“Em đã ở chỗ quái nào thế?” Dean đội chiếc mũ cao bồi màu nâu nhạt và đeo đôi kính râm công nghệ cao có gọng kính kim loại và mắt kính màu vàng. Vài giờ trước, anh là người tình của cô, và điều đó biến anh trở thành chướng ngại vật biết đi, biết nói chặn ngang trên con đường cao tốc tạo thành cuộc đời cô. Lúc đầu, cô chỉ trao cho anh từng mẩu nhỏ bản thân mình, nhưng tối qua cô đã dâng hiến một khoanh lớn đáng kể, và giờ cô dự định sẽ lấy lại chỗ đó.
Anh sập cửa xe. “Nếu sáng nay em muốn đạp xe thì lẽ ra em nên đánh thức anh dậy chứ. Dù gì anh cũng định sẽ đi đạp xe rồi mà.”
“Cái xe tải đó là của anh đấy à?”
“Em không thể có trang trại mà không có xe tải.” Những cái đầu bắt đầu thò ra cửa sổ các cửa hàng. Anh nắm cánh tay cô đẩy cô tựa vào thành xe. “Em đang làm gì ở đây thế, Blue? Em thậm chí còn chẳng để lại lời nhắn gì. Anh lo lắng đấy.”
Cô nhón chân lên phớt một nụ hôn lên cái quai hàm gây gổ đó. “Em cần vào thị trấn để bắt đầu công việc mới, mà phương tiện đi lại của em bị giới hạn nên em đành mượn tạm cái xe đạp. Anh sẽ lấy lại được nó thôi.”
Anh giật cặp kính râm ra. “Công việc mới gì?” Mắt anh nheo lại. “Đừng đùa chứ.”
Cô chỉ tách cà phê về phía chiếc Corvette khong mui hai chỗ bên đường. “Không phải cái gì cũng tệ. Bà ta có một con xe khủng.”
“Em không vẽ con chó của mụ già đó chứ?”
“Giá trị ròng hiện tại của em còn không đủ cho một món boa của anh ở nhà hàng McDonald.”
“Anh chưa từng gặp ai bị ám ảnh vì tiền như em.” Anh đeo lại cặp kính. “Bỏ qua nó đi, Blue. Trong đời mình em đã trao cho tiền bạc quá nhiều quyền lực rồi.”
“Phải, chà, ngay khi trở thành một cầu thủ triệu phú, em sẽ thôi không thế nữa.”
Anh lôi ví ra, rút một cuộn tiền nhét vào túi quần jean của cô. “Giá trị ròng của em vừa mới cải thiện rất nhiều rồi đấy. Giờ thì cái xe đạp đâu rồi? Chúng ta có việc phải làm.”
Cô rút số tiền ra. Một tập tờ năm mươi. Khuôn mặt vàng vọt của cô nhìn lại cô chằm chằm từ mắt kính của anh. “Chính xác thì chỗ này là cho cái gì?”
“Em muốn nói cái gì, cho cái gì á? Là cho em.”
“Cái đó thì em biết rồi, nhưng em đã làm gì mà kiếm được ngần này?”
Anh biết chính xác cô đang hướng đến chuyện gì, nhưng anh là chuyên gia trong việc tung những cú ném ghi bàn từ bước khởi đầu tồi tệ, và anh tung ra một cú. “Em đã dành cả mấy ngày cuối tuần ở Knoxville chọn đồ nội thất cho anh.”
“Em đã giúp April chọn đồ nội thất cho anh. Và em đã được đền bù còn hơn cả mức thỏa đáng với những bữa ăn hoành tráng, khách sạn hạng nhất và cả massage nữa rồi. Nhân đây, cảm ơn vì chuyện đó. Cảm giác thích cực kỳ đấy.”
“Em là đầu bếp của anh.”
“Cho đến giờ, anh mới ăn ba cái bánh kếp và ít đồ thừa lẫn lộn.”
“Và em đã sơn gian bếp cho anh!”
“Em đã sơn một phần gian bếp và trần phòng ăn của anh.”
“Đấy thấy chưa.”
“Anh đã cho em ăn, cho em ở, đưa em đi chỗ này chỗ kia hơn một tuần rồi,” cô nói. “Như thế chúng ta gần như hòa.”
“Em đang giữ sổ cái đấy à? Thế còn bức tranh tường mà em sẽ vẽ trong phòng ăn của anh thì sao? Những bức tranh tường. Anh muốn bốn bức, mỗi bức cho một bức bên tường. Và ngay hôm nay anh sẽ bảo Heath soạn thảo hợp đồng.”
Cô nhét chỗ tiền vào túi trước của anh. “Đừng cố lung lạc em nữa. Anh chẳng quan tâm gì đến tranh tường cả. Đó là ý tưởng của April.”
“Anh có quan tâm. Anh thích ý tưởng đó ngay từ đầu, và giờ anh thậm chí còn thích nhiều hơn. Đó cũng là giải pháp hoàn hảo cho cái vấn đề mà em đã bày ra. Nhưng vì lí do nào đó, em lại sợ phải chấp nhận giải pháp đó. Giải thích anh nghe đi. Giải thích lý do vì sao em lại buồn bực với cái ý tưởng vẽ mấy bức tranh tường cho một người mà em đang mắc nợ đi.”
“Vì em không muốn.”
“Anh đang đề nghị em một công việc hợp pháp. Nó phải hơn hẳn việc làm cho mụ dơi già điên khùng đó chứ.”
“Anh tiết kiệm lời đi, được không? Cho đến giờ, dịch vụ thực sự mà em cung cấp đã xảy ra tối hôm qua, và ngay cả một kẻ ngốc nghếch như anh cũng phải thấy là em không thể cầm tiền của anh sau chuyện đó.”
Anh còn dám chế nhạo cô. “Có phải chúng ta cùng ở trên một chiếc giường không? Bởi vì, theo cách anh nhớ, anh mới là người cung cấp cái dịch vụ chết tiệt đó. Em muốn hạ thấp mọi thứ xuống thành mua bán chứ gì? Được thôi. Vậy thì em nên trả cho anh. Và thực sự thì anh sẽ gửi hóa đơn cho em. Một nghìn đô! Được thôi. Em nợ anh một nghìn đô. Cho những dịch vụ mà anh đã cung cấp.”
“Một nghìn đô? Nói như đúng rồi. Em đã phải mơ mộng về đám bạn trai cũ chỉ để có hứng đấy.”
Đây không hẳn là cú đòn mà cô đã trông chờ để kết thúc câu chuyện, vì anh bật cười. Không hẳn là tiếng cười nhạo – dù chỉ thế cũng khiến tinh thần cô phấn chấn hơn rồi – mà là tiếng cười vô cùng khoái trá.
“Này cô!”
Blue nhăn mặt khi Nita chọn đúng lúc này để xuất hiện từ tiệm Làm đẹp và Hớt tóc Brad, những cái móng vuốt mới sơn đỏ chót uống cong quanh cây ba toong. “Này cô! Đến giúp ta qua đường nào.”
Dean ném cho Nita một nụ cười hồ hởi đầy vẻ ghê tởm. “Chào bà Garrison.”
“Chào Deke.”
“Là Dean, thưa bà.”
“Ta không nghĩ vậy.” Bà ta xỉa cái túi xách về phía Blue. “Xách cái này đi, cô gái. Nó nặng lắm. Và trông chừng móng tay của ta. Tốt hơn hết là cô chưa lãng phí xăng của ta trong lúc ta ở trong kia.”
Dean móc ngón tay cái vào túi quần jean. “Tôi cảm thấy yên tâm hơn hẳn khi thấy hai người hòa thuận với nhau đến mức này.”
Blue nắm khuỷu ta Nita dẫn bà ta qua đường. “Xe của bà đậu đằng kia.”
“Ta có mắt.”
“Anh sẽ ghé qua nhà lấy xe đạp trên đường quay về trang trại,” Dean gọi với theo. “Chúc hai người một ngày tốt lành nhé.”
Blue giả vờ như không nghe thấy.
“Đưa ta về nhà,” Nita nói khi đã yên vị trên ghế hành khách.
“Thế ngân hàng thì sao?”
“Ta mệt rồi. Ta sẽ viết séc cho cô.”
Chỉ ba ngày thôi, Blue tự nhủ trong lúc liếc mắt nhìn trộm về chiếc xe tải.
Dean đứng đó, một chân gác lên vòi nước chữa cháy và một cô nàng xinh đẹp trong vùng đang níu cánh tay anh.
Khi đã về đến nhà, Nita cứ nhất định bắt Blue đưa Tango đi dạo để làm quen. Vì Tango bị què và già đến nghìn tuổi rồi, Blue bèn để nó khò khò dưới một cây tú cầu trong khi cô ngồi bên lề đường khuất tầm nhìn từ ngôi nhà và cố không nghĩ về tương lai.
Nita dụ cô làm bữa trưa, nhưng đầu tiên Blue phải dọn dẹp nhà bếp đã. Trong lúc cô đang lau khô cái chảo cuối cùng thì một chiếc xe tải Ram màu bạc rẽ vào ngõ sau nhà. Cô nhìn Dean ra khỏi xe thu hồi chiếc xe đạp cô đã để ở cửa sau. Anh quăng nó lên sau xe tải, rồi quay về phía cửa sổ nơi cô đang đứng và chạm tay vào vành mũ cao bồi
Đầu tiên Jack nghe thấy tiếng nhạc, sau đó ông thấy April. Trời đã tối, mới qua mười giờ, bà ngồi trên bậc thềm trước đã lún xuống của ngôi nhà nhỏ bên dưới một cái đèn sắt cong cong, đang sơn móng chân. Những năm tháng như bị xóa nhòa. Trong cái áo bó màu đen và quần soóc hồng, bà trông giống cô gái hai mươi ông vẫn nhớ đến nỗi ông quên cả nhìn đường và vấp phải một cái rễ cây bên trong hàng rào cọc đã đổ nát.
April ngẩng lên. Rồi ngay lập tức lại cúi xuống. Tối qua ông đã làm bà rất khó chịu, và bà vẫn chưa quên.
Cả ngày hôm nay ông đã chứng kiến vẻ được việc đến tàn nhẫn của bà khi bà chỉ dẫn đám thợ sơn cuối cùng cũng đã xuất hiện lẻ tẻ, tranh cãi với một thợ hàn chì, giám sát việc dỡ một xe tải đầy đồ đạc, và đặc biệt tránh mặt ông. Chỉ có những ánh mắt đàn ông dõi theo bà là quen thuộc mà thôi.
Ông dừng lại ở bậc thềm thấp nhất và nghiêng đầu về phía tiếng nhạc lào khào. Bà ngồi trên chiếc ghế Adirondack cũ, chân chống lên chỗ ngồi. “Em đang nghe gì thế?” ông hỏi.
“Skullhead Julie.” Bà vẫn kiên định tập trung vào mấy ngón chân.
“Là ai thế?”
“Một nhóm alternative của L.A.” Mái tóc dài, lỉa chỉa xõa xuống mặt bà khi bà với ra đằng sau để hạ âm lượng xuống. Hầu hết phụ nữ ở độ tuổi của bà đều cắt tóc đi, nhưng bà chẳng bao giờ chạy theo trào lưu. Hồi đó khi tất cả những người khác đều để tóc uốn kiểu Farrah trong phim Những thiên thần của Charlie thì April lại chọn cách cắt ngắn cũn làm nổi bật nên đôi mắt xanh kỳ diệu và biến bà thành trung tâm chú ý.
“Em từng luôn là người đầu tiên nhận thấy tài năng mới,” ông nói.
“Tôi không còn thực sự duy trì được nữa rồi.”
“Tôi nghi ngờ điều đó.”
Bà thổi lên móng chân, một hành động khác để kiếm cớ cho ông ra rìa. “Nếu anh đến đón Riley thì đã muộn một tiếng rồi. Con bé mệt quá nên đã ngủ thiếp đi trong phòng ngủ thứ hai.”
Cả ngày nay ông hầu như chưa gặp Riley. Suốt buổi sáng con bé đi theo April, và đến chiều, nó lại đi cùng Dean trên chiếc xe đạp màu tím mà anh lôi xuống từ trên thùng chiếc xe tải mới. Khi họ quay lại, mặt con bé đã đỏ bừng và người đầy mồ hôi, nhưng nó cũng rất sung sướng. Lẽ ra ông nên là người mua xe đạp cho con bé, nhưng ông đã không nghĩ đến điều đó.
April thọc chổi sơn vào trong cái chai. “Tôi ngạc nhiên là anh lại mất lâu thế mới ra đây. Tôi có thể pha thuốc vào sữa của con bé hoặc nhồi vào đầu nó những câu chuyện về cái quá khứ đầy tai tiếng của anh.”
“Em đang tỏ ra hờn dỗi đấy.” Ông chống chân lên bậc thềm dưới cùng. “Tối qua tôi đúng là khó chịu thật. Tôi ra đây để xin lỗi.”
“Nói đi.”
“Tôi tưởng mình vừa mới nói rồi đấy thôi.”
“Nghĩ lại xem.”
Ông đáng phải nhận mọi thứ mà bà quăng vào ông và còn hơn thế nữa, nhưng ông không thể kìm một nụ cười khi bước lên mép hiên. “Em muốn tôi quỳ gối à?”
“Khởi đầu là thế.”
“Tôi sẽ quỳ, nhưng lại không biết cách quỳ thế nào. Quá nhiều năm mọi người đều hôn chân tôi rồi.”
“Thử xem.”
“Thế nếu tôi bắt đầu bằng cách thừa nhận em đã nói đúng thì sao,” ông nói. “Tôi không biết mình đang làm gì với con bé. Điều đó khiến tôi cảm thấy ngu ngốc và có lỗi, và vì tôi chẳng biết phải đối mặt với cả hai thứ cảm giác đó thế nào, nên tôi đã trút hết lên em.”
“Hứa hẹn đấy. Giờ nói nốt phần còn lại đi.”
“Cho tôi một gợi ý xem.”
“Anh đang sợ mất vía, và tuần này anh cần sự giúp đỡ của tôi.”
“Ừ, cả chuyện đó nữa.” Bất chấp vẻ gây gổ của bà, ông biết mình đã làm bà tổn thương. Gần đây dường như ông làm rất nhiều người tổn thương. Ông nhìn ra phía rừng cây nơi những con đom đóm đang bắt đầu biểu diễn. Lớp sơn tróc chà xát vào khuỷu tay khi ông tựa vào một cột trên hiên. “Ngay lúc này tôi sẽ đổi mọi thứ lấy một điếu thuốc.”
Bà thả chân xuống và co chân kia lên. “Tôi không nhớ thuốc lá nhiều lắm. Và cả ma túy nữa. Với tôi, vấn đề là rượu. Thật sợ hãi khi nghĩ đến việc sống nốt cuộc đời còn lại mà không có một ly vang hay margarita nào.”
"Có lẽ giờ em đã có thể giải quyết được chuyện đó."
"Tôi là một con nghiện," bà nói với vẻ chân thành khiến ông bối rối. "Tôi không bao giờ có thể uống lại nữa."
Từ trong nhà nhỏ, điện thoại của bà đổ chuông. Nhanh chóng đóng nắp lọ sơn, bà lao vào trả lời điện thoại. Khi cánh cửa đóng kính đóng sầm sau lưng bà, ông liền thọc tay vào túi quần. Hôm nay ông đã tìm thấy một bộ bản thiết kế, cho cái nhà thềm. Bố ông từng làm thợ mộc và Jack đã lớn lên cùng với các bản thiết kế và đồ nghề nằm xung quanh, nhưng ông không thể nhớ lần cuối cùng mình cầm một cái búa trong tay là khi nào.
Qua lớp cửa kính, ông nhìn vào trong phòng khách không người và nghe thấy giọng nghèn nghẹn của April. Quỷ tha ma bắt. Ông bước vào trong. Bà đứng quay lưng lại với ông, trán tì lên cánh tay đang chống vào từ bếp. "Anh biết tôi quan tâm nhiều thế nào mà," bà nói nhẹ nhàng đến nỗi ông suýt không nghe ra được từ nào. "Sáng mai gọi lại cho tôi, được không?"
Đã quá nhiều thập kỷ trôi qua ông mới cảm thấy những vết đâm ghen tuông này, ông bèn tập trung vào quyển sách giới thiệu nằm trên quầy. Ông vừa nhặt nó lên, bà liền đóng điện thoại lại chĩa về phía quyển sách. "Đó là một nhóm mà tôi tình nguyện tham gia."
"Phòng Trưng bày Trái tim à? Tôi chưa bao giờ nghe thấy."
"Nó được thành lập bởi những nhiếp ảnh gia chuyên nghiệp đã tình nguyện bỏ thời gian để chụp chân dung tuyệt vời về những đứa trẻ có thể được nhận nuôi trong hệ thống bảo trợ trẻ mồ côi. Chúng tôi trưng bày những tác phẩm đó ở các phòng trưng bày địa phương. Số ảnh đó có cá tính hơn nhiều so với đám ảnh thẻ mà các hoạt động xã hội yêu cầu, và rất nhiều trẻ em đã tìm thấy gia đình qua những lần trưng bày đó."
"Em đã làm chuyện này bao lâu rồi?"
"Khoảng năm năm." Bà quay trở ra ngoài thềm. "Tôi bắt đầu bằng việc tạo dáng chụp ảnh cho một nhiếp ảnh gia tôi quen - cho bọn trẻ mặc những bộ đồ phản ánh được tính cách của chúng, dàn dựng phục trang phong cảnh, giúp chúng cảm thấy thoải mái. Giờ tôi đang tự mình làm vài bức chân dung. Hay ít ra cũng là trước khi đến nơi này. Anh sẽ sốc khi thấy tôi thích công việc này thế nào đấy."
Ông bỏ quyển sách vào túi theo bà ra ngoài thềm. Ông muốn hỏi về người đàn ông trên điện thoại nhưng lại không làm thế. "Tôi ngạc nhiên là em chưa từng kết hôn."
Bà nhặt chai sơn móng tay lên và lại ngồi xuống chiếc ghế Adirondack. "Đến lúc đủ tỉnh táo để kết hôn thì tôi mất hứng thú rồi."
"Tôi không thể tưởng tượng ra em mà không có người đàn ông nào."
"Thôi moi móc đi."
"Không hẳn là moi móc. Chỉ đang cố xác định xem giờ em là ai thôi."
"Anh muốn định nghĩa tôi bằng việc đếm đầu người chứ gì," bà nói thẳng thừng.
"Tôi đoán vậy."
"Anh muốn biết liệu tôi có còn là cô gái hư duy nhất chịu trách nhiệm cho việc xuống dốc của vô số gã tốt đẹp nhưng đã quá yếu đuối nên không giữ chặt được khóa quần chứ gì?"
"Nói như thế..."
Bà thổi lên ngón chân cái. "Em tóc hạt dẻ tuần trước tôi thấy đi cùng với đoàn tùy tùng của anh là ai? Đầy tớ à?"
"Một trợ lý vô cùng đắc lực mà tôi chưa bao giờ thấy lúc khỏa thân. Vậy lúc này em có nghiêm túc với ai không?"
"Cực kỳ nghiêm túc. Với bản thân tôi."
"Vậy thì tốt."
Bà lau bỏ vết sơn dây bẩn. "Kể tôi nghe về anh và Marlin đi. Cuộc hôn nhân của anh kéo dài bao lâu? Năm phút à?"
"Một năm rưỡi. Câu chuyện cũ rích. Tôi bốn mươi hai và tưởng rằng đã đến lúc ổn định. Cô ấy trẻ, đẹp và đáng yêu - ít nhất lúc đó tôi nghĩ vậy. Tôi đã yêu giọng hát của cô ấy. Giờ vẫn còn yêu. Đến khi chúng tôi kết hôn thì những con quỷ mới lộ diện và cả hai phát hiện ra rằng chúng tôi ghét mọi thứ ở nhau. Tôi ở đây để nói với em rằng người phụ nữ đó không thích mỉa mai. Nhưng không phải cái gì cũng tệ. Tôi đã có Riley.”
Sau Marlin, ông có hai mối quan hệ khá dài đã được che đậy khá thành công trước báo giới. Dù ông quan tâm rất nhiều đến hai người phụ nữ ấy, nhưng có một điều cơ bản gì đó đã mất, lại thêm một cuộc hôn nhân thất bại phía sau nên ông chẳng còn hào hứng gì dấn thân vào cuộc hôn nhân mới.
Sơn móng chân xong, April đậy lắp lọ sơn lại và duỗi thẳng đôi chân dài miên man ra. “Đừng đưa Riley đi xa, Jack ạ. Đừng trại hè, đừng đến gần nhà em gái Marlin, và đặc biệt đừng đưa nó vào trường nội trú vào mùa thu. Hãy giữ nó lại với anh.”
“Tôi không thể làm thế. Tôi có một tua lưu diễn sắp đến. Tôi phải làm gì đây? Nhốt nó trong phòng khách sạn ư?”
“Anh sẽ tìm ra cách thôi.”
“Em đặt quá nhiều lòng tin vào tôi rồi.” Ông nhìn ra cái hàng rào đổ nát xập xệ đằng trước nhà. “Riley đã kể cho em nghe chuyện tối qua chưa? Với Dean ấy.”
Bà ngẩng phắt lên như con sư tử mẹ ngửi thấy mùi nguy hiểm cho đàn con. “Cái gì?”
Ông ngồi xuống bậc trên cùng kể bà nghe chính xác chuyện gì đã xảy ra. “Không phải tôi đang cố biện hộ,” ông nói sau khi kể xong, “nhưng lúc đó Riley đang gào thét, và Dean thì đang đuổi theo con bé.”
Bà bước ra khỏi ghế. “Nó sẽ chẳng bao giờ làm gì hại đến con bé. Tôi không thể tin anh lại tấn công nó. May cho anh là nó không vặn gãy cái cổ ngu ngốc của anh đấy.”
Bà nói đúng. Mặc dù vẫn giữ được sức khỏe để có thể trình diễn những đêm nhạc chất lượng cao vốn luôn là thương hiệu của mình, ông cũng khó là đối thủ của một cầu thủ chuyên nghiệp ba mươi mốt tuổi. “Đó chưa phải là tất cả.” Ông đứng dậy. “Sau đó, Dean và tôi đã nói chuyện, hay ít nhất tôi đã nói. Tôi đã phơi bày ra tất cả tội lỗi của mính. Hoàn toàn thành thật. Không cần phải nói, nó xúc động run cả lên.”
“Để yên cho nó đi, Jack,” bà mệt mỏi nói. “Nó đã phải nhận đủ thứ rác rưởi từ cả hai ta rồi.”
“Ừ.” Ông liếc về phía của. “Tốt hơn tôi không nên đánh thức Riley. Nó ngủ đây đêm nay được chứ?”
“Dĩ nhiên.” Bà quay người bước vào trong nhà, còn ông đã gần như bước xuống hết các bậc thềm. Gần như, chứ không hoàn toàn. “Chẳng lẽ em không tò mò chút nào sao?” ông hỏi, mắt nhìn thẳng vào bà. “Em không muốn biết giữa chúng ta lúc này là gì sao?”
Tay bà bất động trên tay cầm cửa kính. Trong một giây bà không nói gì, như khi lên tiếng, giọng bà đanh thép. “Một chút cũng không.”
Riley không thể nghe thấy April và bố nó đang nói gì, nhưng giọng của họ đã làm nó thức giấc. Nó cảm thấy ấm áp trên chiếc giường trong ngôi nhà nhỏ, biết rằng họ đang nói chuyện với nhau, ngoài kia. Họ đã cùng nhau tạo ra Dean, vậy nên hẳn là họ đã từng có thời gian yêu nhau lắm.
Con bé dùng ngón chân cái gãi ngứa cho bắp chân bên kia. Hôm nay nó quá vui đến nỗi quên mất phải buồn. April đã giao cho nó mấy việc rất hay, như đi tìm hoa để bó lại và lấy nước uống cho thợ sơn. Chiều nay nó đạp xe đạp cùng Dean. Đạp xe trên đất sỏi rất khó, nhưng anh lại chẳng gọi nó là đồ con lừa hay gì cả, anh còn bảo mai nó phải ném bóng cho anh để anh có thể tập luyện chút ít. Chỉ nghĩ đến chuyện đó thôi nó đã thấy bồn chồn rồi, nhưng cũng hào hứng lắm. Nó nhớ Blue, nhưng khi nó hỏi Dean về chị ấy, anh bắt đầu nói lảng sang chuyện khác. Riley hy vọng anh và Blue không chia tay. Mẹ nó cứ chia tay liên tục.
Nó nghe thấy tiếng April đi lại, thế nên nó kéo chăn lên cằm nằm im thin thít đề phòng April quyết định kiểm tra nó. Riley đã để ý thấy bà hay làm những chuyện kiểu đấy rồi.
Vài ngày tiếp theo trôi qua, Blue tự nhủ rằng thật may là Dean đã tránh xa vì cô phải viện đến tất cả trí khôn của mình để ứng phó với Nita. Thế nhưng. Cô nhớ anh quay quắt. Cô muốn tin rằng anh cũng nhớ cô nhiều không kém, nhưng sao anh phải thế chứ? Anh đã có những gì mình muốn rồi.
Một cảm giác cô độc quen thuộc chế ngự trong cô. Nita quyết định mình muốn có mặt trong bức chân dung cùng Tango, nhưng bà ta cũng muốn Blue vẽ bà ta trước đây, chứ không phải bây giờ. Chuyện này bao gồm cả việc đào bới một chồng sổ ảnh lưu niệm và album ảnh, móng tay sơn đỏ chót của Nita chọc vào từng trang từng trang một, chỉ ra những khiếm khuyết của tất cả những người mà bà ra đã chụp ảnh cùng – một tay bạn hướng dẫn viên khiêu vũ, một người bạn cùng phòng lẳng lơ, một loạt những gã đã phản bội bà.
“Bà có yêu quý ai không vậy hả?” sáng thứ Bảy Blue đã nổi khùng hỏi như vậy khi họ ngồi trên ghế sofa nhung len màu trắng trong phòng khách, xung quanh là một đống album ảnh.
Ngón tay xương xẩu của Nita lật một trang ảnh. “Lúc đó ta yêu quý tất cả bọn họ. Ta thật ngây thơ về bản chất con người.”
Bất chấp cơn điên tiết vì không thể bắt tay vào vẽ, Blue vẫn còn một cảm giác mê hoặc nhất định khi thấy cuộc đời của Nita trải ra từ những năm thiếu thời ở Brooklyn trong thời gian chiến tranh, đến những năm 1950 hay được nhắc đến vào đầu những năm 1960 khi bà ta bắt đầu dạy khiêu vũ dạ hội. Bà ta đã có một cuộc hôn nhân ngắn ngủi với một diễn viên mà bà ta gọi là “một tên nghiện rượu”, đi bán mỹ phẩm, làm người mẫu ở các cuộc triển lãm thương mại, và là nhân viên tiếp đón trong nhiều nhà hàng cao cấp khác nhau ở New york.
Vào đầu những năm 1970, bà ta gặp gỡ và kết hôn với Marshall Garrison. ảnh cưới của bà ta cho thấy một phụ nữ tóc bạch kim khêu gợi trang điểm mắt đậm theo kiểu tổ ong, đôi môi đánh nhạt trìu mến nhìn một người đàn ông lớn tuổi hơn trông thật nổi bật trong bộ vest trắng. Hông cô dâu thanh mảnh, đôi chân dài, da săn chắc và không có nếp nhăn, chính xác là loại phụ nữ khiến đàn ông mất trí.
"Ông ấy tưởng ta mới ba mươi hai," Nita nói. "Bản thân ông ấy thì hơn năm mươi, và ta đã làm mình ngất xỉu đi vì lo lắng về những gì ông ấy sẽ làm nếu phát hiện ra ta thực sự đã bốn mươi rồi. Nhưng ông ấy phát điên vì ta, và ông ấy chẳng quan tâm."
"Ở đây trông bà thật hạnh phúc. Chuyện gì đã xảy ra vậy?"
"Ta đã đến Garrison."
Lật trang album, Blue nhìn những nụ cười từ lo-lắng-đến-hài-lòng của Nita dần dần chuyển thành cay đắng. "Bức này chụp từ lúc nào?"
"Tiệc mừng giáng sinh năm thứ hai sau khi bọn ta kết hôn. Khi ta đã đánh mất ảo tưởng rằng mình có thể khiến tất cả mọi người yêu quý."
Vẻ mặt oán hận những vị khách nữ thể hiện chính xác những gì họ cảm thấy về kẻ xâm lược hỗn xược từ Brooklyn với đôi hoa tai to bự và chiếc váy siêu ngắn đã cuỗm mất công dân quan trọng nhất của thị trấn. Ở trang khác, Blue quan sát một bức ảnh chụp Nita đứng tách biệt ra trong một bữa tiệc ở sân sau nhà ai đó, nụ cười căng cứng trát lên mặt. Blue giở đến một bức ảnh của Marshall. "Chồng bà thật đẹp trai."
"Ông ấy cũng biết điều đó."
"Bà thậm chí còn chẳng thích ông ấy sao?"
"Lúc cưới ông ấy, ta tưởng rằng ông ấy có xương sống."
"Chắc bà đã hút nó ra khỏi người ông ấy trong lúc uống máu ông ấy rồi."
Môi dưới của Nita cong lại, rồi chép miệng choèn choẹt, cái cách yêu thích của bà ta để thể hiện sự không tán thành. Blue đã nghe thấy âm thanh chùn chụt khó chịu đó không biết bao nhiêu lần rồi.
"Đưa ta cái kính lúp," Nita ra lệnh. "Ta muốn xem liệu cái nốt ruồi của Bertie Johnson có nhìn thấy trong bức ảnh này không. Người phụ nữ tuềnh toàng nhất ta từng gặp, nhưng lại có gan chỉ trích quần áo của ta. Cô ta bảo với tất cả mọi người là ta phô trương. Ta đã chỉnh đốn cô ta rồi.”
“Dao hay súng?”
Chụt. Chụt. “Khi chồng cô ta mất việc, ta đã thuê cô ta đến lau dọn nhà cho ta. Quý cô Cao giá không thích chuyện đó chút nào, đặc biệt là khi ta luôn bắt cô ta phải dọn nhà vệ sinh đến hai lần.”
Blue không khó khăn gì hình dung ra cảnh Nita sai bảo Bertie Johnson tội nghiệp. Nita đã làm chính xác điều đó với cô trong suốt bốn ngày vừa qua. Bà ta ra lệnh cho cô làm bánh quy, bắt cô dọn phân Tango, và thậm chí còn bắt cô chịu trách nhiệm thuê người lau dọn mới – một nhiệm vụ đáng nản lòng, vì chẳng ai muốn làm việc cho bà ta cả. Blue đóng sập quyển album lại. “Tôi đã xem còn hơn cả đủ để có thể bắt đầu công việc rồi. Phác họa của tôi đã xong, và nếu chiều nay bà để tôi yên một lúc thì tôi có thể hoàn thành thứ gì đó.”
Nita không chỉ tuyên bố muốn có mặt trong bức tranh, mà còn quyết định bà ta muốn nó được vẽ ở kích thước lớn hơn, để bà ta có thể treo trong sảnh nghỉ. Blue đã đặt hàng vải vẽ đặc biệt và theo đó tăng giá lên. Cô đã quá dư thừa tiền bạc để bắt đầu lại ở một thành phố lớn.... giá như cô có thể ra khỏi Garrison, điều mà Nita đang cố hết sức ngăn chặn.
“Làm sao cô có thể vẽ được thứ gì tử tế khi mà lúc nào cũng nhớ nhung cái thằng cầu thủ bóng bầu dục đó chứ hả?”
“Tôi không nhớ nhung gì cả.” Blue gần như chẳng nhìn thấy anh kể từ lần gặp nhau trên phố hôm thứ Ba, và khi cô quay về trang trại để lấy đồ đạc thì anh đã đi mất.
Nita với cái ba toong. “Đối mặt đi. Quý cô Đao to Búa lớn. Cái được-cho-là-cuộc đính hôn của cô đã kết thúc rồi. Một gã đàn ông như thế muốn nhiều ở đàn bà hơn những gì cô có.”
“Bà vẫn luôn nhắc nhở tôi thế rồi còn gì.”
Nita nhìn cô vẻ tự mãn. “Tất cả những gì cô phải làm là nhìn vào gương.”
“Bà có bao giờ chết được không?”
Môi dưới của Nita cong lại, và bà ta phát ra một tiếng chụt ầm ĩ với mấy cái răng cửa. “Cậu ta đã làm trái tim cô tan vỡ, vậy mà cô không chịu thừa nhận điều đó.”
“Anh ấy không làm trái tim tôi tan vỡ. Cho bà biết nhé, tôi sử dụng đàn ông. Tôi không để họ sử dụng mình.”
“Ồ, phải rồi, cô là một Mata Harry[1] thực thụ mà.”
[1] Mata Harry (hay Mata Hari): nghê danh của Margaretha Geertruida, một vũ nữ người Hà Lan, làm điệp viên nhị trùng cho các đế quốc Pháp và Đức trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Mata Hari bị nước Pháp xử tử năm 1917 vì tội làm gián điệp
Blue cầm hai cuốn album. “Tôi sẽ lên phòng để có thể làm việc. Đừng có quấy rối tôi.”
“Cô không được đi đâu cả trước khi làm bữa trưa cho ta. Ta muốn một cái bánh sandwich phô mai nướng. Dùng phô mai Velveeta ấy, chứ không phải thứ rác rưởi cô đã mua.”
“Nó được gọi là Cheddar.”
“Ta không thích nó.”
Blue thở dài quay vào bếp. Ngay khi mở cửa tủ lạnh, cô nghe tiếng gõ ở cửa sau. Tim cô tròng trành. Cô vội chạy ra thì thấy đó là April và Riley. Dù rất mừng khi thấy họ nhưng cô không thể ngăn chút thất vọng. “Vào đi. Cháu nhớ hai người quá.”
“Bọn ta cũng nhớ cháu.” April vỗ lên má cô. “Đặc biệt là đồ ăn cháu nấu. Lẽ ra bọn ta đã ghé vào từ hôm qua, nhưng cô lại bị giữ lại nhà chính.”
Blue ôm Riley. “Trông em xinh quá.” Vì Blue gặp con bé từ năm ngày trước rồi, mái tóc dài, rối tung chẳng ra hình dạng gì của Riley đã được thay thế bằng mái tóc ngắn, xoăn xoăn khoe ra gương mặt bầu bầu cua con bé. Thay vì đám quần áo bó chặt, quá kiểu cách, giờ nó mặc quần sooc kaki vừa vặn cùng với cái áo đơn giản màu xanh làm nổi bật đôi mắt và hợp với làn da màu ô liu lúc này cũng không còn nhợt nhạt nữa.
“Ai ở đó thế?” Bà già hiện ra trên cửa bếp nhìn April bằng ánh mắt trừng trừng xem thường. “Chị là ai?”
Blue nhăn mặt. “Có phải tôi là người duy nhất nghe thấy tiếng vạc dầu sôi không?”
April mỉm cười. “Tôi là quản gia của Dean Robillard.”
“Blue vẫn đang nhớ nhung cậu chủ nhà chị đấy,” Nita nói như đúng rồi. “Cậu ta chẳng đến thăm lấy một lần, nhưng cô nàng không chịu thừa nhận là mọi việc đã kết thúc.”
“Tôi nhớ nhung bao giờ. Tôi...”
“Cô nàng cứ như sống trong truyện cổ tích, nghĩ rằng Bạch mã Hoàng tử sẽ đến cứu mình khỏi cuộc sống thảm hại.” Nita giật giật một trong ba chuỗi hạt trên cổ và chuyển sang nhìn đứa trẻ mười một tuổi với vẻ coi thường. “Tên mày là gì nhỉ? Ta nhớ là một cái tên rất kỳ cục?”
“Riley.”
“Nghe như tên con trai ấy.”
Blue chưa kịp chấn chỉnh Nita thì Riley đã lên tiếng. “Có thể. Nhưng nó còn hay hơn là Trinity.”
“Mày nghĩ thế thôi. Nếu ta có con, ta sẽ đặt tên nó là Jennifer.” Bà ta chỉ cây ba toong về phía cửa. “Vào phòng khách với ta. Ta cần một đôi mắt tinh đọc lá số tử vi cho ta. Có kẻ không chịu làm việc đó.” Bà ta trừng mắt nhìn Blue.
“Riley đến thăm tôi,” Blue nói, “và nó sẽ ở lại đây.”
“Cô lại chiều nó rồi.” Bà ta nhìn Riley vẻ không tán thành. “Nó đối xử với mày như trẻ con không bằng.”
Riley nhìn xuống chân. “Không hẳn thế.”
“Thế nào?” Nita hống hách nói. “Mày có đi với ta không thì bảo?”
Riley cắn môi. “Chắc cũng được.”
“Chờ đã.” Blue choàng tay qua vai Riley. “Em sẽ ở lại đây với chị.”
Trước sự ngạc nhiên của cô, Riley tránh ra chỉ sau một giây do dự. “Em không sợ bà ấy.”
Mũi Nita xì ra lửa. “Sao mày lại phải sợ ta? Ta thích trẻ con.”
“Làm thức ăn cho bữa tối,” Blue đáp trả.
Nita chép miệng rồi nói với Riley. “Đừng đứng đấy mãi thế.”
“Đứng lại ngay,” Blue nói khi Riley bắt đầu đi theo Nita về phía phòng khách. “Em là khách của chị, Riley, không phải của bà ấy.”
“Em biết, nhưng em nghĩ mình phải đi với bà ấy,” Riley nói vẻ cam chịu.
Blue và April nhìn nhau, April gật đầu khẽ đến mức gần như không thể nhận ra. Blue chống một tay lên hông và chỉ tay về phía Nita. “Tôi thề, nếu bà nói điều gì độc ác với con bé, tối nay tôi sẽ châm lửa đốt giường của bà sau khi bà đi ngủ. Tôi nói thật đấy, Riley, em phải kể với chị bà ta nói những gì đấy.”
Riley lo lắng xoa lên cánh tay. “Vâng... được ạ.”
Nita mím môi nói với April. “Chị có nghe cách nó nói chuyện với tôi không? Chị là nhân chứng đấy. Nếu có chuyện gì đó xảy ra với tôi, hãy gọi cảnh sát.” Bà ta quay sang Riley. “Ta hy vọng mày không khạc nhổ trong khi đọc. Ta không chịu được đâu đấy.”
“Không đâu, thưa bà.”
“Nói to lên. Và thẳng lưng lên xem nào. Mày cần học cách đi lại.”
Blue chờ vẻ mặt chiến bại ở Riley, nhưng đứa trẻ mười một tuổi hít vào thật sâu, so vai lại hiên ngang bước vào phòng khách. “Đừng để ý đến những gì bà ta nói,” Blue gọi với theo sau. “Bà ta độc ác từ trong kén rồi.”
Tiếng chụt chụt cuối cùng cũng hết.
Blue nhìn April. “Sao con bé lại đi với bà ta vậy ạ?”
“Nó đang thử thách bản thân đấy. Tối qua nó đưa Xù Bông ra ngoài khi trời đã tối để đi dạo dù không cần thiết, và sáng nay, khi thấy một con rắn ngoài hồ, nó đã buộc mình phải đi quanh bờ hồ để có thể nhìn con rắn gần hơn, mặc dù nó trắng nhợt như tờ giấy.” Bà ngồi xuống cái ghế mà Blue chỉ. “Thật bực bội. Con bé đã có gan bỏ trốn khỏi Nashville – câu chuyện phía sau sự kiện này sẽ làm cháu dựng tóc gáy đấy – và còn đứng đối đấu với bố nó, vậy mà nó lại cảm thấy cái gì mình cũng sợ.”
“Riley là một đứa trẻ tuyệt vời.” Blue liếc vào phòng khách để tự trấn an bản thân là Riley vẫn còn sống, rồi lôi hộp bánh quy khỏi tủ bát đem ra bàn.
“Làm sao cháu có thể chịu đựng mà sống được với bà già đó?” April lấy một cái bánh quy đường tự làm mà Blue chìa ra.
“Cháu rất dễ thích nghi.” Blue lấy bánh cho mình và ngồi xuống cái ghế mạ vàng đối diện với April qua bàn. “Riley là một đứa trẻ kỳ diệu.”
“Cô ngờ Dean chính là lý do phía sau thử thách bản thân này. Cô nghe lỏm được nó nói với con bé về sức mạnh tinh thần.”
Tin tức quý giá đây. “Cuối cùng anh ấy đã thừa nhận con bé rồi sao?”
April gật đầu kể Blue nghe chuyện gì đã xảy ra đêm thứ Hai vừa rồi, đó cũng chính là đêm Dean xuất hiện ở nhà xe lưu động và họ làm tình. Blue biết lúc đó anh đang bị tổn thương, nhưng giờ cô mới hiểu điều gì đã gây ra chuyện đó. Cô bẻ một miếng bánh và đổi chủ đề. “Mọi việc ở nhà thế nào rồi cô?”
April duỗi thân hình như mèo ra. “Đám thợ sơn đã xong việc, còn đồ đạc đang bắt đầu đến. Nhưng đám thợ lẽ ra phải xây cái hiên lại nhận một việc khác trong thời gian tẩy chay của Nita rồi nên không thể quay lại trong vòng hai tuần nữa. Cháu tin hay không thì tùy, Jack đã nhận việc đó. Ông ấy đã bắt đầu dựng khung từ thứ Tư.”
“Jack á?”
“Cứ mỗi khi cần thêm người, ông ấy lại quát Dean bắt đến giúp. Hôm nay họ đã làm việc cả buổi chiều mà hầu như chẳng nói với nhau câu nào.” Bà lấy cái bánh thứ hai lên. “Chúa ơi, bánh ngon quá. Cô không biết cháu và Dean cãi nhau vì chuyện gì, nhưng cô hy vọng hai đứa sẽ làm lành để cháu có thể quay về nấu ăn. Riley và cô đã phát ngán món ngũ cốc cùng với sandwich rồi.”
Giá như chuyện chỉ đơn giản như thế. “Xong bức chân dung này, cháu sẽ rời Garrison luôn.”
April có vẻ thất vọng, điều này khiến Blue thấy dễ chịu. “Vậy tình trạng đính hôn của hai đứa chính thức kết thúc à?”
“Bọn cháu đã đính hôn bao giờ đâu. Hai tuần trước Dean nhặt được cháu trên đường cao tốc ngoài Denver.” Blue kể cho bà nghe về Monty và bộ cánh hải ly.
April chẳng vẻ gì ngạc nhiên. “Cháu có cuộc sống thú vị thật đấy.”
Trong phòng khách, Riley đã đọc xong lá số tử vi của bà Garrison. Trong đó nói tình yêu sẽ xuất hiện, Riley thấy xấu hổ đến nỗi muốn bịa ra thứ gì khác, nhưng nó chẳng thể nghĩ ra điều gì. Riley ước gì nó ở trong bếp với April và Blue, nhưng Dean bảo nó không được để người khác biết họ làm nó sợ thế nào nữa. Dean bảo nó nên xem cách Blue tự lo cho chính mình và làm giống thế, có điều không được đánh ai, trừ trường hợp bắt buộc phải làm thế.
Bà Garrison giật lấy tờ báo như sợ Riley ăn cắp mất. “Người phụ nữ trong bếp ấy. Ta nghĩ tên chị ta là Susan. Ta nghe người thị trấn nói vậy.”
Không ai ngoài Blue biết April là mẹ Dean. “Cháu nghĩ April có thể là tên đệm của bác ấy.”
“Mày có họ hàng với chị ta à? Mày làm gì ở trang trại?”
Riley chọc chọc tay vào ghế sofa. Nó ước gì có thể bảo với bà Garrison rằng Dean Robillard là anh trai nó. “April là bạn của gia đình. Bác ấy giống như ... mẹ kế của cháu.”
“Hừm.” Bà Garrison nhìn nó chằm chằm. “Hôm nay trông mày khá hơn tuần trước.”
Ý bà ta muốn nói đến tóc Riley. April đã đưa nó đi cắt tóc, và họ cũng mua thêm ít quần áo mới. Mặc dù mới chỉ một tuần nhưng bụng Riley dường như không còn phì ra quá nhiều nữa, có lẽ bởi vì nó chẳng còn nhiều thời gian để buồn chán hay ăn uống. Bất cứ khi nào muốn ra nhà nhỏ của April là nó phải đi bộ, và nó phải chăm sóc Xù Bông. Vụ đạp xe qua mấy con dốc cũng rất mệt, rồi Dean còn bắt nó ném bóng nữa. Đôi khi nó ước gì hai anh em có thể chỉ ngồi nói chuyện, nhưng lúc nào anh cũng thích làm gì đó. Nó bắt đầu nghĩ có thể anh mắc chứng tăng động giảm chú ý giống như Benny Phaler, hoặc có thể chỉ vì anh là con trai và còn là cầu thủ bóng bầu dục nữa.
“Cháu đã cắt tóc,” nó nói. “Hơn nữa, không có nhiều đồ ăn vặt xung quanh lắm, cháu còn đạp xe rất nhiều.”
Môi bà Garrison nhăn nhúm hết cả lại và Riley thấy lớp son hồng của bà lọt cả vào mấy nếp gấp. “Lần trước Blue trở nên láo toét ở nhà hàng Jossie chỉ vì tao bảo mày béo.”
Riley vặn tay trong lòng và nhớ lại Dean đã bảo nó phải tự đứng lên bảo vệ chính mình. “Cháu biết cháu béo. Nhưng nói chung những gì bà nói làm cháu bị tổn thương.”
“Vậy thì mày phải thôi quá nhạy cảm đi khi rõ ràng là người khác đang có một ngày tồi tệ. Hơn nữa, giờ trông mày có béo nữa đâu. Thật tốt là mày đang cải thiện chuyện đó.”
“Không phải cố tình.”
“Chẳng quan trọng. Mày nên học khiêu vũ để có thể di chuyển tốt hơn. Trước đây ta đã dạy khiêu vũ dạ hội.”
“Cháu có học ba lê một thời gian, nhưng không giỏi chút nào, vậy nên cháu bỏ.”
“Lẽ ra mày nên bám lấy nó. Ba lê xây dựng lòng tự tin.”
“Cô giáo bảo với aupair của cháu là cháu vô vọng lắm.”
“Và mày bỏ qua cho cô ta à? Lòng tự trọng của mày đâu rồi?”
“Cháu không nghĩ là mình có nhiều tự trọng lắm.”
“Đã đến lúc phải có đôi chút rồi. Cầm cuốn sách đầu kia lại đây, đặt nó lên đầu, và bước đi xem nào.”
Riley không muốn, nhưng nó vẫn băng qua phòng đến chỗ cái bàn thiên nga vàng và đặt quyển sách nó thấy ở đó lên đầu. Quyển sách trượt xuống ngay. Con bé nhặt lên thử lại lần nữa, có vẻ khả quan hơn.
“Xoay ngón tay cái chĩa thẳng về phía trước,” bà Garrison ra lệnh. “Như thế ngực sẽ ưỡn ra và lưng thẳng lên.”
Riley thử làm theo và kết luận là nó cảm thấy cao hơn, người lớn hơn.
“Đấy. Cuối cùng trông mày cũng giống người có chính kiến rồi đấy. Ta muốn mày từ giờ trở đi bước đi như thế này, hiểu chưa?”
“Vâng, thưa bà.”
April thò đầu vào. “Đến giờ về rồi, Riley.”
Quyển sách trượt khỏi đầu Riley, nó liền cúi xuống nhặt lên. Mắt bà Garrison nheo lại thành hai khe hẹp, như kiểu bà ta sắp sửa nói gì cực nhẫn tâm về việc Riley béo và vụng về, nhưng bà ta chẳng nói gì như thế. “Có muốn làm việc không, cô gái?”
“Làm việc ấy ạ?”
“Rửa sạch ráy tai đi. Tuần tới quay lại đây và mày có thể dắt Tango đi dạo cho ta. Blue thật vô dụng. Nó bảo sẽ dắt Tango đi dạo, nhưng tất cả những gì cô nàng làm là đưa thằng bé khuất ra sau góc rồi để nó ngủ.”
“Vì nó đã quá già để đi dạo rồi,” Blue nói với vào từ bếp.
Các nếp nhăn xếp lại giữa hai hàng lông mày của bà Garrison như thể bà ta nghĩ rằng mình cũng đã quá già để mà đi dạo. Chẳng hiểu sao thấy thế Riley lại ít sợ bà ta hơn. Nói chung con bé cũng thích điều bà Garrison vừa nói, rằng cuối cùng nó cũng trông giống người có chính kiến. Bác April, anh Dean và bố nó lúc nào cũng nói những lời nhẹ nhàng với nó, nhưng họ chỉ đang cố xây dựng lòng tự tôn cho nó, và Riley chẳng tin họ. Bà Garrison chẳng quan tâm đến những thứ như lòng tự tôn, nên nếu bà ta bảo cái gì đó là hay thì chắc là đúng thôi. Riley quyết định sẽ luyện tập thêm với quyển sách khi quay lại trang trại.
“Blue, đưa túi xách của ta lại đây!”
“Trong đó có súng không thế?” Blue đáp trả.
Riley không thể tin được cách Blue nói chuyện với bà Garrison. Bà Garrison phải thực sự, thực sự cần Blue lắm chứ không thì đã đuổi chị ấy đi rồi. Con bé tự hỏi không biết Blue có nghĩ đến điều đó chưa.
Khi đã có túi xách, bà rút một tờ năm đô đưa cho Riley. “Đừng lấy tiền này mua kẹo hay thứ gì béo đấy.”
Bố Riley luôn cho nó tiền hai mươi đô, và nó chẳng cần thêm tiền, nhưng từ chối là bất lịch sự. “Cảm ơn, bà Garrison.”
“Chỉ cần nhớ những gì ta nói về tư thế của mày.” Bà ta sập túi xách lại. “Tuần sau Blue đến trang trại để đón mày.”
“Cháu không chắc lúc đó cháu còn ở đây,” Riley nói. Bố nó chẳng nói với nó khi nào sẽ rời khỏi đây, và nó sợ phải hỏi ông, vì hơn bất kỳ điều gì, nó muốn ở lại trang trại suốt phần đời còn lại.
Trên đường về nhà, April với sang vỗ lên chân Riley. Bà không nói gì, chỉ vỗ. Bà cũng đã ôm và vuốt tóc Riley rất nhiều rồi bảo nó nhảy với mình. Đôi khi April xử sự như một người mẹ, có điều không phải lúc nào bà cũng nói về chuyện phát phì và bạn trai. Thêm nữa, mẹ Riley chưa bao giờ chửi thề như April. Riley rất thích mùi của April, giống như mùi gỗ, mùi hoa và giấy sổ xoắn gáy. Nó sẽ chẳng bao giờ nói thành lời, nhưng đôi khi ở cùng với April thậm chí còn thích hơn ở với Dean, vì như thế nó không phải chạy theo sau quả bóng suốt.
Con bé nhoẻn cười, mặc dù nó vẫn còn cả đống thứ phải lo lắng. Nó nóng lòng kể cho Dean nghe là nó đã ở một mình với bà Garrison, và bà ấy gần như chẳng còn đáng sợ chút nào nữa.