Tháng 4 năm 2003
Baghdad, Irắc
Hai cậu bé đứng bên ngoài chuồng sư tử.
Đứa nhỏ hơn nói: “Em không muốn vào trong đó.” Nó nhích lại gần anh trai và nắm chặt lấy tay anh.
Cả hai đóng thùng, mang áo khoác quá khổ so với vóc người nhỏ nhắn, mặt quấn khăn choàng, đầu đội mũ len giữ ấm. Sáng sớm, khi mặt trời còn chưa lên, cái lạnh của buổi rạng đông thấm vào sâu tận xương.
Chúng phải tiếp tục đi.
“Bari, cái chuồng trống rỗng. Đừng như một thằng ngốc vậy. Nhìn này.” Makeen, đứa lớn hơn, đẩy cái cổng sắt màu đen mở rộng ra và để lộ bức tường bê tông trơ trọi phía trong. Vài khúc xương gặm dở chất đống trong một góc tối. Chúng có thể dùng làm món canh ngon.
Makeen nhìn chăm chăm vào tàn tích của vườn thú. Cậu bé nhớ về vườn thú trước đây. Nửa năm trước, vào sinh nhật thứ mười hai của cậu, chúng đến đây dã ngoại tại Vườn Al-Zawraa với khu vui chơi và vườn thú. Cả gia đình đã dành một buổi chiều dài ấm áp dạo xem các chuồng khỉ, vẹt, lạc đà, chó sói, gấu. Makeen thậm chí còn cho một con lạc đà ăn táo. Makeen vẫn nhớ cái lưỡi như cao su liếm vào tay mình.
Giờ đây, cậu đứng nhìn công viên đó nhưng với đôi mắt già dặn hơn, lớn hơn nhiều so với nửa năm trước. Công viên ngổn ngang đá gạch vỡ và rác rưởi. Nó bị bỏ hoang, bị nguyền rủa với những bức tường cháy đen, nước nhầy nhụa trong các hồ hôi thối, và những tòa nhà bị thổi tung.
Một tháng trước, từ căn hộ gần công viên, Makeen đã nhìn thấy một cuộc đọ súng dữ dội dọc những khu vườn sum suê, giữa quân Mỹ và cảnh sát của Đảng Cộng hòa. Trận chiến khốc liệt nổ ra lúc hoàng hôn, tiếng súng râm ran và tiếng rít của bom đạn dội suốt đêm.
Nhưng đến sáng hôm sau, mọi thứ đã trở nên yên tĩnh. Khói giăng dày đặc che khuất mặt trời cả ngày. Từ ban công căn hộ nhỏ, Makeen phát hiện một con sư tử trèo ra khỏi công viên và đi vào thành phố. Nó di chuyển như cái bóng, rồi mất hút ở đường phố. Những con thú khác cũng bỏ trốn, nhưng khoảng hai ngày sau, người ta đã vây bắt chúng trở về công viên.
Cha cậu gọi hai đứa là Đồ kẻ cướp, nhổ nước bọt lên sàn, nguyền rủa bằng ngôn ngữ tục tĩu.
Mấy cái chuồng bị đập mở toang. Các con thú bị đánh cắp, có lẽ là để làm thức ăn, nhưng nhiều con còn bị bán ra chợ đen ở sông, mở đường cho việc buôn lậu động vật quý hiếm sang phương Tây. Cha của Makeen đã đi cùng vài người khác để xin giúp đỡ bảo vệ địa bàn của họ khỏi các nhóm bạo động.
Ông đã không bao giờ trở lại. Không ai trong số họ.
Vài tuần trôi qua, gánh nặng nuôi sống gia đình đè lên vai Makeen. Mẹ cậu nằm liệt giường, trán sốt bừng bừng, mê man trong sự khiếp sợ và sầu khổ. Tất cả những gì Makeen có thể làm là giúp bà uống vài ngụm nước.
Nếu như cậu có thể nấu một tô cháo ngon, giúp bà ăn thêm gì đó...
Cậu lại nhìn những khúc xương trong chuồng. Mỗi sáng, cậu cùng em trai dành một tiếng trước bình minh lục lọi công viên và vườn thú bị giội bom tìm bất cứ gì đánh cắp được để ăn. Cậu vác một cái túi trên vai. Trong đó có một quả cam mốc meo và nắm hạt giống nứt nẻ gom trên sàn của một chuồng chim. Bé Bari cũng tìm thấy một hộp đậu móp méo trong thùng rác. Makeen vui ứa nước mắt. Cậu cuộn kho báu vào trong chiếc áo len dày của em trai.
Hôm qua, một thằng lớn hơn cầm con dao dài đã cướp cái túi, khiến Makeen đi tay không trở về. Chúng không có gì để ăn trong ngày hôm đó.
Nhưng hôm nay chúng sẽ được ăn ngon.
Mẹ mình cũng sẽ được ăn ngon, inshallah, cậu bé cầu nguyện.
Makeen bước vào chuồng và kéo Bari theo. Tiếng súng nổ đùng đùng ở đâu đó, như tiếng đập tay giận dữ cảnh báo chúng đi khỏi.
Makeen chú ý. Cậu biết là chúng phải khẩn trương. Cậu không muốn ra ngoài khi mặt trời đã lên. Điều đó quá nguy hiểm. Cậu vội vã chạy đến chỗ đống xương, bỏ túi xuống và bắt đầu quơ mấy khúc xương gặm dở cùng mấy khúc cây gãy vào trong.
Ngay khi xong việc, cậu túm túi lại và đứng lên. Nhưng trước khi cậu kịp bước đi, một giọng Ả Rập vang lên gần đó.
“Yalla! Lối này! Ở đây!”
Makeen thụp xuống và kéo Bari cúi xuống theo. Chúng núp đằng sau một bức tường cháy xám cao đến đầu gối ngay trước chuồng sư tử. Cậu ôm chặt lấy em mình, cố dỗ nó im lặng khi có hai cái bóng lớn lướt qua trước chuồng sư tử.
Mạo hiểm nhìn trộm, Makeen thoáng thấy hai người đàn ông. Một gã cao lớn mặc quân phục kaki. Gã lùn còn lại có bụng mập tròn, mặc bộ đồ màu tối.
Gã mập nói khi đi ngang qua chuồng, “Lối vào được giấu sau phòng khám vườn thú.” Hắn gắt và thở khò khè, cố bắt kịp những sải chân dài của tên mặc quân phục. “Ta chỉ có thể cầu là chúng ta đã không quá trễ.”
Makeen phát hiện ra khẩu súng lục giắt ngang thắt lưng của tên cao to, biết rằng cậu sẽ chết nếu bị bắt gặp đang nghe lén.
Bari rùng mình, cũng cảm nhận được sự nguy hiểm.
Thật không may, hai người đàn ông không đi xa. Phòng khám nằm ngay đối diện chỗ ẩn nấp của chúng. Gã mập không để ý cánh cửa chính méo mó. Vài ngày trước, người ta đã dùng xà beng cạy ra. Các dụng cụ đã được làm sạch bằng các loại thuốc và vật tư y tế.
Thay vào đó, dáng người nặng nề bước về phía một bức tường trống, đỡ bằng hai cây cột. Makeen không thể thấy rõ người đàn ông đã làm gì vì hắn để tay đằng sau một cái cột, nhưng một lúc sau, một phần của bức tường xoay mở ra. Đó là cánh cửa bí mật.
Makeen nhích lại gần hơn. Cha đã đọc cho chúng nghe về Alibaba, các truyện cổ về những hang động bí mật và kho báu đánh cắp giấu trong sa mạc. Mọi thứ cậu và em trai tìm thấy tại vườn thú chỉ là xương và đậu. Dạ dày Makeen kêu lên khi cậu tưởng tượng một bữa tiệc thịnh soạn dành cho Hoàng tử của những Tên Trộm chờ ở phía dưới.
“Ở yên đấy,” gã mập nói, họ luồn qua lối đi và men theo những bậc thang tối.
Gã quân nhân nhặt một tờ giấy ở cửa lên. Tay đặt trên khẩu súng lục. Ánh mắt rà soát nơi ẩn nấp của hai anh em. Makeen thụp xuống khỏi tầm mắt của hắn và nín thở. Tim nó muốn nhảy ra khỏi lồng ngực.
Cậu có bị lộ không?
Những bước chân tiến lại gần cái chuồng. Makeen giữ chặt lấy em trai mình. Nhưng một khoảnh khắc sau, cậu nghe thấy tiếng đánh diêm và ngửi thấy khói thuốc. Người đàn ông bước tới bước lui trước chuồng như thể con cọp chán ngán vì bị nhốt trong chuồng.
Bari run rẩy trong vòng tay Makeen. Những ngón tay của Bari kẹp cứng trong tay cậu. Điều gì sẽ xảy ra nếu người đàn ông lại gần cái chuồng và phát hiện chúng nấp ở đó?
Cậu tưởng như họ sẽ ở đó mãi mỗi khi cậu nghe giọng khò khè quen thuộc vọng lại ở cửa. “Tôi có chúng rồi!”
Điếu thuốc rơi xuống và lăn trên sàn xi măng ngay bên ngoài cửa chuồng. Gã quân nhân quay ngược trở lại chỗ đồng bọn.
Gã mập vừa thở hổn hển vừa nói. Chắc hắn vừa đi về cả đoạn đường dài. “Các lò ấp đã tắt,” hắn nói. ”Tao không biết cái máy sẽ hoạt động trong bao lâu sau khi cắt năng lượng.”
Makeen mạo hiểm nhìn lén qua những song chắn cửa chuồng. Gã mập cầm trong tay một chiếc cặp lớn bằng kim loại.
Gã quân nhân hỏi, “Chúng có an toàn không?” Hắn cũng nói tiếng Ả Rập nhưng ngữ điệu không phải của người Irắc.
Gã mập quỳ một gối giữ cái cặp thăng bằng trên bắp đùi béo phị, ngón tay mở ổ khóa. Makeen nghĩ đó là vàng và kim cương, nhưng thay vào đó, cái cặp không chứa gì ngoài mấy quả trứng màu trắng bọc trong bọt biển đã nổi mốc đen. Chúng trông không khác trứng gà mẹ cậu mua ở chợ.
Dù lo sợ, nhìn mấy quả trứng khiến bụng Makeen sôi lên.
Gã mập đếm và kiểm tra trứng. “Tất cả đều nguyên vẹn,” hắn nói và thở phào nhẹ nhõm. “Ơn Chúa, những cái phôi bên trong vẫn còn phát triển được.”
“Vậy còn phần còn lại của phòng thí nghiệm?”
Gã mập đóng cái cặp lại và đứng lên. “Tôi sẽ để cho đội của anh thiêu hủy những gì nằm bên dưới. Không một ai được biết về những gì chúng ta tìm ra. Không được có bất kì dấu vết nào.”
“Tôi hiểu chỉ thị rồi.”
Khi gã mập đứng lên, gã quân nhân giương súng và bắn thẳng vào mặt đồng bọn. Tiếng nổ rền như tiếng sấm. Gã mập chết đứng một lúc rồi ngã xuống mặt đất.
Makeen bịt chặt miệng để không lọt ra âm thanh nào.
“Không dấu vết,” tên sát nhân lặp lại và cầm lấy cái cặp trên sàn. Hắn chạm vào điện đàm trên vai. Chuyển sang nói tiếng Anh.
“Mang vào trong xe tải và châm lửa đốt cháy. Đến lúc ra khỏi chỗ này trước khi cảnh sát địa phương kéo đến.”
Makeen đã từng học lõm bõm vài câu tiếng Anh.
Cậu không nghe hết được từng từ, nhưng hiểu được nội dung lời nhắn.
Nhiều người nữa đến. Mang theo nhiều súng.
Makeen cố tìm cách trốn thoát, nhưng chúng đang kẹt trong chuồng sư tử. Có lẽ em trai cậu cũng nhận ra mối nguy hiểm đang lớn dần. Bari run hơn nữa khi nghe tiếng súng. Cuối cùng, nỗi sợ của đứa em trai nhỏ không thể kìm nén được nữa, một tiếng nấc vọt ra khỏi thân hình gầy gò của nó.
Makeen siết chặt em mình và cầu cho tiếng khóc không bị nghe thấy.
Những bước chân lại tiến tới gần. Một giọng sắc nhọn quát về phía chúng bằng tiếng Ả Rập. “Ai đó? Ra đây mau! Ta’aal hnaa!”
Makeen đặt môi thì thào vào tai em. “Trốn ở đây. Không được ra.”
Makeen kéo Bari vào sâu trong góc, rồi đứng giơ hai tay lên không trung. Nó lùi một bước. Makeen nói, lắp bắp, rồi nói nhanh, “Tôi chỉ kiếm thức ăn!”
Khẩu súng chĩa thẳng về phía cậu. “Bước ra đây! Walad!”
Makeen làm theo. Cậu tiến gần lại cửa chuồng và chui ra, vẫn giơ hai tay đầu hàng. “Làm ơn, ahki. Laa termi!” Cậu cố dịch sang tiếng Anh, để thể hiện rằng cậu về phe của người đàn ông. “Không bắn. Tôi không thấy... Tôi không biết...”
Cậu bé cố tìm lí do, những từ để cứu mình. Cậu nhìn biểu hiện trên gương mặt người đàn ông – một sự trộn lẫn giữa đau buồn và hối tiếc.
Khẩu súng lục giương cao hơn, tàn nhẫn hơn.
Makeen cảm nhận nước mắt nóng hổi chảy trên má.
Mắt cậu nhòe đi, cậu nhìn thấy lờ mờ một cái bóng. Phía sau người đàn ông, cánh cửa bí mật mở ra từ phía trong. Một hình thù to lớn, tối đen đi ra và chồm tới sau lưng người đàn ông. Nó di chuyển thấp và ẩn vào bóng tối, như thể sợ ánh sáng.
Makeen thấy rõ bộ dạng nhầy nhụa của nó: cơ bắp, rắn chắc, không có lông, đôi mắt lóe lên vẻ giận dữ. Tâm trí cậu đấu tranh cố nắm bắt được những điều cậu nhìn thấy – nhưng không được.
Một tiếng thét ghê rợn vang lên trong lồng ngực cậu.
Mặc dù con thú không hề tạo ra tiếng động, người đàn ông chắc đã cảm thấy lời cảnh báo. Hắn quay lại khi con vật vồ đến với tiếng gầm lớn. Súng nổ, bị át đi bởi tiếng gào hoang dại làm Makeen dựng tóc gáy.
Makeen quay phắt lại và chạy về phía cái chuồng. “Bari!”
Cậu nắm lấy cánh tay em và kéo ra khỏi chuồng sư tử. Cậu đẩy Bari về phía trước. “Yalla! Chạy đi!”
Ở phía bên kia, người đàn ông và con quái thú đang vật lộn.
Có thêm nhiều tiếng súng nổ.
Makeen nghe thấy tiếng bước chân nặng nề trên vỉa hè phía sau. Rất nhiều người đang chạy đến từ phía bên kia vườn thú. Tiếng thét ngắt quãng bởi những tiếng nổ.
Mặc kệ, Makeen bỏ chạy trong nỗi khiếp sợ từ khu vườn bị giội bom, không quan tâm ai sẽ nhìn thấy cậu. Cậu cắm cúi chạy mãi, đuổi theo cậu là tiếng hét mà có lẽ sẽ mãi mãi ám ảnh cậu.
Cậu không hiểu về những gì đã xảy ra. Cậu chỉ biết chắc chắn một điều. Cậu nhớ lại ánh mắt đói khát của con quái thú, sáng lên vẻ xảo quyệt khôn lường, đỏ rực khói lửa.
Makeen biết cậu đã nhìn thấy gì.
Con quái thú là quỷ Satan trong kinh Koran – được sinh ra bởi lửa Chúa và bị nguyền rủa vì không cúi chào Adam.
Makeen biết sự thật.
Cuối cùng, con quỷ đã đến Baghdad.
* * *
23 tháng 5 năm 2010
7:32 sáng
New Orleans
Chiếc Bronco cán qua những mảnh vụn để lại sau cơn bão và lại dằn xóc vì một ổ gà trên đường. Lorna suýt đụng đầu vào nóc cabin. Chiếc xe trượt hẳn sang trái vì con đường ướt mưa. Cô thả lỏng chân ga, cố tìm cách điều khiển.
Cơn bão quật tung cây cối, tuôn nước tràn bờ kênh, và thậm chí cuốn đến một con cá sấu vào hồ bơi của ai đó. May mắn là phần tệ nhất của cơn bão chết người xảy ra ở xa hơn về phía tây. Tuy vậy, với những trận mưa trút nước, Mẹ Thiên Nhiên có vẻ như quyết định biến Giáo xứ Orleans trở lại thành những khu đầm lầy.
Khi Lorna tăng tốc men theo đường sông, mọi thứ cô có thể nghĩ tới là một cú điện thoại. Khoảng hai mươi phút trước. Họ đã mất điện tại ACRES. Các máy phát điện ngừng hoạt động, và cả trăm dự án nghiên cứu đang bị đe dọa.
Khi cô đi vòng quanh khúc cuối sông Mississippi, khu liên hợp hiện ra trước mặt. Trung Tâm Nghiên Cứu Các Sinh Vật Đang Bị Đe Dọa Audubon chiếm hơn bốn cây số vuông về phía cửa sông từ New Orleans. Mặc dù hợp tác với vườn thú thành phố, ACRES không mở cửa cho công chúng. Ẩn trong một khu rừng rộng, khu đất có một số đồn điền ngoài trời, nhưng trụ sở chính là một tòa nhà nghiên cứu rộng 3.350 mét vuông bao gồm nửa tá phòng thí nghiệm và một bệnh viện thú y.
Phía sau là nơi Tiến sĩ Lorna Polk làm việc sau khi học xong tiến sĩ về lĩnh vực y học động vật hoang dã và vườn thú. Cô giám sát một vườn thú đông lạnh của trụ sở, mười hai thùng nitơ lỏng dùng cho bảo quản tinh trùng, trứng và phôi của hàng trăm loài thú đang bị đe dọa tuyệt chủng: gomzrilla núi, hổ Sumatra, linh dương Thomson, khỉ colobus, trâu Châu Phi.
Đó là một vị trí quan trọng, đặc biệt là đối với người chỉ mới hai mươi tám tuổi và vừa ra trường. Trách nhiệm của cô - bảo quản ngân hàng gen đông lạnh - hứa hẹn đưa các loài động vật bị đe dọa trở lại từ bờ vực tuyệt chủng bằng phương pháp thụ tinh nhân tạo, phôi chuyển hóa và nhân bản vô tính. Đến giờ, mặc dù chịu nhiều áp lực, cô vẫn yêu và làm tốt công việc của mình.
Khi cô băng nhanh xuống lối hướng về trụ sở chính, điện thoại di động đổ chuông. Cô chộp lấy, áp vào tai trong khi lái xe bằng tay còn lại.
Người gọi chắc đã nghe thấy tín hiệu bắt máy và nói rất nhanh. “Tiến sĩ Polk. Gerald Granger ở ban kỹ thuật đây. Tôi nghĩ cô nên biết điều này. Chúng ta có vài cái máy phát điện hoạt động và đã tách được lượng điện bị mất sang một mạng điện xuôi chiều.”
Cô liếc nhìn đồng hồ trên xe. Điện đã được chuyển trong khoảng bốn mươi lăm phút. Cô tính nhẩm trong đầu và thở phào nhẹ nhõm.
“Cảm ơn, Gerald. Tôi sẽ có mặt ở đó trong một phút nữa.”
Cô gập điện thoại tắt máy.
Đến bãi giữ xe nhân viên, cô đỗ xe và ngả đầu thư giãn trên tay lái. Cô gần như khóc vì thấy nhẹ nhõm, gần như là vậy. Sau khi dành một phút bình tĩnh lại, cô ngồi thẳng dậy và nhìn xuống đôi bàn tay, đột nhiên nhận ra bộ quần áo cô đang mặc. Cô đã chạy ra khỏi căn nhà trong chiếc quần bò nhăn nheo, một chiếc áo len xám cũ mèm và đi ủng.
Không phải vẻ chuyên nghiệp mà cô thường giữ.
Xoay người bước ra khỏi chiếc Bronco, cô thấy mình trong gương chiếu hậu.
Ôi, lạy Chúa...
Mái tóc vàng – thường được tết gọn gàng – được cô cột chặt thành tóc đuôi ngựa sáng nay. Những sợi tóc bù xù càng làm bộ dạng cô trông luộm thuộm. Cặp kính gọng đen lệch hẳn trên sống mũi. Bây giờ nhìn cô giống như một sinh viên đại học say khướt trở về từ tiệc Mardi Gras.
Nếu nhìn từ trên xuống dưới, cô cũng thấy tương tự. Cô kéo kẹp ra để tóc xõa trên vai, rồi leo ra khỏi xe tải và băng qua phía cổng chính.
Trước khi cô tới được cửa chính của trụ sở, một tiếng ồn thu hút sự chú ý của cô: tiếng động cơ ùm oàm. Cô quay về hướng dòng sông Mississippi. Một chiếc trực thăng màu trắng bay lướt qua phía trên hàng cây và hướng về phía cô. Bay đến rất nhanh.
Cô cau mày, một bàn tay đặt lên vai cô từ phía sau. Cô khẽ giật mình, nhưng những ngón tay nắm chặt trấn an. Cố liếc nhìn nhận ra sếp và người cố vấn của mình, Tiến sĩ Carlton Metoyer, người đứng đầu ACRES. Bị át bởi tiếng ồn của trực thăng, cô đã không nghe thấy tiếng ông bước đến.
Hơn cô ba mươi tuổi, ông có dáng cao, da sạm đen rắn chắc, mái tóc bạc và bộ râu xám tỉa gọn. Gia đình ông đã ở vùng này lâu như gia đình Lorna, từ thời thuộc địa Creole ở sông Cane, di sản để lại của người Pháp và người gốc Phi.
Tiến sĩ Metoyer che mắt ngước nhìn bầu trời.
“Chúng ta có khách,” ông nói.
Rõ ràng chiếc trực thăng hướng thẳng đến ACRES. Nó rà sát mặt đất và bắt đầu đáp. Cô nhận ra chiếc trực thăng nhỏ của hãng A-Star được trang bị phao nổi thay vì những nạng đuôi hạ cánh thông thường. Cô cũng nhận ra những vệt sơn màu xanh lá cây dọc trên lớp sơn trắng của chiếc trực thăng. Sau trận bão Katrina, hầu hết người dân ở New Orleans biết dấu hiệu đó. Đó là một trong những chiếc trực thăng Tuần Tra Biên Giới; hạm đội trực thăng mang ý nghĩa sống còn đối với việc giải cứu và bảo đảm an ninh sau thiên tai.
“Họ làm gì ở đây?” cô hỏi lại.
“Họ đến đây vì cô đấy, cô gái. Đây là chuyến đi của cô.”