Kakiêmông (kakiémon) người gốc Oxaka (osaka), còn trẻ, nhưng khi gia đình sa sút mà lại trơ trọi một mình, nên anh quyết định đến thử thời vận ở đất kinh kỳ Êđô (edo) ra sao. Anh ta là một thanh niên có nghị lực, nên vừa nghĩ đến chuyện ấy là thực hiện ngay. Vì vậy, ngày hôm sau, anh lên đường đi Êđô.
Đến đây anh đi suốt mấy ngày quanh chợ và các nhà buôn, cho đến khi tìm được việc làm tại tiệm buôn của một thương gia giàu có. Vì anh thông thạo việc kế toán, biết cách tống khứ đồ cướp bóc ra khỏi nhà, lại luôn luôn nhã nhặn với khách hàng, cho nên chẳng mấy chốc mà anh được lòng tin yêu của nhà thương gia này. Vận may lại mỉm cười với anh.
Một hôm, anh phải đến nhà ông chủ vì có việc khẩn cấp. Anh bỗng thấy có một cô gái đẹp kỳ lạ đang dạo chơi trong vườn giữa các cây đang nở hoa nhưng hoa cũng phải nhạt phai trước sắc đẹp của nàng. Kakiêmông yêu ngẩn ngơ cô gái xa lạ, nhưng tội nghiệp thay cho anh sau khi hỏi ra mới biết đó là cô con gái duy nhất của ông chủ, nhà thương gia giàu có và sẽ không bao giờ ông chủ lại bằng lòng gả con gái cho một kẻ nghèo xơ xác như anh. Kakiêmông âm thầm đau khổ. Anh tránh xa những thú vui trong thành phố, bạn bè mời anh đi chơi sau giờ làm việc, anh cũng chối từ. Trái lại, anh thường tìm cớ để tới nhà ông chủ, thường thường anh lui tới nhà ông chủ nhiều lần trong một ngày, để đem tin đến rồi nhận lệnh đi. Và mỗi lần như thế, anh đợi ở cửa để chờ gặp người đẹp Ôran (orane) đi qua.
Cô gái cũng để ý đến chàng trai, và thấy thích anh ta. Rồi đôi trẻ đi đến chỗ thư từ cho nhau và nghĩ đến chuyện tìm cách làm cho người cha nghiêm khắc chấp nhận mối tình của họ. Cuối cùng Kakiêmông quyết định đến gặp cha của Ôran để xin được kết hôn với nàng.
Nhưng anh đã gặp sự chàng đối quyết liệt. Người thương gia khi nghe anh nói đã nổi giận đùng đùng cho anh là kẻ xấc xược, ông ta nói thẳng vào mặt anh :
Ý nghĩ gì lạ thế, một thằng vô lại như cậu sống ngày nào thì biết ngày ấy, mà lại dám cưới con gái ta ư ? Có lẽ cậu không biết nó đã được nhiều nơi danh giá vọng tộc trên đất kinh kỳ này xin cưới hay sao? Hãy cút đi khỏi mắt ta, ta không muốn thấy mặt cậu nữa.
Kakiêmông đau đớn ê chề, anh không đáp trả những lời nói chua chát của ông chủ.
Khi cơn giận của người thương gia dịu xuống một chút, ông nói nhẹ nhàng hơn:
Nhưng chắc cậu cũng hiểu là tôi rất biết trọng dụng người có năng lực, cho nên tôi sẽ bỏ qua những lời nói vô lễ của cậu, cậu có thể ở lại tiếp tục làm việc. Nhưng bây giờ thì hãy biến khỏi mắt tôi.
Ông ta ra lệnh cho anh rút lui .
Phần Ôran, khi biết được quyết định nghiêm khắc của cha, nàng than khóc khôn xiết, không làm sao bình tâm cho được. Nàng càng khóc nhiều hơn nữa khi biết cha cấm không cho nàng gặp Kakiêmông, và bắt hai chị giúp việc canh gác nàng. Còn Kakiêmông được ông phái đi xa làm nhiệm vụ, để cho đôi trẻ không có dịp gặp nhau. Kakiêmông chăm lo công việc và tiết kiệm từng đồng. Nhưng làm theo cách này, anh sẽ không bao giờ trở nên giàu có đủ để ông thương gia chấp nhận anh làm con rể.
Ôran quá buồn lòng nên lâm bệnh nặng. Không một thầy thuốc nào có thể chữa lành bệnh cho nàng được. Càng ngày nàng càng xanh xao gầy gò, chỉ muốn nghe nói đến Kakiêmông thôi. Người thương gia giàu có đã mời đến nhiều danh y, nhưng người nào cũng nhún vai đáp :
Chúng tôi chịu, đây không phải là thân bệnh mà là tâm bệnh. Nếu cô gái không lành thì bệnh chỉ trở nên trầm trọng mà thôi. Cuối cùng người thương gia đành phải nhân nhượng một ít. Ông ta chỉ còn một cách để chọn lựa mà thôi : hoặc là để mất con gái hoặc là chấp nhận Kakiêmông làm rể.
Ông cho gọi Kakiêmông và nói :
Anh biết quá rõ là tôi không muốn cho anh làm rể. Nhưng con gái tôi lâm bệnh trầm trọng và chỉ có lấy anh nó mới lành bệnh. Ngặt một nỗi nhà anh nghèo quá nên tôi mới đặt vấn đề với anh. Anh phải tổ chức đám cưới như người ta lấy vợ con gái nhà giàu vậy. Nếu anh không có khả năng, thì … Ông ta thở dài thườn thượt.
Kakiêmông suy nghĩ thật lâu về những điều mình phải làm, vì chính anh cũng lo sợ cho sự sống của Ôran. Cuối cùng, anh đã nghĩ ra cách. Anh xin phép nghỉ ít hôm mà không nói rõ là mình sẽ đi đâu. Ông chủ chấp nhận, nhưng nói với vẻ hoài nghi:
Chúng tôi mong rằng anh sẽ có biện pháp khả quan chứ đừng than thân trách phận nữa.
Kakiêmông vội vàng đi Ôxaka. Anh nhớ ở vùng ven thành phố quê hương mình có
một lâu đài của hoàng tộc đã bị bỏ hoang. Ngôi nhà này nhiều năm rồi không có ai ở vì người ta nói rằng nhà có ma. Kakiêmông không sợ ma – mà cho dù có sợ đi nữa, thì quyết tâm lấy Ôran làm vợ, đã xua đuổi tất cả nỗi sợ trong lòng anh. Đến Ôxaka, anh xin phép được gặp nhà vua. Anh nói:
Tâu bệ hạ, nếu ngài giao tòa lâu đài cho tôi một thời gian, tôi xin hứa với ngài là tôi sẽ làm cho ngôi nhà hết ma.
Tại sao anh lại cần toà lâu đài? – nhà vua ngạc nhiên hỏi anh.
Kakiêmông trình bày cho nhà vua biết là anh cần ngôi nhà để làm đám cưới, anh kể cho vua nghe những điều kiện của người thương gia giàu có ở Êđô đã đưa ra. Quyết tâm sắt đá của chàng đã làm cho vua vui thích, nên ngài hứa sẽ cho anh mượn tòa lâu đài trong một thời gian.
Nhưng có đám cưới đi nữa, thì anh cũng đừng quên ma quỷ đấy nhé! – nhà vua nói thêm rồi cười.
Kakiêmông trở lại Êđô, liền đến gặp ông thương gia giàu có ngay. Anh nói với ông ta:
Mặc dù con gái ông thuộc gia đình giàu có, nhưng cũng chỉ là tư sản thôi. Nay tôi sẽ làm đám cưới với con gái ông trong một tòa lâu đài của hoàng tộc, ông có bằng lòng không?
Trong một tòa lâu đài hoàng tộc à? Sao anh vào được lâu đài hoàng tộc? – Người thương gia giàu có kinh ngạc hỏi anh.
Thì đấy là việc của tôi; điều quan trọng là điều kiện ông đưa ra đã được thực hiện. Ông chỉ việc cho đưa cô dâu đến tòa lâu đài hoàng tộc ở Ôxaka là được. Tôi sẽ đợi con gái ông ở đấy.
Thằng này rồi sẽ lo liệu được đường đời của nó đây. – Người thương gia tự nhủ. – Chắc hẳn không tồi đâu, và hắn cũng không thiếu can đảm.
Thế là ông không có gì nữa để cản trở cuộc hôn nhân. Khi Ôran biết nàng sẽ được lấy Kakiêmông, má nàng lại ửng hồng, và hai ngày sau, nàng đã chạy tung tăng khắp nhà.
Thoạt tiên, đám cưới được tổ chức tưng bừng ở Êđô, rồi rước dâu đến Ôxaka. Khi đến đây là xem như lễ cưới đã chấm dứt, Kakiêmông và Ôran ở lại một mình với nhau trong tòa lâu đài bỏ hoang, cột kèo đã mục và ngoài vườn thì cỏ hoang mọi cao lút
đầu người.
Dù đang ở trong một lâu đài, nhưng họ phải làm việc để có cái ăn. Cho nên Kakiêmông đi bán cá. Anh muốn kiếm được nhiều tiền, cho nên phải dậy từ nửa khuya để đến được các nơi xa. Vì vậy mà từ giữa khuya, trong lâu đài chỉ còn một mình Ôran. Nhưng phải thế thôi, vì trong khi Kakiêmông không ngại đường xá gian khổ, gánh gồng nặng trĩu trên vai, để đi buôn bán kiếm sống, thì Ôran phải ở nhà một mình trong lâu đài. Hai người sống hạnh phúc vì số phận đã ghép họ lại với nhau rồi.
Kakiêmông và Ôran sống với nhau trong lâu đài một thời gian mà chẳng xảy ra chuyện gì hết. Kakiêmông chăm lo công việc mua bán đến nỗi quên phứt chuyện lâu đài có ma. Ôran cũng thế, nàng không nghĩ đến chuyện ma quỷ nữa và cũng không sợ sệt gì hết cho đến một tối nọ, khi Kakiêmông vừa đi thì có ba tu sĩ mặc áo dài đen hiện ra trước mặt nàng. Mỗi người cầm trên tay một cây đèn cầy ngắn tỏa ánh sáng rực rỡ. Không làm gì ồn ào hết, họ đi băng qua tường để vào lâu đài, rồi đến trước mặt Ôran, họ nhảy múa quanh giường Ôran cho đến sáng, bước chân chậm chạp và cứng ngắc. Rồi, lần lượt cả ba đến gần chiếu Ôran đang nằm, để một ngón tay lên miệng nàng, dặn phải giữ im lặng. Suốt đêm, không ai thốt ra một lời nào.
Ôran đã can đảm và im lặng tham dự buổi khiêu vũ của các tu sĩ. Khi họ biến mất, nàng mới thở dài nhẹ nhõm. Nàng nghĩ: “Chắc đây là những bóng ma mà Kakiêmông đã nói với mình trước khi cưới. Rõ ràng là họ không muốn mình nói cho ai nghe chuyện đã xảy ra trong đêm; mà nói ra làm gì, vì Kakiêmông nghe được, chàng chỉ thêm lo, rồi lại không muốn để ta một mình trong tòa lâu đài này nữa. Mà ta còn phải đi chợ để mua đồ ăn đã chứ”.
Khi Kakiêmông trở về, Ôran vẫn chào hỏi chồng vui vẻ, dọn cơm cho anh ăn, và nói chuyện với anh cho đến khi anh lại ra chợ bán cá. Nàng không nói với anh một tiếng về chuyện đã xảy ra đêm qua. Khi Kakiêmông đi rồi, nàng hồi hộp nằm đợi xem các vị tu sĩ có đến nữa không. Suốt đêm nàng không nhắm mắt, nhưng lần này không có gì xảy ra.
Đêm thứ ba, Ôran thấy xa xa có ánh sáng tiến đến gần, rồi xuyên qua tường, không vào trong lâu đài. “Chắc là các vị tu sĩ rồi đây!” Ôran thầm nghĩ, và nàng kinh ngạc khi thấy mình nhẹ nhõm cả người. Vì nếu cứ nằm thao thức suốt đêm để chờ đợi, thì lại càng tệ hại hơn nữa.
Các vị tu sĩ lặng lẽ đến gần, lần này họ mặc áo dài trắng, mỗi người cầm một cây đèn cầy trắng lớn. Họ lặng lẽ nhảy múa quanh Ôran, bước chân cứng cỏi. Chỉ có ánh đèn
cầy mới chiếu ra những hình bóng sinh động mà thôi. Đến lúc bình minh ló dạng, các tu sĩ lại đến bên cạnh Ôran, lần lượt để ngón tay lên miệng nàng như nhắc nhở phải im lặng. Rồi họ lại biến dạng, Ôran không biết họ biến đi đâu. Sau ba đêm không ngủ, nàng quá mệt mỏi đến độ lăn ra ngủ ngay tức khắc. Cho đến khi nghe tiếng cười của Kakiêmông, nàng mới thức dậy.
Đã mười hai giờ trưa mà em vẫn còn ngủ à? Đêm qua có chuyện gì xảy ra hả
em?
Hoảng sợ, Ôran vùng dậy để lo việc cơm nước.
Anh thấy vợ anh hư đốn ghê chưa! Trong khi chồng cong lưng dưới gánh cá nặng thì nàng lại ngủ.
Đêm thứ tư lại bình yên. Sau nửa khuya, các tu sĩ không đến như đêm trước, Ôran ngủ say một giấc cho đến sáng. Chỉ sang đêm thứ năm mới xuất hiện lại ánh sáng đèn cầy, ánh sáng xuyên tường mà vào. Khi ánh sáng đến gần, Ôran nhận ra ba vị tu sĩ mặc áo màu vàng. Mũ trùm đầu nhọn phủ xuống che hết một nửa khuôn mặt, và trên tay, mỗi người cầm một cây đèn cầy dài màu vàng tỏa ánh sáng huyền bí. Các tu sĩ vàng lại nhảy múa quanh giường Ôran suốt đêm, sáng mai họ lại để ngón tay lên miệng nàng dặn phải im lặng.
Ôran thắc mắc tự hỏi không biết sang đêm thứ bảy có gì xảy ra không. Kakiêmông vừa mới đi chợ thì nàng đã thấy bốn bề đều có ánh sáng đang hướng về lâu đài. Từ phía nam, ba vị tu sĩ mặc áo đen, cầm đèn cầy ngắn màu đen đang đến gần; từ phía Tây, ba vị tu sĩ mặc áo trắng cầm đèn cầy trắng lớn, và cuối cùng, từ phía Đông, ba vị tu sĩ mặc áo dài vàng đang uy nghi đến gần, ánh sáng tỏa ra rực rỡ. Họ từ từ đến gần, ánh mắt đều nhìn về phía Ôran, rồi họ nhảy chầm chậm quanh giường của nàng. Ôran tự hỏi không biết đêm nay có gì xảy ra không, vì đêm nay tất cả các tu sĩ đều tập họp lại hết cả như thế này.
Bỗng tất cả các tu sĩ vàng đều ngưng nhảy, họ dừng lại trước chiếu Ôran đang ngồi, một tu sĩ áo vàng nói bằng giọng trầm ồ ồ:
Ôran, ngươi thật can đảm. Trong suốt bảy ngày qua, ngươi không nói gì và không sợ ở một mình với chúng tôi. Để thưởng cho ngươi, ta sẽ nói cho ngươi biết chúng tôi là ai. Nghe đây nhé: Đã lâu lắm rồi, có một cuộc chiến tranh ác liệt xảy ra tàn phá khắp đất nước. Lúc ấy, tổ tiên của nhà vua bây giờ, đã chôn giấu kho tàng của họ trong lâu đài này. Nhưng ngài đã chết trong chiến trận, mang theo bí mật xuống mồ. Chúng tôi
đã ẩn náu ở đây suốt mấy thế kỷ rồi, không giúp ích gì cho người và không hưởng được lạc thú vì sức mạnh của mình. Chúng tôi thích trở lại với loài người, nhưng không đủ khả năng. Phải có người đào lên, chúng tôi mới hội nhập được với loài người. Nhưng mãi cho đến bây giờ, tất cả những người khi thấy chúng tôi hiện ra đều chạy trốn hết, không ai can đảm như ngươi hết.
Kể xong, các tu sĩ áo đen đến gần Ôran, dẫn nàng ra vườn, chỉ cho nàng thấy cây anh đào già, và họ biến mất. Rồi những tu sĩ áo trắng chỉ cho nàng ngưỡng cửa lâu đài và lại biến mất. Ba tu sĩ cuối cùng, những tu sĩ áo vàng, dẫn Ôran vào cái hầm hình vòm, chỉ cho nàng rồi cũng biến mất ở đấy.
Sau cái đêm hãi hùng ấy, Ôran cố lấy hết can đảm, ngủ cho đến khi Kakiêmông trở về. Anh lại ghẹo nàng, nói rằng nàng đã bắt đầu quen thói ngủ đến mười hai giờ trưa. Nàng bèn kể cho anh nghe chuyện đã xảy ra ở tòa lâu đài trong suốt bảy đêm vừa qua. Rồi, cả hai đến tìm nhà vua để nói cho ngài biết về chuyện những bóng ma trong lâu đài.
Nhà vua cho đào những nơi đã được các tu sĩ chỉ, ngài tìm ra những kho tàng thật sự, trong vườn nằm dưới gốc cây, là những hũ đầy tiền đồng, dưới ngưỡng cửa là những bao đựng đầy tiền bạc, và trong hầm là những hũ đựng đầy tiền vàng.
Nhà vua rất đỗi vui mừng khi tìm ra được kho tàng của tổ tiên để lại mà không hay biết, ngài khen thường cho Kakiêmông và Ôran can đảm rất nhiều tiền bạc. Từ đó, ông thương gia giàu có hết lấy làm xấu hổ về chuyện con rể; trái lại, ông sung sướng vì đã gả được con gái cho anh. Ôran thường nhái lại vũ điệu của các tu sĩ cho Kakiêmông xem, rồi hai người cười với nhau, sung sướng.