Trảm Long - Trọn Bộ 4 Tập

Tập 2 - Chương 10: Vô Vị Thiền

Trời vẫn chưa sáng, cả bọn vòng khỏi đường cái quan men bờ Cán Giang, theo đường nhỏ quay ngược lại, đi thẳng lên núi Thanh Nguyên.

Trên đường lên núi, ngựa không thể chạy nhanh, Lục Kiều Kiều mới kể chuyện An gia trang bị thiêu rụi, phát hiện viên gạch lát sàn bị lật lên làm ám hiệu, nhặt được nhẫn của cha, dọc đường bị quan sai chặn lại kiểm tra, rồi rơi vào ảo trận kỳ môn cho hai người anh nghe.

Có điều, chuyện Tôn Tồn Chân luôn theo dõi họ trong thời gian dài, và việc đổi long huyệt thiên tử lấy vàng ở núi Phù Dung thì cô không nhắc đến.

Cô cũng hỏi chuyện biết được, thì ra nhị ca An Thanh Viễn của cô mấy năm nay vẫn luôn ở Đằng Xung mở xưởng khai thác ngọc, tháng trước anh ta nhận được thư của đại ca, nói đã tìm thấy tiểu muội An Thanh Như ở Quảng Châu, nhưng nhà của cô đã bị người ta vô cớ phá hoại, rất có thể nhà cũ ở Giang Tây cũng xảy ra chuyện. Vì vậy, anh ta liền dẫn theo hai tiêu sư vội vã trở về. Tiếc rằng về đến nhà thì phát hiện An gia trang đã bị thiêu rụi, cha cũng không biết ở đâu, liền báo quan lập án điều tra. Không lâu sau, đại ca An Thanh Nguyên cũng trở về phủ Cát An, sau khi hai huynh đệ gặp nhau, họ vẫn luôn chờ đợi Lục Kiều Kiều trở về. Vì An gia trang đã bị thiêu hủy, mọi người không có chỗ trú chân, An Thanh Viễn đành phái người ngày ngày quay về An gia trang trông chừng.

Hôm nay vừa nghe nói em gái đã trở về, hai huynh đệ lập tức qua sông đuổi theo Lục Kiều Kiều. Chẳng ngờ, lại gặp phải một trận ác chiến.

Phương Đông dần hửng sáng, cả bọn cưỡi ngựa đi qua cánh cổng màu đỏ tươi trên núi Thanh Nguyên, phong cảnh đột nhiên thay đổi. Bên tai văng vẳng tiếng suối róc rách không ngừng như xa như gần; bốn phía núi non sừng sững, nguy nga hùng vĩ.

Trước khi trời sáng là thời điểm lạnh nhất, mấy người trẻ tuổi bọn Lục Kiều Kiều vừa trải qua huyết chiến đều thiếu y phục, lạnh run lên cầm cập trong tiết cuối thu. An Thanh Nguyên mang theo nhiều hành lý nhất, anh ta đưa cho Lục Kiều Kiều và Tôn Tồn Chân một chiếc áo choàng, rồi lại phát cho Jack và An Long Nhi thêm một chiếc nữa.

An Thanh Nguyên hỏi Lục Kiều Kiều: “Muội quen người nào trên núi Thanh Nguyên à? Thực ra chúng ta xuống phủ Cát An cũng có khách điếm ở được…”

Lục Kiều Kiều ngẫm nghĩ giây lát rồi đáp: “Cha có một người bạn cũ ở chùa Tịnh Cư trên núi, muội muốn tìm tung tích của cha nên lên đây để hỏi thử.”

Cô hơi lấy làm lạ, không hiểu sao An Thanh Nguyên lại xa lạ với bạn bè của cha mình như thế, có phải cha cô cố ý không cho anh ta biết không?

Nhị ca An Thanh Viễn cũng bắt lời: “Nhị ca cũng không biết cha có bạn trên núi… nhưng bạn bè cha nhiều lắm, cứ hỏi thế này chẳng phải quá phiền phức sao?”

Lục Kiều Kiều nói: “Lão hòa thượng ở gần An gia trang nhất, vì vậy cứ hỏi ông ấy trước đã. Vốn muội định đến phủ Cát An đợi hai huynh, đồng thời lên núi tìm lão hòa thượng, muội đã để lại thư trong phòng các huynh ở An gia trang rồi đó.”

“Lại còn là lão hòa thượng à? Cha chúng ta cũng giỏi kết bạn thật đấy, loại người nào cũng quen hết.” Nhị ca An Thanh Viễn tính tình hướng ngoại, nói năng xưa nay đều không phân lớn nhỏ.

Vòng vèo mấy lượt ở lưng chừng núi, cả bọn liền trông thấy một khoảng đất bằng phẳng. Nhìn từ trên đường núi xuống, chỉ thấy cây rừng rậm rạp, trong rừng rải rác mấy mái ngói lưu ly nhấp nhô, nơi này chính là chùa Tịnh Cư mà hồi nhỏ Lục Kiều Kiều thường theo cha đến thăm lão hòa thượng.

Lục Kiều Kiều thông thạo đường núi ở đây, nhanh chóng vòng tới cửa chùa, vừa khéo nghe thấy bên trong đang đánh chuông sớm, mấy tiểu hòa thượng đi ra mở cửa quét sân.

Tiểu hòa thượng trông thấy trước cửa có một đám người đi tới, ai nấy đều cầm vũ khí, có mấy người mình mẩy còn đầm đìa máu tanh, đều kinh ngạc ra mặt.

Lục Kiều Kiều dẫn theo Tôn Tồn Chân xuống ngựa, bước tới nói với họ: “Xin hỏi có Vô Vị đại sư ở đây không?”

Một tiểu hòa thượng trong bọn thấy Lục Kiều Kiều xinh đẹp đáng yêu, theo lẽ thường ắt không phải là người xấu, bèn trả lời Vô Vị đại sư đang ở bên trong làm khóa sớm.

Lục Kiều Kiều nhờ hòa thượng vào thông báo một tiếng, sau đó gọi cả bọn xuống ngựa đứng trước cửa đợi đại sư sắp xếp.

An Thanh Nguyên nghe pháp hiệu của Vô Vị đại sư, lấy làm hứng thú hỏi Lục Kiều Kiều: “Pháp hiệu của hòa thượng này thật hiếm có, thông thưòng đều là những tên kiểu như Minh Tuệ Tịnh Thiện gì đó, muội có biết tại sao ông ta lại đặt pháp hiệu là Vô Vị không?”

“Hồi muội theo cha đến đây, có nghe bọn họ nhắc đến chuyện này. Ông ấy rất thích ăn các món chay ngon, nhưng đồ ăn nhà bếp làm hằng ngày chẳng có mùi vị gì cả; ông ấy thường nhân lúc có khách đến, nói là phải chiêu đãi khách, tranh thủ vào bếp đích thân làm các món chay ngon lành, tên các món ăn ấy toàn là gà quay chay, sườn chay… gì gì đó.

Một lần sư trụ trì hỏi ông ấy, đồ ăn con nấu và đồ ăn nhà bếp nấu có khác biệt gì không? Ông ấy bảo không có gì; sư trụ trì liền nói, nếu không khác gì, thế con đang làm gì vậy? Ông ấy nói, con ăn vào thì không thấy khác biệt, nhưng muốn dẫn dắt người khác hướng Phật mà cứ cho người ta ăn các món chay vô vị, người ta ăn một lần là bỏ đi rồi. Chúng ta trước tiên phải giữ lại mùi vị của những đồ ăn mặn để người ta ăn chay, sau đó từ từ giảm mùi thịt, như vậy mới có thể mở rộng thiện môn, kết thiện duyên rộng khắp…”

An Thanh Nguyên cười ha hả nói: “Hòa thượng này thú vị thật, về sau ông ấy có làm thức ăn cho các vị thí chủ nữa không?”

Lục Kiều Kiều nói: “Chuyện về sau mới gọi là thú vị, sư trụ trì nghe ông ấy nói vậy, liền tặng cho một bức hoành phi, bên trên viết hai chữ ‘Vô Vị’ lớn, để ông ấy treo trong Thiền phòng của mình, ngày ngày nhắc nhở bản thân chớ nên tham vui ăn uống.

Không lâu sau, sư trụ trì qua đời truyền lại vị trí ấy cho Vô Vị đại sư, ông ấy liền viết thêm vào hai chữ đại tự của trụ trì tiền nhiệm hai chữ nữa, một trước, một sau, thành kỳ vị vô cùng…”[41]

“Kỳ vị vô cùng? Ha ha ha…” Cả đám người nghe xong câu chuyện về Vô Vị đại sư đều phá lên cười.

Trước cửa chùa xuất hiện một hòa thượng vừa gầy vừa lùn vừa già, trên người khoác tăng bào gọn gàng sạch sẽ, hai mắt sáng rực có thần, chống một cây thiền trượng cao gấp đôi người mình, vừa thấy Lục Kiều Kiều đã giơ thiền trượng chỉ vào đầu cô quát hỏi: “Bên trong này là thứ gì?”

Lục Kiều Kiều đáp: “Chẳng có gì cả.”

Lão hòa thượng lại quát, lần này nghiêm giọng hơn: “Không có cái gì?”

Đây là lễ chào hỏi của Thiền môn, trí tuệ sắc sảo của Thiền môn xưa nay vẫn thể hiện qua những lời vấn đáp chan chát, trong chớp mắt ngắn ngủi làm người ta ngộ ra Phật tính, nhưng Lục Kiều Kiều chẳng qua chỉ nghe Vô Vị đại sư và cha mình nghiền ngẫm Thiền cơ từ nhỏ nên học được đôi chút cung cách đối đáp chứ thực ra chẳng hiểu gì Thiền ý căn bản bên trong, cô thấy Vô Vị đại sư tiếp tục truy hỏi, liền ngây ra một hồi không biết trả lời thế nào, sau đó bật cười khúc khích, trả đũa luôn: “Không có mùi vị nữa rồi… ha ha ha…”

Vô Vị đại sư nghe cô nói thế cũng cười nói: “Con quỷ nhỏ, chỉ được cái miệng, chứ bảo cháu tu thiền thật cháu đâu có chịu…”

Lục Kiều Kiều giới thiệu mọi người cho Vô Vị đại sư, Vô Vị đại sư cũng nhận thấy có chuyện không bình thường, lập tức sắp xếp chỗ nghỉ cho cả bọn, rồi tìm người băng bó bôi thuốc cho Jack và An Long Nhi.

Sau bữa sáng, Vô Vị đại sư hẹn đám Lục Kiều Kiều đến phòng khách gặp mặt. Jack và An Long Nhi bị thương nặng, đành phải ở lại phòng nghỉ ngơi, Lục Kiều Kiều tắm rửa chải chuốt xong xuôi, rồi dẫn Tôn Tồn Chân cùng tới phòng khách.

Vừa bước qua cửa, cô liền trông thấy bên trong ngoài Vô Vị đại sư, còn có bốn người đàn ông nét mặt nghiêm trang đang ngồi trong trà thất.

Bốn người này ăn mặc kiểu dị tộc, xem ra không giống người Hán hay người Bát Kỳ.

Hai người trong số họ cạo trọc đầu, tăng bào trên người vừa nhìn đã biết ngay là tăng bào, nhưng nhìn kỹ lại không giống kiểu dáng mà Vô Vị đại sư đang mặc; hai người còn lại tuy có tóc, phía sau đầu cũng tết bím, nhưng lại không cạo trán như người Hán và người Mãn, mà cạo từ trán đến đỉnh đầu, tạo thành một mảng trọc lốc ở giữa.

Qua sự giới thiệu của Vô Vị đại sư cô biết được, bốn người này là khách đến từ Nhật Bản, người lớn tuổi nhất trông cũng không quá ba mươi mấy, vận tăng bào, tên là Hotta Masayoshi; người trẻ nhất chỉ mười mấy, cỡ ngang tuổi An Long Nhi, cũng mặc tăng bào, tên là Hotta Masatomo; hai người còn lại một người đeo song kiếm một dài một ngắn, thoạt nhìn có vẻ hiền lành, nhưng nhìn kỹ lại thấy toàn thân y từ trên xuống dưới đều toát lên một lực căng như thể loài báo, bất cứ lúc nào cũng sẵn sàng lao tới, tên là Miyabe Ryokura, người còn lại khoảng hơn hai mươi, bộ dạng thanh tú, nhưng ánh mắt lại thâm trầm thu liễm, thần thái nhàn nhã, như một người trung niên đã nhìn thấu thế thái nhân tình. Tên y là Niwa Kumo.

Hai huynh đệ An Thanh Nguyên và An Thanh Viễn cũng cùng bước vào, An Thanh Nguyên vừa trông thấy Hotta Masayoshi liền ngẩn ra một thoáng, ngoảnh đầu hỏi Vô Vị đại sư: “Vô Vị đại sư, vị này là khách quý từ đâu đến vậy?”

Vô Vị đại sư cười ha hả nói: “Vẫn là đại ca biết nhìn người nhất, họ từ Nhật Bản vượt đường xa tới đây, vị này là Hotta Masayoshi… Masayoshi quân, đây là An Thanh Nguyên, con trai ruột người bạn già của lão nạp, còn đây là An Thanh Viễn, họ với Tiểu Như là người một nhà, là anh em… khà khà…”

Mọi người làm quen nói chuyện phiếm một hồi, Lục Kiều Kiều là con gái mà không sợ mất thể diện, một tay dắt Tôn Tồn Chân, một tay kéo Vô Vị đại sư sang một bên, thuật lại chuyện cha mình đã mất tích hai năm, An gia trang bị thiêu hủy cùng tình trạng cần cứu chữa gấp của Tôn Tồn Chân.

Phía bên kia, An Thanh Nguyên mỉm cười hỏi Hotta Masayoshi: “Hotta tiên sinh thân ở ngôi cao, lại vượt đường xa thâm nhập vào một thị trấn nhỏ trong lục địa Trung Quốc, chẳng hay có việc gì vậy?”

Hotta Masayoshi mỉm cười, không nói không rằng nhìn An Thanh Nguyên, nhưng thiếu niên Hotta Masatomo bên cạnh y lại cất tiếng trả lời: “Núi Thanh Nguyên là đạo tràng của Thiền tông thất Tổ, Hành Tư tông sư, sáu trăm năm trước, Đạo Nguyên tiên sư đã từ núi Thanh Nguyên truyền bá Tào Động tông đến Nhật Bản, từ đó trở đi, tăng nhân Nhật Bản thường trở về núi Thanh Nguyên để lễ Tổ; Tào Động Thiền tông là tín ngưỡng của gia tộc Hotta, lần này cha tôi muốn hoàn thành nguyện vọng bấy lâu nay, nên đặc biệt vượt đường xa tới đây.”

An Thanh Viễn nghe chẳng hiểu gì, bèn quay sang hỏi đại ca An Thanh Nguyên: “Nhật Bản là nơi nào thế?”

“Nhật Bản là một nước ngoài biển Đông, rất gần Trung Quốc, đôi bên đã qua lại cả nghìn năm nay rồi.” An Thanh Nguyên giải thích qua loa, rồi lại nói với Hotta Masayoshi: “Nom Hotta tiên sinh dáng gấu thế hổ tai như tai voi, mũi như túi mật treo ngược, miệng như chim ưng, không giống người tu đạo, lẽ nào là trọng thần của triều đình Nhật Bản?”

Người thanh niên có vẻ nho nhã Niwa Kumo mỉm cười nhìn Hotta Masayoshi, thấy Hotta gật gật đầu, anh ta bèn cất lời nói với An Thanh Nguyên: “Chủ công là Trung Lão của Mạc Phủ, quan đại danh của vùng Sakura, tương đương với tri châu của Trung Quốc. Có điều, nhìn An tiên sinh cũng không giống khách dâng hương bình thường, hẳn là một vị quan cao của Đại Thanh rồi?”

An Thanh Nguyên lắc đầu cười cười nói: “Tại hạ chỉ là một giáo thư quèn lo việc khoa cử thôi, Hotta chủ công lại là bậc trọng thần được cắt đất phong hàm, không cùng một cấp bậc với tri châu của Đại Thanh, tại hạ lại càng không thể so sánh được… ha ha ha… Hotta tiên sinh chắc không phải chỉ đến lễ Tổ, người ở đất khách nhất định có nhiều điều bất tiện, có gì cần Thanh Nguyên giúp xin cứ nói ra, chớ nên khách khí.”

Hotta Masayoshi đưa tay ra làm động tác bảo mọi người dừng lại, Niwa Kumo lập tức ngừng nói, Hotta lên tiếng: “Cảm tạ ý tốt của An tiên sinh, thực không dám giấu, lần này tại hạ đến đây là muốn cầu được đạo làm cho đất nước mạnh lên.”

Những người có mặt đều sững sờ trước chủ đề lớn bất ngờ này, tất cả người Trung Quốc không hẹn mà cùng thầm nghĩ, đang yên đang lành đột nhiên nói ra chuyện này liệu có phải hơi quá rồi không? Trong tư tưởng nho gia của Trung Quốc, xưa nay vẫn là bất tại kỳ vị, bất mưu kỳ chính (không ở vị trí ấy thì không lo toan việc ấy); kể cả có nói, thì cũng không tùy tiện buột miệng nói ra trước mặt người lạ, giờ Hotta Masayoshi không nói thì thôi, vừa mở miệng ra đã bàn chuyện quốc gia đại sự, khiến cả phòng tiếp khách đều yên ắng hẳn đi.

Hotta Masayoshi nói: “An tiên sinh, ngài là quan viên lo việc khoa cử, hẳn phải đọc vô số sách vở, nhìn thấu được đại thế trong thiên hạ… Mạc Phủ hiện nay đang thực hiện chính sách bế quan tỏa cảng dọc bờ biển Nhật Bản, toàn bộ Nhật Bản chỉ có cảng Nagasaki là cho phép thuyền buôn của Hà Lan và Trung Quốc cập bến, vả lại người nước ngoài còn không được phép đặt chân lên nước Nhật…

Nhưng những nhân sĩ có kiến thức trong nước Nhật đều lần lượt nhận ra, hàng hóa Tây Dương từ bên ngoài đến tốt hơn hàng Nhật Bản sản xuất rất nhiều, vũ khí cũng càng ngày càng tân tiến, thuyền hàng và súng pháo của bọn họ đã đến cửa ngõ Nhật Bản, nếu lần sau là chiến hạm xuất hiện thì phải tính sao?

Trước đây Đại Thanh cũng thực thi chính sách chỉ thông quan một cửa, cả nước chỉ có cảng Quảng Châu cho tàu buôn nước ngoài dừng đỗ, Nhật Bản hiện tại chính là như vậy; cuối cùng, vì Đại Thanh từ chối yêu cầu khẩn thiết của các nước Tây Dương về việc thông thương, đã dẫn đến cuộc chiến Thông thương mấy năm trước do nước Anh phát động, hẳn An tiên sinh vẫn còn nhớ rõ?”

Hotta Masayoshi vừa nhắc đến cuộc chiến tranh Nha Phiến lần thứ nhất trong lịch sử Trung Quốc, trong các ghi chép bên phía Anh quốc, cuộc chiến này được gọi bằng tên “cuộc chiến Thông thương”. An Long Nhi cũng mất cha mẹ trong cuộc chiến tranh này.

An Thanh Nguyên là mệnh quan triều đình, nghe thấy một người nước ngoài nói chuyện quốc sự của Đại Thanh, không khỏi từ từ chau mày lại, ánh mắt trở nên nặng nề trang nghiêm.

Hotta Masayoshi và ba người Nhật Bản khác vẫn ngồi im lìm bất động, sống lưng ưỡn thẳng, cả bốn người ngồi tĩnh lặng như một bức tranh, chỉ thấy miệng Hotta Masayoshi khe khẽ chuyển động, tiếng Hán của ông ta không lưu loát cho lắm nhưng âm điệu thấp trầm rất uy nghiêm.

“Hiện giờ các nước Tây Dương không ngừng đưa ra yêu cầu thông thương với Mạc Phủ. Mở cửa biển, chính quyền Mạc Phủ sợ quyền lực bị ảnh hưởng; không mở cửa biển, Nhật Bản sẽ ngày càng lạc hậu, Mạc Phủ cứ kéo dài hết năm này đến năm khác như vậy, rồi chỉ bước vào vết xe đổ của Đại Thanh, bị các cường quốc Tây Dương khơi ra một trận chiến Thông thương khác ở Nhật Bản, lúc đó Nhật Bản sẽ bị người Tây áp chế ở khắp mọi nơi như Đại Thanh ngày nay…”

An Thanh Nguyên chen vào hỏi: “Hotta tiên sinh cũng nói sau chiến tranh Thông thương, Đại Thanh bị người Tây áp chế ở mọi mặt, vậy ngài đến Trung Quốc thì tìm được đạo gì cho nước mạnh lên đây?”

Hotta Masayoshi nói: “Nửa năm trước, ở chỗ một thương nhân Trung Quốc, tại hạ tìm được một cuốn sách tên là Hải quốc đồ chí, tuy rằng chỉ có một tập, nhưng tại hạ xem xong liền mất ngủ suốt ba ngày… Trong sách nhắc đến việc dùng kỹ thuật của người Tây để đối phó người Tây, dùng hệ thống chính trị của người Tây trị lý quốc gia, đồng thời cũng đưa ra chiến lược tổng thể nhằm đối phó với nền kinh tế và quân sự của các cường quốc phương Tây, vẽ ra hải đồ thế giới, thậm chí còn thu thập cả kỹ thuật Tây Dương của các ngành nghề khác nhau nữa. Tư tưởng của quyển sách này vừa hay có thể giải quyết được nguy cơ mà chính quyền Mạc Phủ đang phải đối mặt hiện nay, thậm chí còn có thể biến nguy cơ ấy thành cơ hội, đáng tiếc tại hạ chỉ có được tập đầu tiên. Bộ sách này có thể giúp Đại Thanh xưng bá thiên hạ, đồng thời cũng có thể giúp Nhật Bản xưng bá thiên hạ, vì vậy tại hạ mới lập tức đích thân đến Trung Quốc, muốn tìm toàn bộ Hải quốc đồ chí…”

“Hải quốc đồ chí của Ngụy Nguyên?”

“An tiên sinh quả nhiên có biết pho sách này?” Trong Hotta lóe lên vẻ kích động lạ thường.

“Lấy đạo của người Tây để đánh trả người Tây, dùng đạo của người Tây để đối đãi lại với họ, học theo sở trường của họ mà chế phục lại họ…”

“Đúng thế! Đây chính là nội dung tại hạ đọc được trong tập đầu tiên, An tiên sinh đã đọc hết cả bộ sách này rồi?!” Hotta Masayoshi kích động đứng bật dậy nói: “Tại hạ đã không nhìn lầm An tiên sinh, ngài thật sự có thể hiểu được những gì tại hạ nói.”

An Thanh Nguyên lịch sự đứng lên nói: “Mấy năm trước khi tại hạ còn làm giám học trong cung, bên dưới có dâng lên một bộ sách này để Thánh thượng xem xét, Thanh Nguyên cũng xem qua một chút, toàn bộ có một trăm hai mươi quyển, phần ngài xem chắc là quyển đầu tiên, trong đó có nhiều quan điểm khiến Thanh Nguyên rất thán phục.”

Hotta Masayoshi đột nhiên quỳ thụp xuống trước mặt An Thanh Nguyên, ba người còn lại cũng lập tức ra phía sau ông ta, nhất tề quỳ xuống trước An Thanh Nguyên. Hotta Masayoshi nói: “Xin An tiên sinh nhất thiết phải giúp tại hạ tìm được một bộ Hải quốc đồ chí, ngài có thể đưa ra giá tiền điều kiện gì cũng được, xin kính nhờ An tiên sinh.”

Hotta Masayoshi nói xong, bốn người Nhật Bản cùng cúi rạp đầu sát đất, An Thanh Nguyên vội vàng đỡ Hotta Masayoshi dậy nói: “Chớ nên đa lễ, ngài hãy nghe Thanh Nguyên nói rõ tình hình trước đã, mọi người hãy ngồi lên, ngồi đi ngồi đi…”

Lục Kiều Kiều chưa bao giờ nghĩ sẽ gặp người Nhật Bản ở đây. Mấy năm nay thương nhân các nước đến Quảng Châu càng lúc càng nhiều, thỉnh thoảng cô cũng thấy có thương nhân Nhật Bản, nhưng một vị quan Nhật Bản lại lên tận núi Thanh Nguyên ở sâu trong lục địa cao đàm khoát luận chuyện quốc gia đại sự, vượt ngàn dặm xa tìm sách quý để mở cửa biển cho Nhật Bản thì thực sự nằm ngoài tưởng tượng của Lục Kiều Kiều. Qua cuộc đối thoại giữa đại ca An Thanh Nguyên và Hotta Masayoshi, cô cảm giác được sức nặng của việc nước, cũng cảm nhận được chuyện mà họ đang nói có liên quan đến từng người dân bình thường nhất trong thiên hạ, khiến cho người xưa nay chưa từng hỏi đến việc nước như cô cũng chăm chú dỏng tai lên lắng nghe.

An Thanh Nguyên đỡ mấy người Nhật Bản ngồi dậy, chậm rãi nói: “Thực ra bộ sách này không phải nói tìm là tìm được ngay, bằng không hôm nay Hotta tiên sinh cũng không ở chùa Tịnh Cư này rồi… Người viết sách Ngụy Nguyên là văn nhân trong dân gian, một người ủng hộ quan viên chủ chiến Lâm Tắc Từ trong chiến tranh Nha Phiến, sau khi chiến sự thất bại, Lâm Tắc Từ bị mất chức quan, song vẫn bỏ tiền giúp Ngụy Nguyên viết xong bộ Hải quốc đồ chí, còn muốn tìm thư điếm để xuất bản nữa.

Nhưng khi sách được đưa vào cung thẩm duyệt, nó liền bị hầu hết các quan viên phản đối. Trong sách nói dùng cách của người Tây để thay đổi Trung Quốc, tức là muốn biến Trung Quốc thành giống như các quốc gia Tây Dương, đây là cách thức mà không một vị quan nào có thể chấp nhận; trên dưới trong triều đều nhất trí rằng Đại Thanh ta là nước lớn của Thiên triều, ngoài việc khiến Tây Dương biến thành Trung Quốc ra, những chuyện khác đều không cần phải nghĩ đến; các quan đều cho rằng quyển sách này làm đám người Tây thêm kiêu căng, phá hoại sự uy nghiêm của nước mình, những kỹ thuật Tây Dương mà sách đề xướng nên học theo đều là mấy trò bàng môn tà đạo, sẽ khiến dân chúng đắm chìm thất chí; mà trong sách còn nhắc đến việc học theo chế độ triều cương của các nước Tây Dương, nói ‘không có quân chủ, chỉ lập trưởng quan, quý tộc… xử lý việc nước’, lại còn ‘người thủ lĩnh không làm cả đời, hết bốn năm là thay đổi’… không lập quân chủ đã là tội đại nghịch bất đạo, còn đòi hỏi quan viên không được cha truyền con nối, bốn năm thay đổi một lần trưởng quan lại càng không thể được. Bộ sách này lập tức bị hoàng thượng cấm chỉ, tin rằng cũng chỉ có vài ba bản được in ấn ở trong dân gian mà thôi…”

Thần sắc Hotta Masayoshi lập tức trở nên ảm đạm: “Chậc… ra là vậy…”

An Thanh Nguyên vỗ vai Hotta Masayoshi nói: “Hotta tiên sinh chớ nản lòng, An Thanh Nguyên không phải đám quan viên hủ lậu ấy, tại hạ hiểu được suy nghĩ của ngài. Nếu Hotta tiên sinh đã có chí muốn cho nước mạnh, Thanh Nguyên sẽ gắng sức giúp ngài tìm kiếm bộ sách này, một khi tìm thấy lập tức giao đến tay Hotta tiên sinh.”

Hotta Masayoshi quay đầu nhìn An Thanh Nguyên, nghiêm nghị gật gật đầu nói: “Vô cùng cảm tạ ngài đã hiểu cho, Hotta nhất định sẽ báo đáp An tiên sinh trọng hậu. Nhưng ngay cả Hoàng đế Đại Thanh cũng căm ghét bộ sách này như thế, cho dù tại hạ có lấy được, Thiên hoàng và Tướng quân chắc gì đã tiếp nhận nó đây…”

Hotta Masatomo chợt lên tiếng nói với cha: “Phụ thân đại nhân từng nói, samurai tuyệt đối không được từ bỏ mộng tưởng của mình, Hotta Masatomo nhất định sẽ ủng hộ phụ thân đại nhân đến cùng.”

An Thanh Nguyên cũng nói: “Phải đấy, chưa thử qua thì làm sao biết không được. Ừm… các vị đến chùa Tịnh Cư được bao lâu rồi?”

Hotta Masatomo nói: “Mười lăm ngày rồi.”

An Thanh Nguyên lại hỏi: “Tại hạ có chuyện này không được rõ lắm, không biết các vị có thể giải đáp cho chăng?”

Hotta Masayoshi nói: “Xin An tiên sinh chỉ giáo.”

“Nếu các vị muốn nhanh chóng tìm được Hải quốc đồ chí thì phải đến các hiệu sách trong thành lớn mà tìm, vả lại còn không thể chậm trễ, giờ đường đường là quan đại danh đứng đầu một vùng lại ở ngôi chùa nhỏ hẻo lánh này suốt mười lăm ngày, không phải đặc biệt đến đây để tham thiền đấy chứ?”

Vô Vị đại sư nheo nheo mắt nhìn bọn họ, không nói một lời.

Tay trái của Miyabe Ryokura nhẹ nhàng đặt lên thanh trường kiếm nơi thắt lưng, ngón cái chống vào cán, đẩy lưỡi kiếm ra khỏi vỏ; An Thanh Nguyên đột nhiên rút phắt trường kiếm ra, dấn tới một bước giơ kiếm đâm thẳng trước ngực Miyabe Ryokura.

Ánh đao lóe lên, trong phòng khách vang lên tiếng kim loại chạm nhau chát chúa.

An Long Nhi nghỉ ngơi được một lúc, định ra ngoài xem Lục Kiều Kiều ở đâu, vừa đi qua trước cửa phòng tiếp khách liền nhìn thấy màn kinh tâm động phách ấy.

Miyabe Ryokura bật dậy khỏi ghế bước lên một bước, rút kiếm đón lấy chiêu kiếm của An Thanh Nguyên, đồng thời chém tạt vào ngực anh ta.

Cánh tay cầm kiếm của An Thanh Nguyên bị bật văng lên cao, Miyabe Ryokura giờ đang đứng ở vị trí lúc nãy anh ta vừa đứng, trong khoảnh khắc ngắn ngủi chỉ như tia lửa lóe lên ấy, hai người đã đổi vị trí cho nhau.

Miyabe Ryokura còn chưa đứng thẳng người dậy, đã thu kiếm về vỏ. An Thanh Nguyên hạ trường kiếm xuống, thanh kiếm vẫn chấn động phát ra những tiếng “u u” hồi lâu. Anh ta kề ngón tay lên sống kiếm, đợi chấn động dừng lại rồi cũng thu kiếm về.

Khi anh ta xoay người lại, mọi người trông thấy ngực áo chẽn của anh ta đã bị Miyabe Ryokura rạch một vệt dài chừng một thước.

Miyabe Ryokura quay lại nói với An Thanh Nguyên: “Thất lễ rồi.” Đoạn hơi khom người một cái.

An Thanh Nguyên cũng chắp tay nói: “Đa tạ đã nhường.” Sau đó chầm chậm cởi bỏ chiếc áo bị rách đưa cho Lục Kiều Kiều cầm.

Hotta Masayoshi đứng dậy dẫn ba người Nhật Bản tới trước mặt An Thanh Nguyên khom người hành lễ, nói với thái độ khá đúng mực: “Vô cùng xin lỗi, là thuộc hạ của tại hạ thất lễ, xin An tiên sinh thứ cho.” Sau đó, ông ta lại ngồi xuống.

An Thanh Nguyên cười cười đáp: “Kiếm thuật của Miyabe tiên sinh cao cường, kiếm pháp Nhật Bản đã khiến An Thanh Nguyên được mở rộng tầm mắt, khâm phục, khâm phục. Nếu không phải Miyabe tiên sinh nương tay, tại hạ chắc đã mất mạng ở đây rồi…”

Không chỉ An Thanh Nguyên nói vậy, thực ra mỗi người Trung Quốc có mặt tại nơi này đều hết sức kinh ngạc. Lục Kiều Kiều không khỏi nghĩ đến tốc độ rút súng của Jack, nếu Jack và Miyabe Ryokura cùng rút súng và kiếm trên người mình, không biết là ai sẽ nhanh hơn nhỉ?

An Long Nhi vừa đến trước cửa phòng tiếp khách thì nhìn thấy cảnh tượng này, lại càng khâm phục võ công của Miyabe Ryokura sát đất. Nó học võ đã nhiều năm, luyện đủ Nam quyền Bắc cước, đao thương kiếm côn, lý giải của nó đối với công phu cũng không ngoài lấy nhanh đánh chậm, thấy chiêu phá chiêu. Nó từng thấy công phu của Tôn Tồn Chân và Lục Hữu, đã cảm thấy tốc độ của hai người nhanh lắm rồi, vận dụng và phá giải chiêu thức cao minh lắm rồi, không ngờ Miyabe Ryokura này chỉ một đao đánh bại địch thủ, tựa như không có chiêu thức gì cả, An Long Nhi căn bản không nhìn được trước khi thu kiếm về vỏ y đã làm gì. Nó chỉ thấy An Thanh Nguyên trúng đao, mà lưỡi đao được khống chế tới mức xuất thần nhập hóa, khiến nó không thể không chấn động tận tâm can.

Nó cảm thấy loại võ công này tuyệt đối không bình thường, Miyabe Ryokura chỉ tung ra một kiếm, y không thắng ở chiêu thức, cũng không hoàn toàn thắng ở tốc độ, thực ra kiếm của An Thanh Nguyên cũng không hề chậm chút nào, trong đây nhất định có điểm gì khác với các loại võ công bình thường nó vẫn thấy…

Từ khi rời khỏi Quảng Châu, nó gặp không ít kỳ ngộ, nhưng đến lúc này nó mới cảm nhận được thế nào gọi là núi cao còn có núi cao hơn. An Long Nhi không dám quấy rầy người lớn nói chuyện, chỉ len lén lách đến đứng phía sau Lục Kiều Kiều, Lục Kiều Kiều giơ chân đẩy cho nó một cái ghế, bảo nó ngồi xuống.

Sau khi ngồi xuống ghế, cặp mắt nó vẫn tò mò nhìn chằm chằm vào Miyabe Ryokura, quan sát kiểu tóc kỳ dị của y, rồi lại nhìn thanh trường kiếm y giắt ở thắt lưng. Nó phát hiện cách thức đeo kiếm của Miyabe Ryokura rất khác với người Trung Quốc: Binh sĩ hoặc bảo tiêu của Trung Quốc, đều dùng dây thừng hoặc dây xích đeo đao ở thắt lưng, bước đi đung đa đung đưa, lúc chạy thì phải dùng tay đè lên cán đao, ngăn không cho đao đung đưa rơi xuống; nhưng vỏ kiếm của Miyabe Ryokura lại cắm vào bên trong thắt lưng, áp sát người, kiếm và người nhập thành một, khi người hoạt động, kiếm cũng lặng lẽ vận động theo.

Nó còn phát hiện thanh kiếm Nhật Bản kia có hình dáng rất khác với đao kiếm của Trung Quốc, thân kiếm dài hẹp tuy chỉ rút ra trong một chớp mắt ngắn ngủi, nhưng nó cũng nhận ra hình dạng này sẽ khiến thanh kiếm chuyển động nhanh hơn rất nhiều.

Miyabe Ryokura cũng phát hiện ra An Long Nhi vẫn nhìn mình chằm chằm, y hơi cúi người mỉm cười với nó từ phía xa, tỏ ý chào hỏi. An Long Nhi cũng cười cười, học theo y mà khẽ cúi người xuống, nhưng chợt cảm thấy sống lưng đau nhói lên. Bấy giờ nó mới sực nhớ đêm qua mình trúng một đao sau lưng, còn để lại một vết thương rõ dài.

An Thanh Nguyên cởi áo chẽn ngoài rồi ngồi trở lại ghế, nói: “Tại hạ vừa hỏi nguyên nhân các vị ở lại chùa Tịnh Cư lâu như thế, kiếm của Miyabe tiên sinh đã bật khỏi vỏ, kiếm của tại hạ vừa rời vỏ, kiếm của Miyabe tiên sinh lại còn nhanh hơn… Ha ha, đây không phải kiếm nhanh, mà là tâm nhanh mới đúng. Nhanh thì có nhanh đấy, nhưng trong mắt Thanh Nguyên, sự nhanh ấy lại như chim sợ cành cong… Trên mặt Miyabe tiên sinh có sát khí, hẳn là trước khi tới đây đã xảy ra một số chuyện, lẽ nào Hotta tiên sinh bị người khác truy đuổi mà chạy tới nơi này?”

An Long Nhi đột nhiên phát hiện, An Thanh Nguyên rất giống Lục Kiều Kiều, từ cách suy nghĩ, phong cách nói chuyện, đến cả ngữ khí cũng giống. An Long Nhi chớp chớp mắt nhìn Lục Kiều Kiều, nhận ra đường nét thanh tú trên gương mặt hai người giống nhau y đúc, anh trai và em gái là như vậy sao?

Hotta Masayoshi chỉnh lại dáng ngồi, hướng mặt về phía An Thanh Nguyên, nói bằng giọng bình tĩnh và uy nghiêm: “Hiện tại quốc sách của Tướng quân Mạc Phủ là phong tỏa quốc gia, tại hạ vẫn luôn đề nghị mở cửa học theo nước ngoài, đi ngược với chính sách của Tướng quân, một số vị đại danh và lão thần cho rằng tại hạ có âm mưu lật đổ, muốn tiêu diệt gia tộc Hotta để trừ đi hậu hoạn.

Hotta lần này vội vã đến Trung Quốc tìm sách mong cho nước mạnh dân giàu, một là không yên tâm để đứa con này một mình ở lại Nhật Bản, sợ nó gặp điều bất trắc, hai là cũng muốn nó đến Trung Quốc mở mang kiến thức, vì vậy mới dẫn nó theo. Nhưng những kẻ hoài nghi lòng trung của Hotta lại phái ninja bám theo truy sát, muốn tại hạ chết trên đất Trung Quốc, như vậy bọn họ sẽ có thể loại trừ kẻ địch mà chẳng ai hay biết.

An tiên sinh nhãn lực hơn người, đúng là trước khi tới chùa Tịnh Cư, chúng tôi đã trải qua nhiều trận chiến đấu. Nếu An tiên sinh muốn cái đầu này của tại hạ, xin mời xuống núi quyết một trận sinh tử, đừng ở đây quấy nhiễu sự thanh tịnh của cửa Thiền…”

An Thanh Nguyên cao giọng cười lớn, nói: “Hotta tiên sinh thẳng thắn hào sảng, quả là phong độ của bậc đại tướng! Thanh Nguyên hôm nay được quen biết các vị thật đúng là phúc tổ ba đời.”

Vô Vị đại sư nãy giờ vẫn ngồi xếp bằng trên ghế xem náo nhiệt, vì vóc người ông lùn nhỏ, nên cái ghế bát tiên ở dưới tựa như chiếc giường vậy. Lúc này, ông đột nhiên nhảy phốc xuống đất, chống thiền trượng đi ra giữa phòng, cười cười nói với Hotta Masayoshi: “Hotta tiên sinh không cần phải nghĩ ngợi nhiều, Thanh Nguyên là con trai bạn cũ của bản trụ trì, sẽ không can dự vào chuyện quốc sự của Nhật Bản, cậu ấy cũng vừa nhận lời sẽ giúp các vị tìm Hải quốc đồ chí, vì sự an cư lạc nghiệp của dân chúng hai nước, tất cả hãy cùng cố gắng đi… Được rồi, xin các vị thí chủ nghe bản trụ trì sắp xếp, khụ khụ, thanh quy của Thiền môn là quá Ngọ không ăn, quá giờ trưa là không có cơm đâu, lát nữa mọi người ăn nhiều một chút… Những người bị thương có thể ở lại trong chùa dưỡng thương, bản trụ trì vừa nãy đã xem qua, bệnh của các vị đều có thể chữa được, có điều việc giúp đỡ là tùy duyên, thí chủ nào dư dật hãy chủ động quyên chút tiền dầu đèn…”

Sau đó Vô Vị đại sư đưa mắt nhìn Tôn Tồn Chân, Lục Kiều Kiều ở bên cạnh nhún vai cười không ngớt, chỉ là cô vẫn ngậm chặt miệng lại, không dám cười lên thành tiếng.

Nét mặt Vô Vị đại sư không lộ cảm xúc gì, nhìn Lục Kiều Kiều một cái rồi tiếp tục nói: “Có tiền hay không có tiền, thân phận cao thấp thế nào, thì vào chùa Tịnh Cư cũng là chúng sinh bình đẳng, các vị khách nhà họ An hãy tuân theo thanh quy của Thiền môn tham gia lao động, công việc cụ thể sẽ do chấp sự sắp xếp; các vị khách nhà Hotta ngày ngày đều làm việc, huynh muội họ An các người cũng đừng để thua kém người ta…”

Lục Kiều Kiều cố nhịn cười, làm ra vẻ thông minh nói: “Cháu biết rồi, trên Bách trượng thanh quy có nói, một ngày không làm, một ngày không ăn.”

Vô Vị đại sư nói với Lục Kiều Kiều: “Nhớ tốt lắm, hôm nào không làm việc cháu chớ có ăn vụng đấy, ta sẽ phạt cháu ngồi thiền đó.”

Lục Kiều Kiều lè lưỡi, không dám nói gì nữa.

“Con đường tham thiền của Tào Động tông chúng ta, chính là một mực ngồi thiền, Tiểu Như cháu chớ nên coi thường việc ngồi thiền, có thời gian ta sẽ đích thân dạy cho cháu…” Lục Kiều Kiều vừa nghe Vô Vị đại sư dạy dỗ, mặt mũi lập tức nhăn lại như quả mướp đắng.

An Thanh Nguyên chắp tay nói với Vô Vị đại sư: “Gia phụ mất tích, Thanh Nguyên có việc gấp muốn được thỉnh giáo đại sư, chẳng hay…”

“Ba mươi ngày sau bản trụ trì mới trả lời câu hỏi của các vị, trong vòng ba mươi ngày này, chỉ có ta được hỏi các vị, các vị không được hỏi ta, cứ vậy đi. Mọi người đến phòng ăn giúp một tay chuẩn bị dùng bữa.” Vô Vị đại sư nói xong liền vung thiền trượng ra ngoài cửa, tựa như chỉ huy thiên quân vạn mã.

Mấy người nhà họ An không ngờ Vô Vị đại sư lại sắp xếp như vậy, nhưng giờ mình đang có việc cầu người ta, có nôn nóng mấy cũng đành nhẫn nhịn, dở khóc dở cười hành lễ với ông, rồi lục tục kéo nhau ra khỏi phòng tiếp khách.

Bốn người Nhật Bản xem chừng đúng là ngày nào cũng làm việc ở đây, vẻ mặt người nào người nấy đều bình tĩnh trang trọng, hành lễ với Vô Vị đại sư rồi cũng ra khỏi phòng khách.

Sau bữa trưa, ngoài những người bệnh, toàn bộ đều phải ở lại nhà bếp dọn dẹp.

An Thanh Nguyên và Lục Kiều Kiều đang rửa nồi, An Thanh Viễn vốn chẳng hề muốn làm chuyện này, nhưng thấy cả đại ca cũng phải đi rửa nồi, đành dẫn theo hai tiêu sư đi xách nước rửa sàn nhà.

Lục Kiều Kiều ngồi xổm trên bệ bếp, dùng xẻng đánh cơm cháy, cô vừa làm vừa hỏi An Thanh Nguyên: “Đại ca, trong triều đình có phủ Quốc sư không?”

“Phủ Quốc sư? Không thể nào, đây là cơ cấu của triều Minh, Đại Thanh không có nơi nào như thế cả.”

Lục Kiều Kiều lại hỏi: “Thế phủ Quốc sư triều Minh làm cái gì vậy?”

An Thanh Nguyên ngẫm nghĩ giây lát rồi đáp: “Đưa ra kế sách cho hoàng thượng.”

Lục Kiều Kiều nói: “Văn võ bá quan cũng có thể đưa ra kế sách cho hoàng thượng mà, Quốc sư có điểm gì đặc biệt hơn chứ?”

“Quốc sư còn xem phong thủy cho hoàng thượng nữa.”

Lục Kiều Kiều tò mò nhích lại gần An Thanh Nguyên nói: “Này, đại ca, phong thủy của hoàng thượng Đại Thanh chúng ta có phải do đại ca xem không đấy?”

An Thanh Nguyên cười ha hả nói: “Muội mơ tưỏng hão huyền thật đấy, phong thủy của hoàng thượng Đại Thanh đã định ra từ hai trăm năm trước rồi, đâu đến lượt ta xem, ta chỉ lo việc biên mục hoàng lịch ở Khâm Thiên giám, chưa từng quản việc xem phong thủy, sau khi điều qua Hàn Lâm viện thì hoàn toàn thành một gã giáo thư rồi.”

“Chậc… thế đại ca nói xem, kẻ nào lại vì Long Quyết mà ép chúng ta chạy qua chạy lại thế nhỉ? Hôm qua nếu không phải đại ca đến cứu, suýt chút nữa là muội mất mạng rồi đó.”

An Thanh Nguyên buông giẻ cọ nồi xuống, cũng thở dài nói: “Ba viên gạch lật lên ở An gia trang chính là để dẫn dụ muội đi về phía Bắc, trận pháp Kỳ môn độn giáp đêm hôm qua là để bắt sống muội, có phải muội biết chuyện gì mà chưa nói cho đại ca hay không?”

Lục Kiều Kiều vốn định thăm dò xem An Thanh Nguyên có phải người của phủ Quốc sư hay không, chẳng ngờ lại bị người ta quật ngược cho một câu, liền ỉu xìu ngồi trên bệ bếp cúi gằm đầu nhìn vào trong cái nồi: “Chuyện của muội mấy năm trước chắc huynh cũng biết, muội rời nhà lâu như vậy, còn biết được chuyện gì chứ? Phải rồi, đại ca có gieo quẻ bói về việc của cha chưa?”

An Thanh Nguyên chỉ cười cười đầy bất lực: “Sao ta lại chưa bói chứ? Chỉ cần biết cha vẫn còn sống là yên tâm phần nào rồi, xem quẻ tượng thì cha đang ở phía Bắc phủ Cát An. Nhưng phía Bắc rộng lớn như vậy, tìm làm sao được? Kể cả trong phủ Cát An nhỏ bé này, nếu muốn giấu một người, có khi cả đời cũng không tìm được ấy chứ.”

Lục Kiều Kiều lại xáp lại gần, nói: “Đại ca có biết bát tự của cha không? Chúng ta có thể dùng Diêm vương điếu hồn chú lần theo, hì hì, giống như lúc đại ca truy theo tung tích của muội ấy.”

Lục Kiều Kiều nhìn chằm chằm vào mắt An Thanh Nguyên, tập trung toàn bộ tinh thần chờ đợi để tìm chút sơ hở lộ ra trên gương mặt hoặc trong ánh mắt anh ta.

An Thanh Nguyên đưa tay nhặt cơm cháy bỏ vào thùng, đợi lát ngâm nước là có thể đem cho gà ăn, lắc lắc đầu nói “Kha kha, lúc ta truy theo muội có dùng Diêm vương điếu hồn chú đâu, khi tới bến đò Thanh Nguyên, thấy toàn quan sai vây ở đấy, hỏi người ta mới biết muội đã chạy lên phía Bắc, còn biết muội đã nổ súng ở bến đò nữa… Cha xưa nay rất coi trọng việc giữ kín bát tự không lộ ra bên ngoài, ta cũng chỉ biết ngày sinh của ông chứ không biết chính xác giờ sinh.”

An Thanh Nguyên nhẹ nhàng đưa vấn đề của Lục Kiều Kiều về lại chuyện xảy ra ngày hôm nay, không lộ ra chỗ nào không tự nhiên, cô cũng đành ngoan ngoãn nghe tiếp.

“Với lại một ngày có mười hai canh giờ, chúng ta cũng không thể làm mười hai cái Điếu hồn châm, chia cho mười hai người đi truy lùng được, vì vậy vẫn không thể dùng Điếu hồn chú… chỉ cần cha còn sống, chúng ta vẫn còn thời gian để tìm kiếm. À, phải rồi, Vô Vị đại sư hình như biết điều gì đó, nhưng ông ấy cứ tỏ vẻ thần bí, lại còn bắt chúng ta ở đây một tháng mới chịu nói. Theo muội thì ông ấy muốn giở trò gì vậy?”

Nhị ca An Thanh Viễn cũng xáp lại gần bệ bếp, ngó đầu vào nói: “Hồi trước đệ cũng không biết cha có bạn là hòa thượng trên núi này, sao Tiểu Như lại biết thế?”

Lục Kiều Kiều nói: “Các huynh đều đi ra ngoài từ sớm mà, bao nhiêu năm chỉ có muội với cha, lúc các huynh không có nhà, thỉnh thoảng cha lại dẫn muội lên núi tìm người nói chuyện, về sau thì quen với Vô Vị đại sư… lúc các huynh về nhà, ngày nào cha cũng ở nhà với các huynh, mà lão hòa thượng lại chẳng bao giờ xuống núi thăm cha cả, đương nhiên các huynh không biết cha quen với ai rồi.”

Nhị ca An Thanh Viễn lại nói: “Ta ra ngoài làm ăn đã mười năm, cha quen biết ông ấy được bao lâu rồi?”

“Ùm, chắc cũng khoảng mười năm gì đấy, đại ca còn lên kinh làm quan từ trước đấy nữa, lại càng không biết chuyện của cha.” Lục Kiều Kiều nói đi nói lại, trong ngữ khí lại thêm mấy phần trách móc hai người anh trai không thường xuyên về thăm cha.

An Thanh Viễn nhìn tiểu muội dẩu môi lên, lấy làm ngại ngùng, bèn mò trong người lấy ra một cái hộp gỗ nhỏ: “Tiểu Như, nhị ca có quà cho muội đây… muội xem…”

“Oa!” Trước mặt Lục Kiều Kiều xuất hiện hai chiếc bông tai bằng ngọc xanh sẫm ngả đen hình lá liễu, sáng óng ánh, được bọc vàng hết sức tinh xảo, nhìn kỹ lại, màu xanh của miếng ngọc trông như thể đang chảy xuống phía dưới, sắc ngọc đậm đều mà sinh động.

Lục Kiều Kiều đón lấy bằng cả hai tay, không giấu nổi nụ cười tươi như hoa nở, cặp mắt cũng phát ra ánh sáng màu xanh lục như hai chiếc bông tai.

“Đây là đồ tốt gì vậy ạ?”

“Loại ngọc này gọi là Khởi La, chuyên dùng để làm bông tai cho các cô gái…” Vừa nói đến ngọc thạch, hai mắt nhị ca An Thanh Viễn cũng giống như Lục Kiều Kiều, sáng lên sắc xanh lục, miệng thao thao bất tuyệt: “Miếng ngọc này ban đầu to như quả bí đao ấy, lúc mới đào lên trông đen sì sì, không thương gia nào ra giá cả, nhà chủ cũng không nhìn ra được nó có gì hay ho, nghĩ cũng chẳng bán được mấy tiền, bèn vứt vào trong chuồng ngựa để lát sàn.”

Ba đời sau, miếng ngọc ngày ngày bị vó ngựa giày xéo lên, không ngờ lại lộ ra sắc ngọc bên trong. Một hôm ánh mặt trời chiếu vào, nó phản xạ ra ánh sáng màu xanh, để chủ nhà phát hiện được, người chủ mới vội vội vàng vàng cho mài giũa kiểm tra, vừa nhìn liền ngã ngửa người, thì ra đây là thứ phỉ thúy cực phẩm, không phải màu đen, mà là xanh quá, xanh đến mức thoạt nhìn tưởng màu đen, nếu cắt ra làm trang sức, thì thứ ngọc này càng mỏng lại càng xanh…”

“Chà…” Lục Kiều Kiều nghe đến há hốc miệng không ngậm lại được, nước dãi chảy cả ra ngoài.

“Sau đó thì sao? Hả… hả?”

An Thanh Nguyên thấy hai em nói chuyện vui vẻ như vậy, cũng cười cười hùa theo.

An Thanh Viễn nói: “Về sau, trong một ngày hội, người chủ đã đem ngọc chế tác thành một bộ trang sức cho vũ nữ đeo vào, đám vũ nữ ấy mặt trắng bóc, miệng thoa son đỏ chót, tai đeo phiến ngọc xanh đen, ba thứ màu sắc ấy tôn nhau lên, quả thực là mỹ diệu tuyệt trần…”

Lục Kiều Kiều giơ hai chiếc bông tai bằng ngọc Khởi La lên trước mắt, ngây ngất nói: “Muội cũng có thể trang điểm kiểu ấy mà…”

“Huynh đã nói hết đâu… người chủ đó còn dùng các phiến ngọc làm thành một chiếc đèn lồng, thắp lửa bên trong, buổi tối nhìn từ bên ngoài những phiến ngọc màu xanh đen được ánh sáng chiếu vào trở nên xanh ngắt đẹp vô cùng, khiến ai ai cũng muốn cướp lấy một miếng. Số bông tai ngọc ấy liền nổi tiếng chỉ trong một đêm, vì nó được khai thác ở Khởi La, thế nên gọi là ngọc Khởi La. Muội giơ lên chỗ có nắng mà xem…”

Lục Kiều Kiều lập tức nhảy khỏi bệ bếp, bước ra trước cửa giơ chiếc bông tai ngọc lên cao, chỉ nghe cô “a” lên một tiếng, miệng há hốc ra không khép lại nổi.

“Nhị ca, sau khi tìm được cha muội muốn theo huynh đi Vân Nam buôn ngọc, a… trò này vui quá!”

An Thanh Nguyên cười cười lắc đầu: “Hai đứa mà đi với nhau thì chẳng có chuyện gì tốt lành cả đâu, ài…”

Sau tiếng thở dài, thần sắc anh ta bỗng trở nên ảm đạm: “Ta cũng thật mong hai đứa có thể vui vẻ đi Vân Nam chơi, chỉ sợ cục thế thiên hạ không ổn định, lúc đó đừng nói là chơi, giữ mạng thôi cũng thành vấn đề rồi.”

An Thanh Viễn nghe đại ca nói thế, liền đổi chủ đề: “Đại ca, nhà chúng ta là thế gia huyền học, cục thế phong thủy của cha bày ra là vô địch thiên hạ, bát tự của chúng ta cha cũng tính qua rồi, nếu có chuyện thì cha đã nói cho chúng ta từ lâu, người ta nói sinh tử có số, phú quý do trời, số mệnh đã định sống đến tám mươi tuổi, muốn chết năm bảy chín tuổi cũng khó cơ mà…”

“Nhầm to rồi…” An Thanh Nguyên và Lục Kiều Kiều đồng thanh hồi đáp lại vị nhị ca tính tình tùy tiện này.

“Đại ca, đại ca nói đi, hì hì…” Lục Kiều Kiều rụt cổ lại, cười cười.

“Được rồi… nhị đệ, người ta nói sống chết có số, phú quý do trời, không sai, nếu thiên hạ thái bình thì đương nhiên là vậy, nhưng thiên hạ đại loạn thì không thể nói như thế; chẳng hạn năm ngoái Hoàng Hà vỡ đê, nước ngập năm tỉnh, trong một đêm dân chúng hai bên bờ chết mấy chục vạn người, thê ly tử tán, tan cửa nát nhà nhiều không kể xiết, mấy chục vạn người chết đấy, đều là số phải chết hay sao? Kể cả số họ phải chết đi chăng nữa, thì cũng phải chết cùng một thời gian như thế hay sao? Vì vậy cha mới dạy chúng ta, số trời không thể đổi, nạn lớn không thế thoát, nếu đại khí số không tốt thì bát tự của một cá nhân, dù phú quý trường thọ thế nào, cũng sẽ bị hủy diệt…”

Những lời của An Thanh Nguyên nói chữ nào cũng có lý có lẽ, nhưng Lục Kiều Kiều lại nhớ tới chuyện đám xấu xa ở phủ Quốc sư tối qua đã bày trận pháp Kỳ môn độn giáp ở Thiên ma chi địa đối phó với bọn họ, cách làm của chúng chính là lợi dụng sát khí của hoàn cảnh xung quanh toàn diện công phá bát tự của cá nhân.

Nhị ca An Thanh Viễn gật đầu lia lịa: “Nói phải lắm, vì vậy mới nói những người làm ăn bọn đệ tốt nhất vẫn phải chọn nơi nào tốt lành tử tế. Đệ nghĩ trong những người chết ở hai bên bờ Hoàng Hà năm ngoái, cũng có không ít người buôn ngọc thạch, ai mà ngờ được tối đến nước lên là chết hết cả đâu chứ.”

An Thanh Nguyên lại bật cười: “Cái tật mê tiền này hết thuốc chữa rồi, lúc nào cũng nghĩ đến chuyện bán ngọc kiếm tiền… Đệ làm ăn chớ nên chỉ nghĩ đến tiền, ít nhiều cũng phải để ý tới cục thế trong thiên hạ, nếu nhìn chuẩn, nhỏ thì có thể yên thân qua cơn sóng gió, lớn ắt có thể mượn thế mà thành nghiệp lớn, kiếm một món tiền lớn thật sự…”

“Chà…” Lục Kiều Kiều và An Thanh Viễn đều đồng thanh trầm trồ kinh ngạc. Lục Kiều Kiều nói: “Đại ca mà đi buôn đảm bảo sẽ kiếm được nhiều tiền hơn nhị ca là cái chắc…”

Lúc này Vô Vị đại sư vào kiểm tra công việc, vừa bước vào ông đã nói: “Các người cũng thật quá lắm, đã tới chỗ của lão nạp rồi vẫn trốn vào một góc nói chuyện tiền bạc, không thể nói chuyện thiền được à?”

An Thanh Viễn cười hồn hậu đáp: “Ha ha ha… đại sư, có tiền mới có thể quyên nhang đèn được chứ.”

Vô Vị đại sư đảo mắt nhìn Lục Kiều Kiều hỏi: “Làm có quen không?”

“Không quen…”

Vô Vị đại sư hoàn toàn không có vẻ thương hại gì cô: “Làm thêm mấy ngày thì sẽ quen thôi.”

An Thanh Nguyên hỏi Vô Vị đại sư: “Đại sư, vừa nãy chấp sự bảo chúng cháu đem cơm cháy ngâm nước cho gà ăn, vậy chúng cháu ở chùa Tịnh Cư có thể ăn thịt gà không?”

Vô Vị đại sư nhìn ra bên ngoài nhà bếp, trong bụi cỏ có mấy con gà mái đang đi vơ vẩn, đoạn quay sang nói với An Thanh Nguyên: “Lũ gà đó không thể ăn được, chỉ dùng để đẻ trứng thôi… ta nói cho các người biết, nơi đây là chốn Phật môn thanh tịnh không được sát sinh, chỗ đó có ba mươi bảy con gà mái, toàn bộ đều có tên, thiếu con nào ta sẽ đi tìm các người tính sổ con đó.”

Lục Kiều Kiều ngạc nhiên hỏi: “Hòa thượng chẳng phải chỉ ăn chay thôi sao? Sao lại ăn cả trứng gà thế ạ?”

Vô Vị đại sư nghe cô hỏi vậy, liền nhếch miệng lên cười cười, nhặt trong thùng ra một hạt cơm, hỏi ngược lại: “Hạt cơm này, có sinh mệnh hay không?”

“Có.”

“Không có.”

An Thanh Viễn và Lục Kiều Kiều đồng thời trả lời, cũng cùng lúc nhận được hai cái gõ của Vô Vị đại sư vào trán: “Cả hai đều sai.”

“Nói có, hoặc không, đều quá đơn giản. Vạn vật trong thiên hạ đều có sinh mạng, bất cứ thứ gì, những thứ các người thoạt nhìn thấy động hay bất động, đều phải trải qua bốn giai đoạn trưởng thành, định hình, tàn hoại, tiêu tan vào hư không, Phật dạy thành trụ hoại không chính là chỉ đại định số này. Nhưng trong vô số sinh linh lại phân thành hai loại lớn, một là chúng sinh hữu tình, một là chúng sinh vô tình, Tiểu Như, hữu tình là gì?”

“Cháu biết, chính là có tình cảm… ôi cha!” Lục Kiều Kiều vừa dứt câu, đã lại bị gõ cho một trượng lên đầu.

“Không hiểu thì đừng có giả vờ hiểu, chúng sinh hữu tình tức là những sự sống có tư tưởng suy nghĩ, chúng sinh vô tình là những sự sống không có tư tưởng suy nghĩ… cháu nhìn hạt cơm này, nó do một hạt giống lớn lên thành cây lúa, vì vậy nó sống, Phật môn dạy không được sát sinh, chúng ta lại ăn nó, há chẳng phải cũng bằng giết nó đấy sao? Thực ra không phải như vậy, nó không có tư tưởng, vì vậy nó là một dạng chúng sinh vô tình, có thể ăn được, chỉ cần chúng ta trân trọng nó, nghiêm túc cảm nhận ý nghĩa thực sự của thế giới này từ trong nó, thì chúng ta có thể hoàn toàn yên tâm mà dùng nó làm thực phẩm.”

Vô Vị đại sư nói xong liền bỏ hạt cơm ấy vào miệng, nhắm mắt chầm chậm thưởng thức, bộ dạng như thể đang ăn thứ mỹ vị gì vô cùng ngon ngọt vậy, sau một hồi đắm say mê mải, ông mới mở mắt ra hỏi: “Tiểu Như, trứng gà là chúng sinh hữu tình hay chúng sinh vô tình vậy?”

Lục Kiều Kiều chạy ra tới cửa, chuẩn bị sẵn đường thoát rồi mới lên tiếng: “Hạt gạo không có đầu óc nhưng cũng không thể nở ra thành con gà mái, nhưng trứng gà mặc dù không có đầu óc, sau khi ấp xong lại thành con gà mái có óc rồi, vì vậy trứng gà là chúng sinh hữu tình, hòa thượng không thể ăn!”

Cô nói xong liền nhảy vọt ra cửa, thò đầu vào nhà bếp xem phản ứng của Vô Vị đại sư.

Vô Vị đại sư hỏi An Thanh Viễn: “Tiểu Như nói có đúng không?”

An Thanh Viễn đáp: “Đúng rồi… ai cha…” Trên đầu lại trúng một trượng.

An Thanh Nguyên cố nhịn không bật cười ra tiếng, Vô Vị đại sư lại quay sang hỏi anh ta: “Tiểu Như nói có đúng không?”

An Thanh Nguyên chỉ cười cười lắc đầu, ngậm miệng không dám nói gì.

Vô Vị đại sư bước đến chạn để thức ăn, kiễng chân lấy trong cái giỏ chỗ cao nhất ra một quả trứng gà cầm trên tay, vẻ mặt phẫn nộ nói: “Chẳng biết các người đọc sách vở quỷ quái gì, đạo lý đơn giản như vậy mà cũng không hiểu… gà mái phải có gà trống đạp thì mới đẻ trứng nở ra gà con được, trong chùa chúng ta không có gà trống, gà mái chỉ đẻ ra trứng điếc không ấp ra gà con, sao có thể là chúng sinh hữu tình được chứ?”

Vô Vị đại sư nói xong, liền phát cho mỗi người một quả trứng không ấp ra được gà con, bảo họ cầm về lĩnh ngộ thiền cơ, ngày mai trả trứng lại cho nhà bếp. Trong bếp lập tức rộ lên một trận cười sằng sặc.