiển vi tổng hợp Rife có khả năng phóng đại 60.000 lần kích thước bình thường của đối tượng. Không như kính hiển vi điện tử chỉ có thể quan sát mẫu vật chết do sử dụng các chất nhuộm màu hóa học kịch độc, kính hiển vi của Rife cho phép ông quan sát sinh vật sống động thông qua một quy trình được ông gọi là “nhuộm bằng ánh sáng”.

Giống như rất nhiều khám phá quan trọng khác trong khoa học, những nguyên lý phía sau siêu hiển vi Rife tuy đơn giản nhưng vô cùng tài tình. Ví dụ, kính hiển vi không bao giờ cản trở chùm ánh sáng, và theo Rife, nhiễu xạ ánh sáng là nguyên nhân khiến kính hiển vi nghiên cứu tiêu chuẩn có độ phân giải thấp hơn. Thông qua kính hiển vi tiên tiến của mình, Rife có thể cho thấy “tính đa hình”, nghĩa là phát triển một sinh vật trong mẻ cấy khác có thể sinh ra một sinh vật hoàn toàn khác.

Rife có thể quan sát các vi sinh vật trong cơ thể người, những sinh vật mà ông cảm thấy có thể gây ung thư. Ông quan sát phản ứng của các vi khuẩn khác nhau khi tấn công chúng bằng vô số các cách kết hợp của tần số vô tuyến và âm thanh. Ông đã sớm phát hiện ra rằng tần số nhất định mà ông gọi là “tần số dao động chết người”, sẽ tiêu diệt các vi khuẩn đa hình đang hoạt động trong ung thư.

Vào đầu năm 1934, bác sĩ Milbank Johnson, người đã trở thành bạn bè và ủng hộ Rife, sắp xếp thử nghiệm lâm sàng chính thức thiết bị Rife Beam Ray (chùm tia Rife). Đội ngũ y tế gồm một danh các bác sĩ và các nhà bệnh lý học danh tiếng. Mười sáu bệnh nhân ung thư “giai đoạn cuối” từ Bệnh viện hạt Pasadena tình nguyện điều trị bằng máy Rife, thiết bị có thể tiêu diệt các vi khuẩn đa hình bên trong các tế bào ung thư. Sau ba tháng, toàn bộ mười sáu bệnh nhân đều còn sống. Các bác sĩ rất ngạc nhiên khi mười bốn bệnh nhân không còn dấu hiệu ung thư và được thông báo “khỏi” lâm sàng. Một tháng sau, hai bệnh nhân còn lại cũng được thông báo “thoát khỏi ung thư”. “Tỷ lệ chữa khỏi” của Rife với mười sáu bệnh nhân giai đoạn cuối này là 100%. Đây là một bước đột phá quan trọng!

Và Mafia y tế xuất hiện. Người đứng đầu AMA thời kỳ đó là… bạn đoán đúng rồi đấy… gã xấu xa Morris Fishbein. Cũng giống như đã làm với Harry Hoxsey, Fishbein muốn tham gia bán các thiết bị này, vì vậy, ông ta đề xuất một thỏa thuận theo đó ông (và AMA) sẽ ban cho Rife ân huệ chính thức và sau đó yêu cầu bạn bè tại FDA nhanh chóng tiến hành thẩm duyệt thiết bị của Rife. Trong cuộc trao đổi, Fishbein mong muốn nhận được một phần lớn lợi nhuận từ việc bán hàng. Rife đã từ chối.

Tương tự như những gì đã làm với Harry Hoxsey, Fishbein và bè lũ tìm cách hủy hoại Rife. Phòng thí nghiệm của Rife bị phá hoại, ảnh chụp, phim và hồ sơ bị đánh cắp. Kính hiển vi của ông bị đánh cắp, phòng thí nghiệm của ông bị đốt trụi, và một số người ủng hộ ông chết trong hoàn cảnh đáng ngờ. Năm 1940, hai bác sĩ ủng hộ Rife bị các nhân viên liên bang khám xét và tịch thu toàn bộ thiết bị, ghi chép. Cả hai sau đó đều được phát hiện đã chết và được cho là tự tử bằng thuốc độc.

Tiến nhanh đến năm 1944…

Bác sĩ Milbank Johnson thu xếp một cuộc họp báo để công bố việc chữa khỏi ung thư bằng máy của Rife. Có tin đồn rằng các đại diện Big Pharma đã tiếp cận bác sĩ Johnson và đề xuất một khoản tiền để ỉm đi thông tin về công trình của Rife. Thật bí ẩn, đêm trước buổi họp báo, bác sĩ Johnson đột ngột qua đời và tất cả ghi chép của ông được người thi hành di chúc tuyên bố là “mất tích”. Mặc dù ban đầu vụ này được cho là do tai nạn, vài năm sau các nhà điều tra khai quật thi thể của Johnson và phát hiện ra thuốc độc.

Sau đó là cú đo ván – cảnh sát tịch thu một cách bất hợp pháp di sản 50 năm nghiên cứu của ông. Các tạp chí y tế vốn được các công ty dược phẩm tài trợ gần như toàn bộ và chịu kiểm soát của AMA, đã từ chối công bố bất cứ thông tin gì về phương pháp của Rife. Năm 1971, ở tuổi 83, Rife qua đời vì dùng quá liều valium và rượu. Để biết thêm thông tin về Royal Raymond Rife, bạn hãy đọc cuốn The Cancer Cure That Worked (Phương pháp chữa trị ung thư hiệu quả) của Barry Lynes.

Câu chuyện Ralph Moss trích dẫn từ

www.cancerdecisions.com

“Năm 1974, tôi bắt đầu làm việc tại Trung tâm Ung thư Tưởng nhớ Sloan-Kettering, bệnh viện điều trị ung thư hàng đầu thế giới. Tôi là người duy tâm và là một tay viết trẻ đầy nhiệt huyết về chuyên ngành khoa học, tự hào là một phần của Sloan Kettering và “Cuộc chiến ung thư” của Nixon. Ngay từ khi còn nhỏ, những người hùng của tôi là các nhà khoa học. Công việc tại Sloan-Kettering giống như một giấc mơ trở thành hiện thực.

Trong vòng ba năm, tôi đã thăng tiến đến vị trí Trợ lý Giám đốc công tác cộng đồng tại bệnh viện. Lúc đó tôi đã 34 tuổi, kết hôn với người yêu thời trung học, có một con gái và một con trai, 9 và 7 tuổi. Chúng tôi đã dự tính mua nhà và tiết kiệm cho việc học hành của lũ trẻ, vì vậy, bạn có thể hình dung chúng tôi vui mừng như thế nào khi tôi được thăng chức với mức lương cao. Khỏi phải nói, vợ chồng tôi đã thực sự kỳ vọng vào “tương lai tươi sáng” của tôi tại Sloan- Kettering. Nhưng không lâu sau đó, một chuyện đã xảy ra làm thay đổi cuộc sống của tôi mãi mãi.

Phần lớn công việc của tôi là viết thông cáo báo chí về tin tức ung thư và các bản tin nội bộ bệnh viện. Tôi cũng xử lý các cuộc gọi từ báo chí và công chúng về các vấn đề ung thư. Một hôm, tôi đang thực hiện công việc thường nhật khi phỏng vấn một nhà khoa học đáng kính tại bệnh viện cho một bài viết trên bản tin mà tôi đang xử lý. Thì ra nhà khoa học này, bác sĩ Kanematsu Sugiura, đã nhiều lần thu được kết quả tích cực về việc thu nhỏ khối u trong những nghiên cứu trên chuột với một chất tự nhiên gọi là amygdalin (có thể bạn đã nghe nói về nó với cái tên laetril”). Phấn khích (và ngây thơ!) tôi đã nói “phát hiện” của mình về công trình của Sugiura cho Giám đốc công tác cộng đồng và các cấp trên khác, rồi lên kế hoạch cho ra một bài viết. Sau đó, tôi nhận được cú sốc của cuộc đời.

Họ nhấn mạnh rằng tôi phải ngừng câu chuyện này ngay lập tức và không được nhắc lại một lần nào nữa. Tại sao? Họ nói rằng nghiên cứu của bác sĩ Sugiura không có căn cứ và hoàn toàn vô giá trị. Nhưng chính mắt tôi đã nhìn thấy kết quả đó! Và tôi biết bác sĩ Sugiura là một nhà khoa học thực thụ và một người có đạo đức. Sau đó, các sếp đã đưa ra một chỉ thị mà tôi sẽ không bao giờ quên: Họ bảo tôi nói dối. Thay vì câu chuyện mà tôi định viết, họ ra lệnh cho tôi viết một bài báo và thông cáo báo chí cho tất cả các cơ quan tin tức lớn nhấn mạnh rằng tất cả các nghiên cứu amygdalin đều không khả quan và chất đó không có giá trị điều trị ung thư. Tôi phản đối và cố gắng tranh luận với họ, nhưng họ không thèm nghe.

Tôi sẽ không bao giờ quên cảm giác của mình trên chuyến tàu điện ngầm về nhà ngày hôm đó. Đầu óc tôi quay cuồng với một mớ hỗn độn những cảm giác lẫn lộn dữ dội, sốc, thất vọng, lo sợ cho cuộc sống của riêng mình và tương lai của gia đình, và đằng sau tất cả, một nhu cầu mãnh liệt muốn biết tại sao lại có sự che đậy này. Sau cuộc nói chuyện dài với vợ và cha mẹ tôi (họ choáng váng, như bạn có thể hình dung ra), tôi quyết định hoãn viết bất kỳ văn bản thông cáo báo chí nào về amygdalin, cho đến khi tôi có thể kín đáo quan sát toàn bộ sự việc chi tiết hơn. Mọi người trong văn phòng trông vui vẻ vì trút được gánh nặng, và chúng tôi lại bận rộn với những dự án ít gây tranh cãi khác.

Vậy là sau đó vài tháng, tôi đã có thể thực hiện cuộc điều tra của riêng mình để giải đáp câu hỏi lớn mà tôi không thể bỏ qua: Tôi đang làm việc cho ai và tại sao họ muốn ỉm đi những kết quả tích cực trong nghiên cứu ung thư? Tài liệu của tôi dày lên bởi phát hiện được ngày càng nhiều sự thật thú vị – và đáng lo ngại. Trước đây tôi chưa bao giờ mảy may nghĩ đến chính trị ung thư. Giờ đây, khi chắp nối các mảnh ghép lại với nhau, tôi biết được rằng:

 

·         Những người trong Hội đồng quản trị Sloan-Kettering là những nhà đầu tư có tên tuổi trong ngành công nghiệp hóa dầu và các ngành công nghiệp ô nhiễm khác. Nói cách khác, bệnh viện nằm dưới sự điều hành của những người làm giàu bằng việc đầu tư vào những thứ gây ung thư tồi tệ nhất trên hành tinh.

·         CEO của các công ty dược phẩm hàng đầu sản xuất thuốc ung thư cũng chiếm số đông trong Hội đồng quản trị. Hiển nhiên họ có quyền lợi được đảm bảo bất di bất dịch trong việc thúc đẩy hóa trị và phá hoại ngầm những liệu pháp tự nhiên.

·         Chủ tịch Hội đồng quản trị và Tổng Giám đốc của Bristol-Myers Squibb – nhà sản xuất thuốc hóa trị hàng đầu thế giới, nắm giữ những chức vụ cao trong Hội đồng quản trị của Sloan- Kettering.

·         Trong số chín thành viên của Ủy ban thể chế chính sách đầy quyền lực của bệnh viện, bảy người có quan hệ với công nghiệp dược phẩm.

·         Chính bệnh viện cũng đầu tư vào cổ phiếu của những công ty thuốc này.

·         Giám đốc các công ty thuốc lá lớn nhất tại Mỹ, Phillip Morris và RJR Nabisco, nắm giữ vị trí danh dự trong Hội đồng quản trị.

·         Sáu thành viên Hội đồng quản trị cũng phục vụ trong Hội đồng quản trị của New York Times, CBS, Warner Communications, Readers Digest, và các hãng truyền thông khổng lồ khác.

Chẳng có gì ngạc nhiên, lợi nhuận từ thuốc hóa trị là không thể đong đếm và các phương tiện truyền thông sôi nổi quảng bá cho mỗi loại thuốc mới như một “bước đột phá” trong ung thư. Tôi lưu giữ tất cả các ghi chép trong tủ tài liệu tại nơi làm việc. Tôi không có khái niệm khi nào tôi sẽ làm gì với chúng. Tôi chỉ biết rằng tôi cần phải hiểu sâu về điều này, vì chính bản thân tôi.

Trong khi đó, mối quan tâm của công chúng với laetrile vẫn. không hề suy giảm. Rất nhiều người qua biên giới đến các bệnh viện ở Mexico để mua laetrile. Điện thoại thư ký của tôi reo liên tục bởi những người muốn biết ý kiến của Sloan-Kettering về giá trị của laetrile. Lại một lần nữa tôi được yêu cầu đưa ra các thông tin rằng kết quả của tất cả các nghiên cứu là không khả quan.

Về nhà, tôi triệu tập một cuộc họp gia đình. Với sự ủng hộ của mọi người, tôi quyết định rằng không thể nói dối thay cho bệnh viện. Vào tháng 11 năm 1977, trước một cuộc họp báo, tôi đã tố cáo việc che giấu kết quả nghiên cứu amygdalin của Trung tâm Ung thư Tưởng nhớ Sloan-Kettering. Có cảm giác như nhảy xuống từ ván nhún cao nhất ở bể bơi, nhưng tôi tin chắc rằng mình đã làm đúng. Tôi bị sa thải ngay hôm sau vì “không thực hiện trách nhiệm cơ bản nhất của mình” – dẫn theo câu trả lời của bệnh viện với New York Times, nói cách khác, không chịu nói dối nhân dân Mỹ.

Khi định thu dọn đồ đạc của mình trong văn phòng, tôi thấy tài liệu đã bị niêm phong và hai nhân viên bảo vệ bệnh viện có vũ trang hộ tống tôi ra khỏi tòa nhà.

May mắn thay cho tất cả chúng ta, tôi có một người vợ rất thông minh, suốt thời gian đó, cô ấy đã sao lại những ghi chép nghiên cứu của tôi và cất giữ một bộ tài liệu hoàn chỉnh ở một nơi an toàn. Những ghi chép đó đã trở thành cuốn sách đầu tiên của tôi – The Cancer Industry (Công nghiệp ung thư), cuốn sách vẫn được in ra (tái bản có bổ sung) và bày bán ở các cửa hàng sách. Cái ngày định mệnh ấy, khi đứng trước cuộc họp báo đông nghẹt người và nói ra sự thật, là khởi đầu của một cuộc hành trình mà tôi không bao giờ có thể dự đoán trước. Tôi dấn thân vào một nhiệm vụ mà tôi vẫn đang làm ngày hôm nay – giúp đỡ bệnh nhân ung thư tìm ra sự thật về các liệu pháp điều trị ung thư tốt nhất.

Vâng, suốt những năm sau đó, chúng tôi không thể mua được nhà, lũ trẻ đến trường bằng học bổng và các khoản vay, vợ tôi phải đi làm công việc toàn thời gian. Song ngẫm lại, trải nghiệm làm một người bên trong nội bộ “công nghiệp ung thư” lại nằm trong những điều tốt nhất từng xảy đến với tôi. Giá trị của tôi đã được thử thách và tôi phải xem xét điều gì là quan trọng trong cuộc sống của mình. Nhờ trải nghiệm khó khăn này ở Sloan-Kettering, tôi đã tìm thấy hướng đi có ý nghĩa thực sự cho sự nghiệp, chứ không phải chỉ leo lên nấc thang sự nghiệp ở Sloan-Kettering và đánh mất linh hồn trong quá trình đó.”

Khủng bố & đàn áp hơn nữa

Bác sĩ Jonathan Wright là một chuyên gia dinh dưỡng được đánh giá cao, nhưng tội lớn nhất của ông là khuyến khích liệu pháp điều trị tự nhiên không được FDA phê duyệt. Vào mùa hè năm 1992, tờ The Civil Abolitionist đăng bài viết có tiêu đề FDA: The American Gestapo Prosecutor or Persecutor? (FDA: Ủy viên công tố hay kẻ khủng bố?) kể lại một câu chuyện. Ngày 6 tháng 5 năm 1992, giống như một cuộc đàn áp quân sự, phòng khám của bác sĩ Wright đã bị hơn 20 người đàn ông vũ trang tấn công, họ đạp tung cửa, chĩa súng vào cả bệnh nhân và nhân viên, tịch thu hồ sơ công tác, hồ sơ bệnh nhân, vật tư, và thiết bị. Các mật vụ “Gestapo” FDA dành 14 tiếng tại phòng khám, khám xét tất cả mọi thứ. Vào thời điểm đó, ông thậm chí còn chưa bị kết tội!

Tại sao họ phải đạp cửa xông vào và rút súng? Bác sĩ Wright không phải là một tên tội phạm nguy hiểm. Sau khi tốt nghiệp Đại học Harvard và Trường Y của Đại học Michigan, ông là biên tập viên dinh dưỡng của tạp chí Prevention trong hơn một thập kỷ. Tuy nhiên, ông đã mắc lỗi không thể tha thứ – ông đã không kê đơn thuốc điều trị bệnh. Thay vào đó ông chọn sử dụng liệu pháp dinh dưỡng và vitamin. Một trong những liệu pháp điều trị yêu thích của ông là sử dụng L-Tryptophan để điều trị trầm cảm, nhưng FDA đã cấm loại axit amin này. Trùng hợp thay, nó bị cấm chỉ một vài tháng trước khi FDA đẩy mạnh Prozac cho điều trị trầm cảm.

Bạn tôi, Jason Vale, được bác sĩ giáng bản án tử hình vào giữa những năm 1990 khi bị phát hiện mắc ung thư giai đoạn cuối. Thông qua nghiên cứu sâu rộng, ông phát hiện ra rằng những người từng bị ung thư tìm thấy những đặc tính chữa trị trong thứ đơn giản như hạt táo và hạt mơ. Hóa ra, những hạt đó chứa chất tự nhiên có thể tiêu diệt tế bào ung thư (vitamin B17). Jason lập tức bắt đầu cảm thấy tốt hơn khi ăn hạt táo hằng ngày. Trong thời gian ngắn, bệnh ung thư của Jason đúng là đã biến mất. Khi Extra phát sóng câu chuyện của Jason trên truyền hình quốc gia, nó được xếp hạng cao nhất trong các chương trình cho đến thời điểm đó vì vậy họ đã chọn phát lại vào tuần sau. Phản hồi của khán giả rất tuyệt vời và Jason chìm ngập với hàng ngàn cuộc điện thoại từ người dân trên toàn quốc.

Kể từ đó, Jason đã truyền cảm hứng và giúp cho hàng ngàn người điều trị ung thư theo cách tự nhiên. Thông qua chế độ ăn uống thích hợp bao gồm hạt táo và hạt mơ, họ đã tạo nên câu chuyện thành công của riêng mình và may mắn thay họ vẫn còn sống để kể lại. Tháng 11 năm 2001, Jason đã bị FDA ép ký một “Sắc lệnh thỏa thuận” ngăn cản anh ta chia sẻ câu chuyện của mình. Mặc dù anh ấy không vi phạm bất cứ luật nào nhưng FDA vẫn cáo buộc hình sự chống lại việc Jason phân phối hạt mơ.

Jason bị tuyên án vào ngày 18 tháng 6 năm 2004, với 63 tháng tù giam và 3 năm quản thúc. Sau khi thụ án gần 4 năm trong tù, Jason đã được thả đầu năm 2008. Ơn Chúa!

Bác sĩ Max Gerson đã phát triển thành công một phác đồ điều trị cho bệnh nhân ung thư sử dụng một chế độ nghiêm ngặt về dinh dưỡng, nước ép tươi, và các enzyme tuyến tụy. Cộng đồng y tế đã có một cơ hội tuyệt vời để xem xét thích đáng liệu pháp điều trị ung thư thay thế khi một Ủy ban Thượng viện Mỹ đề nghị cấp kinh phí cho nghiên cứu sâu rộng điều trị của ông, và các thượng nghị sĩ đã rất ấn tượng với kết quả.

Thế nhưng, AMA vận động hành lang quá mạnh chống lại việc nghiên cứu liệu pháp điều trị ung thư thay thế và đề nghị đó gần như thất bại tại Thượng viện. Sau đó, mafia y tế sử dụng ảnh hưởng của họ để ngăn chặn thành công của Gerson và gán cho ông là “lang băm”, mặc dù thực tế phác đồ điều trị của ông đã chữa khỏi nhiều bệnh nhân ung thư giai đoạn cuối.

Quy trình hoạt động tiêu chuẩn của mafia y tế và công nghiệp ung thư là nhanh chóng ngăn chặn mọi khám phá về liệu pháp điều trị ung thư thay thế và khiến công chúng nhìn nhận các bác sĩ phát hiện ra liệu pháp điều trị thay thế là những người thiếu năng lực hoặc những ông lang băm. Và họ khá hiệu quả – thậm chí họ có trang web cho mục đích này.

Neal Deoul là nhà tài trợ nghiên cứu điều trị ung thư thay thế trong những năm 1990. Năm 1998, Tổng chưởng lý bang Maryland – Joseph Curran buộc tội ông phân phát tài liệu quảng cáo lừa đảo. Deoul đã tài trợ Tup Inc phân phối cesium và T-UP (chiết xuất lá cây nha đam) để chiến đấu với ung thư và AIDS, mặc dù thực tế là không hề có lấy một đơn khiếu nại của người tiêu dùng nào và có hàng trăm lời chứng thực từ những người tiêu dùng về những kết quả tốt. Trớ trêu thay, khi vụ kiện chống lại Deoul diễn ra tại tòa án, chính bản thân Deoul được chẩn đoán bị ung thư tiền liệt tuyến dạng cấp. Ông lặng lẽ và tự tin sử dụng cesium và T-UP điều trị ung thư tuyến tiền liệt.

Tất nhiên, các bác sĩ của mafia y tế đã lớn tiếng phản đối và dự báo điều tồi tệ nhất nếu ông tiếp tục từ chối xạ trị và hóa trị, thế nhưng tình trạng của ông lại được cải thiện nhờ kết quả dùng thuốc của riêng ông… không có liệu pháp điều trị nào khác được sử dụng. Thật không may, việc điều trị thành công của ông trong cuộc sống thực đã không được phản ánh trong phòng xử án. Thẩm phán phát hiện ra Deoul và T-UP Inc mắc tội vi phạm luật bảo vệ người tiêu dùng của Maryland. Vấn đề quan trọng là liệu các sản phẩm thực sự chống ung thư có bao giờ được nói đến trong kết luận của thẩm phán hay không.

Jimmy Keller điều hành một phòng khám ung thư thay thế ở Baton Rouge, nhưng đã bị buộc phải rời khỏi đất nước đến Tijuana, Mexico. Keller đã thành lập phòng khám sau khi sử dụng các liệu pháp tự nhiên để chữa trị cho bản thân bị ung thư giai đoạn cuối. Ung thư của ông điều trị không thành công trong hơn hai thập kỷ trước đó bởi các chuyên gia ung thư chính thống, họ cắt bỏ tai và làm méo mó khuôn mặt của ông. Đúng là liệu pháp điều trị chính thống điển hình của Big 3, ung thư của Keller quay trở lại với mức độ mạnh hơn bình thường. Ông đã nghiên cứu phương pháp chữa bệnh tự nhiên, tự chữa khỏi cho chính mình, và sau đó bắt đầu giúp đỡ người khác chữa trị. Ông nghĩ mình đã được an toàn khỏi mafia y tế do ông ở Mexico. Như ông đã lầm.

Tháng 3 năm 1991, Keller bị bốn tay săn tiền thưởng làm việc cho Bộ Tư pháp Mỹ, theo lệnh của FDA bắt cóc và buộc phải vượt qua biên giới Mỹ. Ở đó, Keller đã bị FBI bắt vì mười hai tội danh lừa đảo. Tội của ông là gì? Keller đã thực hiện cuộc gọi điện thoại qua đường dây liên bang để thu hút người dân đến bệnh viện của ông ở Mexico. Sau khi bắt cóc Keller bất hợp pháp từ đất Mexico, mà không dẫn độ, ông đã bị bỏ tù ở Texas. Thật ngạc nhiên, mức tiền tại ngoại của ông lên đến năm triệu đô la. Sau đó ông bị kết án và bỏ tù hai năm.

Bác sĩ Joe Di Stefano (một chuyên gia dinh dưỡng được cấp phép) và bác sĩ Daniel Mayer (một chuyên gia nắn xương) sở hữu hai bệnh viện ở Florida, ở đó họ dùng sản phẩm gọi là Albarin, chiết xuất từ cây nha đam, cho các bệnh nhân ung thư. Albarin được phát triển bởi bác sĩ Ivan Danhoff, một giáo sư đã nghỉ hưu được biết đến như “cha đẻ của nha đam”. Bác sĩ Di Stefano và bác sĩ Mayer đã sử dụng Albarin trên 100 bệnh nhân ung thư được chuyển đến bệnh viện cho người hấp hối. Thật ngạc nhiên, 94 người trong số họ sống sót và không bị tác dụng phụ của liệu pháp điều trị. Nhìn chung, mức độ hồi phục là 80%. Vào đầu tháng 10 năm 2001, bác sĩ Di Stefano rời bệnh viện vào lúc nửa đêm sau một ngày dài làm việc, và giật mình nghe thấy tiếng động lạ phát ra từ thùng rác phía sau. Rác bị trải ra trên khắp mặt đất. Ông chăm chú nhìn lên phía trên các thùng rác và thấy hai kẻ lạ đang lục lọi. Thì ra các “thợ sục rác” là đặc vụ của FDA.

Thế rồi, một tuần sau đó, đúng một tháng sau những cuộc tấn công được cho là “khủng bố” ngày 9/11, một cuộc tấn công “khủng bố” khác đã xảy ra. Vào ngày 11 tháng 10 năm 2001, 120 đặc vụ của FDA, DEA, Hải quan Mỹ đã đột kích và “tịch thu” các thiết bị tại các phòng khám ở Tampa và St Petersburg. Trong cuộc tấn công bất ngờ này, các đặc vụ thực thi pháp luật hỏi các bệnh nhân họ có muốn được ra khỏi nơi đó không, nhưng không một ai nói “có”. Một trong số các bệnh nhân than phiền “Chúng tôi đều là người lớn và tự nguyện đến đây. Sao các ông không ra khỏi đây và để chúng tôi yên?” Một đặc vụ FDA trả lời: “Đây sẽ là ngày điều trị cuối cùng của các anh!” Cuộc tấn công đồng thời xảy ra với bác sĩ Danhoff ở Grand Prairie, Texas và Jerry W. Jackson của Allied Pharmacy Services ở Arlington, Texas. Jackson là dược sĩ chuẩn bị chiết xuất nha đam. Trong mafia y tế tàn bạo này, FDA hài lòng với việc đóng cửa các bệnh viện và không cho phép sử dụng chiết xuất nha đam. Không ai đi tù. Nhưng nhiều bệnh nhân không được tiếp tục điều trị và ít nhất tám người chết trong vòng một năm.

Tại sao chính phủ tấn công những người hành nghề y sử dụng chiết xuất nha đam? Họ đã trả lời những thắc mắc của các bác sĩ ung bướu địa phương, những người đã bị mất việc! Nhận thấy những bác sĩ này là một phần của mafia y tế, FDA đã hành động chớp nhoáng trong cuộc đột kích Gestapo như thế để loại bỏ mối đe dọa cạnh tranh này. Sau cùng, nếu hiệu quả của chiết xuất nha đam được biết đến rộng rãi, nó có thể hạn chế sức bán của các loại thuốc hóa trị lợi nhuận cao. Liệu có rõ ràng hơn không khi nói “cuộc chiến ung thư” thực sự là cuộc chiến chống lại liệu pháp chữa trị ung thư theo tự nhiên?

Trong cuốn sách Politics in Healing: The Suppression and Manipulation of American Medicine (Chính trị trong chữa bệnh: Sự ngăn chặn và thao túng của Y tế Mỹ), Daniel Haley đã ghi nhận 11 trường hợp đàn áp có hệ thống các phương pháp chữa trị ung thư đã được chứng minh với các chất như hydrazine sulfate, DMSO, caesium chloride, và nha đam. Haley kết luận: “Trong một thị trường tự do, trong đó liệu pháp không độc hại có thể cạnh tranh công khai với các liệu pháp độc hại và thông tin không bị bưng bít, người tiêu dùng sẽ tự biết lựa chọn. Đây chính xác là những gì các công ty dược không muốn. FDA tìm mọi cách để loại bỏ những liệu pháp hiệu quả, không độc hại có thể cạnh tranh vượt trội với dược phẩm độc quyền nhãn hiệu và thường là độc hại. Bằng cách ngăn cản các liệu pháp này khỏi thị trường, FDA không bảo vệ công chúng khỏi bị tổn hại. Mà là bảo vệ các công ty dược phẩm khỏi sự cạnh tranh quyết liệt.”

Thực tế là có rất nhiều liệu pháp điều trị ung thư thay thế thành công được tạo ra trong thế kỷ vừa qua và sau đó lại biến mất do bị đàn áp và khủng bố. Sự cố chấp khoa học phân cách nghiên cứu ung thư chính thống với thực tế vẫn còn nguyên vẹn. Có vô số những câu chuyện thực tế về khủng bố và đàn áp. Tôi sẽ không liệt kê tất cả ra đây mà để bạn tự tìm hiểu.

Chỉ cần gõ những cái tên này vào bất kỳ công cụ tìm kiếm nào: bác sĩ Sam Chachoua, bác sĩ Hulda Clark, bác sĩ A. Keith Brewer, bác sĩ William Kelley, bác sĩ Gaston Naessens, bác sĩ Patrick Flanagan, bác sĩ Hans Nieper, JH Tilden, bác sĩ Kurt Donsbach, bác sĩ Stanislaw Burzynski, bác sĩ William Koch, bác sĩ FM Eugene Blass, bác sĩ Otto Warburg, bác sĩ Virginia Livingston, bác sĩ Günther Enderlein, bác sĩ Ernst T. Krebs, bác sĩ Philip E. Binzel, Jr và danh sách cứ kéo dài mãi. Rất nhiều cái tên đã mất… những cái tên khác thì đã bị nghiền nát vĩnh viễn.

Điểm chung của tất cả những bác sĩ đáng kính này là gì? Tất cả bọn họ đều đã phát triển những liệu pháp điều trị thay thế thành công trong điều trị ung thư cho hàng ngàn bệnh nhân. Và tất cả đều bị công nghiệp ung thư bức hại do sử dụng liệu pháp điều trị “không được phê duyệt”. Những ví dụ này chỉ là phần nổi của tảng băng trôi khổng lồ. Mafia y tế có gần 100 năm lịch sử lũng đoạn, khủng bố và tổ chức đàn áp trên diện rộng những liệu pháp điều trị ung thư thực sự có hiệu quả. Hàng triệu người đã phải cam chịu và thậm chí mất mạng vì những kẻ vô trách nhiệm nhận hối lộ, nhắm mắt lại trước đổi mới, và chối từ làm những điều đúng đắn về đạo đức.

Nhưng những gì đang xảy ra trong y học ngày nay không làm chúng ta ngạc nhiên nếu xét lại lịch sử. Bạn có biết nhiều khám phá vĩ đại nhất trên thế giới đã bị chối bỏ ngay từ đầu bởi cộng đồng khoa học? Những con người mở đường cho những khám phá này thường bị nhạo báng và quy cho là lang băm.

Theo Arthur Shopenaur, nhà triết học thế kỷ 19, “Mọi sự thật đều đi qua ba giai đoạn trước khi được chấp nhận. Đầu tiên, nó bị nhạo báng; lần thứ hai, nó bị phản đối; lần thứ ba, nó được coi là hiển nhiên”.

Điều trớ trêu của khoa học (có nhiệm vụ tìm kiếm những chân lý mới) là dường như hầu hết các thành viên của bất kỳ tổ chức khoa học nào cũng hết mình chống lại sự tiến bộ thực sự và kìm hãm những tư duy độc đáo.

Bộ phận thô bạo, thành kiến và cố chấp ghê gớm nhất của Big Medicine chắc chắn là bộ phận liên quan tới ung thư. Thực ra, công nghiệp ung thư có một danh sách “lang băm ung thư” công bố trên nhiều trang web. Lang băm ung thư có những điểm chung gì? Họ sử dụng “những phương pháp chưa được chứng minh” để điều trị ung thư. Hãy xem xét điều này, “những phương pháp chưa được chứng minh” chính xác nghĩa là gì? Có phải những phương pháp này chưa thực sự được chứng minh, hay bằng chứng về thành công của những phương pháp này đã bị tịch thu?

Bạn nên biết rằng công nghiệp ung thư đã hao tổn biết bao công sức để chôn vùi và ngăn chặn liệu pháp chữa trị ung thư thay thế thành công. Họ ngăn chặn cả những liệu pháp điều trị ung thư thay thế không hiệu quả; theo đó, dường như tất cả các liệu pháp điều trị mà họ ngăn cản đều không hiệu quả và họ chỉ đang “làm công việc của họ để bảo vệ chúng ta”. Tuy nhiên, thực tế là hàng trăm liệu pháp điều trị ung thư thay thế đang hiệu quả và không may là số ít những kẻ bán thuốc rong trị bá bệnh đã là con sâu làm rầu nồi canh để công nghiệp ung thư viện vào và khiến tất cả các liệu pháp điều trị ung thư thay thế (bao gồm cả các liệu pháp điều trị hiệu quả) trông như lang băm.

Nói thật, hầu hết những hoạt động hằng ngày của y học chính thống cũng chưa được chứng minh nếu theo tiêu chuẩn của chính phủ. Năm 1978, Cơ quan đánh giá công nghệ (một cơ quan của Quốc hội) đã ban hành một báo cáo nghiên cứu chính thức kết luận “chỉ từ 10% đến 20% các quy trình đang được sử dụng trong hoạt động y tế được chứng minh là hiệu quả qua thử nghiệm kiểm tra”. Có nghĩa là khoảng 80% và 90% những gì các bác sĩ làm với bạn là phỏng đoán chưa được chứng minh khoa học. Theo định nghĩa của chính phủ thì phần lớn y học chính thống là “lang băm”.

Theo Webster Kehr: “Bằng chứng khoa học về liệu pháp điều trị thay thế có thể so sánh được với kích cỡ con tàu của Nữ Hoàng Mary II. Bằng chứng khoa học về liệu pháp điều trị chính thống chỉ như con tàu cỡ chiếc bồn tắm. Tôi không phóng đại. Song, FDA vẫn cho rằng hóa trị và y học chính thống ‘có’ bằng chứng khoa học và các liệu pháp điều trị thay thế ‘không có bằng chứng khoa học’. Đó hoàn toàn là dối trá. Vậy làm thế nào mà FDA, NIH, NCI, AMA, ACS, v.v. ngăn chặn được bằng chứng vượt trội về mặt thống kê của liệu pháp điều trị thay thế cho ung thư? Bằng cách bỏ qua (ví dụ, liệt vào danh sách đen) và lảm nhảm về khái niệm ‘thuyên giảm tự phát’ và cái tôi gọi là ‘thuyên giảm tâm lý’.”

Điều thú vị là tất cả các liệu pháp điều trị ung thư thay thế trong danh sách “lang băm” của Big Medicine có những đặc điểm chung sau: tất cả đều là tự nhiên, không độc hại, và không có độc quyền nhãn hiệu. Quan trọng nhất, tất cả chúng đều chữa trị thành công ung thư! Mặc dù hóa trị và xạ trị là những liệu pháp hoàn toàn chưa được chứng minh và thường sẽ giết chết bệnh nhân ung thư, thế nhưng chúng lại không nằm trong danh sách. Tại sao vậy? Bởi vì cả hai cách đó đều rất tốn kém và được độc quyền nhãn hiệu. Hãy để tôi giải thích.

Giả sử tôi phát hiện ra một loại vitamin chữa khỏi ung thư. Chúng ta gọi là Vitamin Z. Để có thể nói cho bạn biết Vitamin Z làm việc thế nào và bán nó cho bạn, tôi sẽ cần phải có được phê duyệt của FDA cho Vitamin Z là một loại thuốc. Việc này sẽ tiêu tốn của tôi khoảng 200 đến 500 triệu đô la và mất nhiều năm để có được phê duyệt. Tuy nhiên, vì Vitamin Z là tự nhiên và tìm thấy trong hầu hết các loại rau, nên tôi không thể lấy bằng sáng chế. Vì vậy, ngay cả sau khi đã chi tiêu nửa tỷ đô la để phân loại Vitamin Z là “thuốc”, nó vẫn sẽ là một loại thuốc không có giấy phép độc quyền nhãn hiệu, và bất cứ ai cũng có thể bán nó mà không cần sự cho phép của tôi. Tôi đơn giản là lãng phí nửa tỷ đô la. Là một kiểm toán, tôi có thể cho bạn biết rằng việc cố gắng có được chấp thuận của FDA cho bán Vitamin Z như một loại thuốc không hề có đem lại lợi nhuận.

Thế nên, mặc dù Vitamin Z là một vitamin tự nhiên, chữa được ung thư và không có các tác dụng phụ có hại, tôi cũng không thể nói với bạn rằng nó chữa được ung thư, vì nó chưa thông qua FDA xem xét. Nhưng tại sao Big Medicine che đậy thông tin về một việc quan trọng như chữa khỏi ung thư? Phải chăng họ không quan tâm đến sức khỏe của chúng ta? Họ không muốn những gì tốt nhất cho chúng ta sao? Buồn thay, câu trả lời cho các câu hỏi đều rõ ràng và đơn giản, “đúng”. Kể từ khi Big Medicine mang ơn Big Pharma, phác đồ điều trị của họ luôn bao gồm các loại thuốc đắt tiền và sinh lợi nhất, bất kể có đem lại lợi ích tốt nhất cho bệnh nhân hay không.

“Gestapo” FDA nổi giận… Một lần nữa!

Nếu bạn thực sự nghĩ rằng FDA ủng hộ tự do ngôn luận… hãy suy nghĩ lại. Trong một ví dụ vô lý khác nữa về chiến lược đàn áp của Gestapo thời hiện đại, vào đầu năm 2010 FDA đã gửi thư cảnh báo cho CEO của Diamond Foods thông báo rằng sản phẩm quả óc chó đóng gói của công ty ông “vi phạm luật thực phẩm, dược phẩm và mỹ phẩm của Liên bang”.

“Chính xác Diamond Foods đã vi phạm như thế nào?” Vâng, họ đã cả gan nói sự thật về một số lợi ích đối với sức khỏe của quả óc chó trên trang web của mình, chẳng hạn như thực tế là quả óc chó làm giảm nguy cơ mắc bệnh tim và đau khớp. Sao họ dám làm như vậy! Theo FDA, ngay khi Diamond Foods liệt kê những lợi ích cho sức khỏe của quả óc chó trên trang web, quả óc chó (mà tất cả chúng ta ngu ngốc cho là một loại thực phẩm) đã kỳ diệu biến thành một loại “thuốc”, vì thế Diamond Foods đã bán thuốc không được phê duyệt!

Mặc dù thực tế là những lợi ích cho sức khỏe của quả óc chó đã được minh chứng bằng tài liệu khoa học trong nhiều thập kỷ và có hơn 30 chuyên gia đánh giá rằng quả óc chó giảm nguy cơ đau tim và cải thiện sức khỏe tim mạch, FDA tuyên bố quả óc chó đã trở thành “thuốc” và vì thế bị “ghi nhãn sai” còn Diamond Foods phạm tội làm “trái phép” những công bố về y tế.

Bây giờ tôi thực sự tin rằng chúng ta đang sống trong ma trận! Cho phép tôi nói thẳng điều này. FDA đã phê duyệt cho Vioxx, thứ đã giết chết hơn 50.000 người, thế mà họ lại gây khó dễ với quả óc chó. Rõ ràng là FDA quan tâm đến việc bảo vệ lợi nhuận của Big Pharma hơn là đến sức khỏe của người Mỹ.

Trường hợp vô lý này dẫn tôi trở lại khoảng một thập kỷ trước, khi Gestapo FDA và mafia y tế nhắm vào sự “nguy hiểm” của công nghiệp trồng anh đào. Bạn thấy đấy, những người trồng anh đào có đường dẫn trên các trang web của họ đến một số nghiên cứu khoa học xuất sắc (từ những nơi như Harvard) chỉ ra rằng anh đào làm giảm viêm và đau. FDA nhanh chóng gửi cho họ những thư huấn thị với những đe dọa thường lệ (bao gồm cả nhà tù) nếu họ không lập tức gỡ bỏ sự thật về anh đào trên các trang web của mình.

Nếu không phải là một công ty dược phẩm, bạn không được đưa ra bất kỳ tuyên bố y tế nào về sản phẩm của mình, ngay cả khi những tuyên bố này được hỗ trợ bởi hàng ngàn công trình nghiên cứu đánh giá của chuyên gia. Tuy nhiên, nếu là một công ty dược phẩm, bạn chỉ cần trả đủ tiền cho các nhà nghiên cứu để tạo ra các dữ liệu, như ta đã thấy trong chương trước trường hợp hổ thẹn của bác sĩ Scott Reuben. Nói thẳng, FDA chẳng khác nào là “chân gỗ” cho mafia y tế, họ không quan tâm đến sự thật và cũng không quan tâm đến sức khỏe của chúng ta. “Băng nhóm” y tế hiện đại này chỉ quan tâm đến việc bảo vệ lợi nhuận của các công ty dược mà thôi.

Hãy tưởng tượng có một loại thảo dược giúp làm dịu các cơn đau mạn tính do ung thư giai đoạn cuối. Chúng ta tạm gọi là “Mary Jane”. Nhờ công dụng của loại thảo dược kỳ diệu này, bệnh nhân ung thư khắp mọi nơi được sống cuộc sống không đau đớn, không nôn ọe, có cảm giác ngon miệng và không bị suy kiệt. Bạn sẽ nghĩ Mary Jane nên được trao cho tất cả các bệnh nhân ung thư, phải vậy không? Vâng, đáng buồn là bạn đã nhầm. Rất có khả năng, vì Mary Jane không thể được cấp giấy phép độc quyền nhãn hiệu, nó sẽ bị đặt ngoài vòng pháp luật như một loại “thuốc bất hợp pháp” và những người sử dụng Mary Jane để điều trị ung thư và giảm đau sẽ thành tội phạm. Chỉ có “thuốc hợp pháp” là được phép, cho dù thực tế nhiều thuốc hợp pháp gây chết người, trong khi nhiều “thuốc bất hợp pháp” (tức là, cây cỏ và thảo dược tự nhiên) hoàn toàn vô hại và thực sự có nhiều lợi ích cho sức khỏe.

Mafia y tế không ngừng đàn áp những bác sĩ đưa ra những liệu pháp điều trị ung thư mới, hiệu quả, không độc hại, và họ bỏ qua mong muốn của bệnh nhân muốn thử những liệu pháp điều trị đó. Trong khi đó, họ tha thứ, hỗ trợ và bảo vệ bằng pháp luật những phương pháp của Big 3 đã được minh chứng là không hiệu quả và độc hại. Vấn đề quyết định không phải là điều trị ung thư thay thế có hiệu quả hơn so với Big 3. Vấn đề quyết định, thật đáng tiếc, lại là phác đồ nào sẽ đưa đến lợi nhuận lớn nhất cho người trục lợi từ thuốc (Big Pharma).

Và những kẻ thắng là… Mafia Y tế và Big Pharma.

Và những người thua là… các bệnh nhân ung thư!