Phía trước là ánh lửa ngút mắt, lưỡi lửa đỏ rực cuốn tro tàn lên, như một con rồng lửa uốn lượn bay tới, che kín đất trời, đem theo ngọn lửa nóng rãy, lao thẳng về phía Hoàng Tử Hà đang đứng một mình dưới đất.
Trong khoảnh khắc ngọn lửa bùng lên bao trùm toàn thân, cô không hề sợ hãi nhắm mắt, trái lại còn mở to ra, nhìn chòng chọc vào ánh lửa chói lòa.
Ngọn lửa hừng hực từ từ dịu đi, nhường chỗ cho người nọ xuất hiện, cả người hắn đỏ rực, một màu đỏ khiến người ta kinh tâm động phách, như mã não đỏ, như san hô máu, như đá máu bồ câu, đẹp đẽ, chói lóa, nhưng đầy sát khí.
Hắn đứng trên cao nhìn cô đau đớn trong lửa, mỉm cười bình thản như thường, nụ cười tươi tắn như hoa xuân nở rộ ấy, lúc này trông lại tàn nhẫn đáng sợ vô cùng.
Thân hình dong dỏng của hắn hơi cúi xuống, nhìn cô như đang nhìn một con kiến sắp bị hắn giội cho một ấm nước sôi. Giọng lạnh lùng của hắn cứ văng vẳng bên tai cô như sóng: “Hoàng Tử Hà, ngươi hối hận rồi ư?”
Hối hận rồi ư?
Hối hận rồi ư?
Giọng lạnh băng nọ vọng đi vọng lại trong đầu cô, khiến cô còn đau đớn hơn bị lửa thiêu đốt, mãi tới khi cô không nhịn nổi thét lên, bịt chặt lấy tai, bật dậy thở hồng hộc.
Mấy con sẻ ríu rít ngoài song giật nảy vì tiếng hét, vội đập cánh phành phạch bay vút lên. Chỉ để lại nhánh cây rung rinh hồi lâu.
Hoàng Tử Hà ôm chăn ngồi ngẩn ra trên giường, thấy máu cuộn lên trong lồng ngực, cả người như rơi vào bóng đêm thăm thẳm đến choáng váng. Cô há miệng hít thở, đợi bóng tối trước mắt tan đi rồi loạng choạng lần tường dò đến bên bàn, quờ quạng tìm chén trà nguội ngắt đêm qua, uống ừng ực.
Hơi lạnh theo ngụm trà từ họng trôi xuống, lan ra khắp người, khiến thần trí cô tỉnh táo lại phần nào.
Cô ngẩn người ngồi bên bàn, hồi lâu mới thẫn thờ quay đầu nhìn ra ngoài song.
Cơn mưa lớn đã rửa trôi hết thảy bụi bặm, qua đêm nay, lại là một ngày hè nồng nực.
Cũng giống như ngày cô gặp Vũ Tuyên lần đầu.
Vừa tảng sáng, trong thành Trường An đã nhộn nhịp huyên náo.
Nơi đây dân cư đông đúc, hội tụ đủ thứ nghề nghiệp, nhà nhà treo lụa, viện viện kết hoa, dù đặt lệnh giới nghiêm ban đêm cũng không át được không khí phồn hoa tấp nập ngày đêm.
Mà tại nơi náo nhiệt nhất ấy, đỉnh điểm náo nhiệt không đâu bì được Chuế Cẩm Lâu nằm ở chính giữa chợ Tây Trường An.
Trên Chuế Cẩm Lâu, thường có một ông già kể chuyện, ngồi giữa đại sảnh đông nghẹt, thuật lại đủ thứ lời đồn ngoài phố đến truyền kỳ trong thiên hạ, chuyện nào chuyện nấy kỳ quái muôn phần.
“Nghe nói ngày mồng ba tháng Bảy năm Đại Trung thứ mười, trời vốn nóng bức, vạn dặm không một gợn mây, nhưng đến chiều, tại Thập Lục trạch, khi ấy là nơi ở của đương kim hoàng thượng, bỗng có vạn đóa mây lành, ráng hồng ngàn dặm bốc lên, các vị có biết điềm lạ này vì đâu mà có chăng?
Tiên sinh kẻ chuyện cứ thao thao nói, lại đang kể một câu chuyện hoang đường.
Hoàng Tử Hà ngồi bên lan can tầng hai, tay trái cầm thìa, tay phải cầm đũa tre, nhìn xuống người kể chuyện kia, song ánh mắt lại mơ màng như đang nghĩ tận đâu đâu.
ChuTử Tần ngồi đối diện bèn giơ đũa gõ nhẹ lên mu bàn tay cô.
Hoàng Tử Hà định thần lại, dời mắt nhìn sang gương mặt Chu Tử Tần: “Làm gì thế?”
Chu Tử Tần bực bội trừng mắt với cô: “Công công làm gì thì có, nói là mời ta ăn cơm, thế mà cứ ngồi thần người ra.”
Lúc này, trong Chuế Cẩm Lâu hết sức ồn ào, khách khứa thích nhất là hóng hớt mấy chuyện hoang đường, có người hỏi lớn: “Năm Đại Trung thứ mười, há chẳng phải năm sinh Đồng Xương công chúa ư?”
“Đúng thế!” Người kể chuyện thấy có người lên tiếng, tức thì tiếp lời: “Lại bàn đến Đồng Xương công chúa, sinh ra đúng ngày mây lành rợp trời, song từ ấy không hề nói năng, mãi đến năm lên bốn, mới đột ngột mở miệng nói ‘sống được’. Bấy giờ, hoàng thượng, lúc ấy vẫn là Vận vương, còn đang kinh ngạc, thì đội nghi trượng nghênh tiếp Người đăng cơ đã đến cửa. Hoàng thượng vẫn luôn thấp thỏm không yên vì tiên hoàng mãi không lập thái tử, đến lúc ấy mới dám chắc, lần này quả thật sống được rồi! Từ bấy, hoàng thượng yêu Đồng Xương công chúa như bảo bối, nâng trứng hứng hoa!”
Hoàng Tử Hà chẳng thích thú gì câu chuyện hoang đường nhảm nhí này, vừa dời mắt khỏi đám đông bên dưới, thì liếc thấy mấy người cách đó không xa đang tựavào lan can nghe chuyện, không hẹn mà cùng quay sang bảo kẻ bên cạnh: “A Vi, đang nói tới phu nhân công chúa của huynh đó.”
Người nọ là một thanh niên tuấn tú, chừng ngoài hai mươi, cặp mắt nghiêm trang thấp thoáng nét chán chường ít thấy ở tuổi thanh xuân. Hắn chống trán cau mày cười trừ: “Được rồi, tôi phải đi đây, sắp đến giờ Ngọ mất rồi.”
Nói đoạn hắn quay lại bàn cầm chén canh dã rượu uống cạn, lại giơ ống tay áo lên ngửi ngửi, rồi hối hả từ biệt mọi người, lật đật xuống tầng.
Đám thanh niên phía sau chỉ trỏ cười cợt: “Các người xem, cưới vợ công chúa có hay ho gì đâu, như Vi phò mã kia mỗi lần ra ngoài tụ họp, hễ uống thêm mấy chén là nơm nớp lo sợ, nhìn mà thương!”
Hoàng Tử Hà liền trỏ thanh niên đang chạy xuống tầng, hỏi Chu Tử Tần: “Công tử biết người kia không?”
Chu Tử Tần liếc qua rồi đáp: “Ai mà không biết chứ,là Vi Bảo Hoành, phò mã của Đồng Xương công chúa đấy mà.”
Tiên sinh kể chuyện vẫn hăng say kể: “Đồng Xương công chúa năm ngoái đã thành hôn với Vi Bảo Hoành, đỗ tiến sĩ năm Hàm Thông thứ năm, của hồi môn khiêng lũ lượt đến mười dặm, nào trướng Liên Châu, rèm Khước Hàn, màn Sắt Sắt, chăn Thần Ti, đều là trân bảo hiếm thấy, quả là dốc hết của báu trong quốc khố mà! Phủ đệ công chúa ở phố Quảng Hóa, còn ghép vàng bạc làm thành giếng, lấy tơ vàng đan thành rổ rá, pha lê đồi mồi bát bảo xếp thành giường, vật dụng đều làm bằng ngọc ngũ sắc, tường vàng vách ngọc, lộng lẫy hơn cả nhà vàng Hán Vũ Đế xây cho Trần A Kiều năm xưa!”
Đại Đường hiện giờ đương thịnh thói đua xa hoa, hôn lễ của Đồng Xương công chúa đủ để người trongkinh xôn xao bàn tán đến tận bây giờ. Mọi người hăng say bình phẩm các món hồi môn nghe đồn có giá liên thành, nhất thời, cả Chuế Cẩm Lâu ồn ào như chợ vỡ
“Song trong tất cả những món trân bảo ấy, Đồng Xương công chúa thích nhất là cây trâm cửu loan. Cây trâm này đẽo từ một khối ngọc thiên nhiên chín màu, cực kỳ quý hiếm, chín con loan mỗi con một màu, bay lượn xung quanh, rập rờn chói lọi, là báu vật hiếm thấy, bằng trăm vạn lạng vàng trong quốc khố! Công chúa cất kỹ nó trong kho, khóa chặt mấy lớp, trân quý vô cùng, không dễ gì đem ra dùng đâu…”
Cuối cùng, Hoàng Tử Hà cũng không ngăn nổi tính tò mò, buột miệng hỏi: “Lời này là thật hay giả đây? Của hồi môn của Đồng Xương công chúa đã vét sạch quốc khố rồi à?”
“Chưa vét sạch, nhưng nghe nói cũng gần gần thế.” Chu Tử Tần vừa cắm cúi ăn vừa than vãn: “Gã Vi Bảo Hoành kia đúng là có phúc ba đời! Năm xưa lúc theo học ở Quốc Tử Giám, hắn toàn cùng ta trốn học đi tìm trứng chim với bắt lươn đấy thôi! Ai ngờ về sau lại đỗ tiến sĩ, còn cưới được công chúa, làm Hàn lâm học sĩ, Trung thư xá nhân, giờ đã là Binh bộ thị lang rồi! Còn ta…”
Nói đoạn bèn vờ vịt làm bộ đau khổ muốn chết, nhưng Hoàng Tử Hà chẳng thèm đếm xỉa: “Công tử chẳng phải sắp đến Thục, thực hiện lý tưởng cuộc đời ư?”
“Đúng thế, đó mới là ý nghĩa cuộc đời ta!” Chu Tử Tần lập tức hào hứng vung đũa thao thao: “Ôi chao, có chuyện này muốn bàn bạc với công công một chút, về sau danh vị của ta sẽ là ‘bộ khoái ngự phong, ngỗ tác khâm tứ’, công công thấy thế nào?”
“Chẳng ra sao cả.” Hoàng Tử Hà không còn gì để nói.
“Không thì... ‘phụng chỉ mổ thây’?”
Khóe môi Hoàng Tử Hà hơi giần giật.
“Bất luận tên gì, nghe cũng hay hơn cả đời khúm na khúm núm đội mấy chữ ‘phò mã gì gì đó’, đúng không?”
“Công tử không thích, khắc có cả đống người chen nhau vỡ đầu để tranh, lo cái gì?” Hoàng Tử Hà khinh bỉ nhìn gã.
Bên dưới lại nghe giọng tiên sinh kể chuyện sang sảng: “Các vị, nhắc đến Đồng Xương công chúa, các vị có biết hôm qua ở chùa Tiến Phúc xảy ra một việc báo ứng, trời giáng sấm sét đánh chết người chăng?”
Mọi người bên dưới nhất loạt ồ lên, có kẻ lớn tiếng hỏi: “Kẻ bị sét đánh chết ở chùa Tiến Phúc hôm qua, có liên quan tới Đồng Xương công chúa ư?”
“Đúng thế! Thôi thiếu khanh ở Đại Lý Tự đã sai người tra rõ, kẻ nọ chính là Ngụy Hỷ Mẫn, hoạn quan trong phủ công chúa. Y là một trong những người hầu hạ bên cạnh công chúa, lần này bị sét đánh chết, Đồng Xương công chúa cũng hết sức kinh ngạc, chẳng rõ tại sao cạnh mình lại xuất hiện một kẻ hung ác đến nỗi bị trời đánh chết như thế nữa.”
“Tiên sinh kể chuyện cũng nhạy tin gớm nhỉ.” Hoàng Tử Hà lẩm bẩm.
Chu Tử Tần dương dương tự đắc: “Chứ còn gì, tin tức của họ đều lấy từ bao nhiêu cái miệng khắp phố lớn ngõ nhỏ ấy. Có điều ta cũng thế thôi, từ lâu đã gây dựng được quan hệ tốt với người của Đại Lý Tự rồi. Ta nói cho công công nghe nhé, tối qua ta vừa moi được tin nội bộ về vụ này đấy!”
Hoàng Tử Hà đang trùng trùng tâm sự, nhưng vẫn hỏi: “Tin mật gì cơ?”
“Tên Ngụy Hỷ Mẫn này, từ nhỏ đã được phải đến hầu hạ Đồng Xương công chúa, có thể nói là tận tụy trung thành như một con chó, công chúa chỉ đâu thì đánh đấy. Bởi thế, khi biết y bị sét đánh chết, Đồng Xương công chúa nổi giận đùng đùng, nửa đêm còn đích thân đến phủ Thôi thiếu khanh, nói là hỏi rõ nguyên nhân cái chết, thực ra là gia tăng áp lực, buộc thiếu khanh phải giải quyết vụ này thật nhanh.”
“Giải quyết thế nào? Xét tình hình ở đó hôm qua, cũng có khả năng trời giáng sấm sét ngẫu nhiên làm chết người mà.”
“Thì thế, nên Đồng Xương công chúa còn một yêu cầu nữa, là hiện giờ cả kinh thành đều nói người bên cạnh công chúa hung ác tột cùng, bị trời đánh chết, bởi vậy Thôi thiếu khanh phải mau đưa ra một đáp án, để khỏi làm hoen ố thanh danh phủ công chúa.”
“Chẳng trách hôm qua vừa nghe nói có liên quan đến Đồng Xương công chúa, mặt Thôi thiếu khanh xám ngoét như tro tàn.” Hoàng Tử Hà nhíu mày, “Bịt miệng thế gian còn khó hơn bịt đê vỡ, dù là Đồng Xương công chúa được hoàng thượng sủng ái nhất, cũng đâu thể quản được miệng tiếng người đời.”
“Công công xem, chẳng phải đã nhốn nháo cả kinh thành rồi đấy sao?” Chu Tử Tần nhún vai: “Rõ ràng là một vụ không thể tra xét, lại nảy ra công chúa khăng khăng đòi rửa sạch tội trạng cho tên hoạn quan bên mình, chuyện này rơi vào tay ai cũng là củ khoai nóng rãy thôi.”
Hoàng Tử Hà chẳng tiếp lời, mà hỏi sang chuyện khác: “Lần trước nhờ công tử việc của Trương Hàng Anh bạn tôi đó, giờ đã có sắp xếp gì chưa?”
“Ầy… Đừng làm mất hứng thế chứ, ăn xong rồi nói đi mà, bằng không công công mời ta ăn cơm có khác gì là nhờ vả ta đâu.”
“Lạ thật đấy, tôi là hoạn quan hạng bét, lương bổng một tháng chỉ có hai lạng, nếu không phải nhờ vả công tử, tự dưng bỏ ra mấy lạng mời công tử đến Chuế Cẩm Lâu ăn cơm làm gì?” Hoàng Tử Hà chẳng buồn quanh co, nói thẳng luôn: “Chuyện này phải nhanh lên, hơn nữa, còn phải thật nhanh vào! Vì hai ba ngày nữa tôi phải theo vương gia đến Thục rồi.”
Đến lúc đó cô sẽ bị cuốn vào vụ án oan của người nhà, làm gì còn thời gian lo cho Trương Hàng Anh nữa?
Chu Tử Tần hào sảng vỗ ngực: “Được, thế này đi, Binh tào tham quân sự Hứa Tùng Vân thuộc Tả Kim Ngô Vệ là bạn thân của ta, có hẹn ta chiều mai dẫn Trương Hàng Anh đến báo danh. Ta bảo đảm, chỉ cần Trương Hàng Anh đến là được nhận.”
Hoàng Tử Hà thở phào: “Tốt lắm, nếu việc thành, về sau gặp nhau ở Thục, tôi lại mời công tử ăn cơm.”
“Nếu không thành thì sao?”
“Thì nôn bữa hôm nay ra trả tôi.”
Sân phơi thuốc của Đoan Thụy Đường, tiệm thuốc lừng danh kinh thành, cũng khác hẳn những tiệm bình thường. Trên khoảnh sân rộng bày san sát hết nong này đến nong kia, nhìn như vảy cá. Trên nong xếp đầy những vị thuốc đã thái.
Trương Hàng Anh đứng giữa đám nong, bưng một chiếc đường kính đến bảy thước lên xóc xóc, để dược liệu được đều nắng. Dáng dấp gã cao lớn, lực tay lại khỏe, mấy chiếc nong tre lần lượt được xóc tung lên, mùi thuốc nồng nồng tỏa ra.
Thấy gã đi qua đi lại giữa những hàng nong bày đầy sân, xóc từng chiếc một, càng đi càng xa, Hoàng Tử Hà vội lên tiếng gọi : “Trương nhị ca!”
Trương Hàng Anh ngoảnh lại trông thấy hai người, ngỡ ngàng hỏi: “Hai vị là...”
Trương Hàng Anh chăm chăm nhìn cô hồi lâu, mới à lên, trỏ cô lắp bắp nói: “Là, là Hoàng...”
“Đúng thế, tôi tới hoàn trả huynh món nợ ân tình đây.” Hoàng Tử Hà hấp tấp cắt lời Trương Hàng Anh, còn nhấn mạnh vào chữ “hoàn”, đoạn nói tiếp, “Tháng trước nhờ Trương nhị ca giúp tôi vào thành, lại hại huynh sa vào bước đường này. Thế nên hôm nay tôi tới để trả ơn, giới thiệu cho huynh một công việc.”
Trương Hàng Anh líu cả lưỡi vì kinh ngạc: “Huynh…”
“Tôi là Dương Sùng Cổ đây mà! Huynh đừng nói huynh vừa giúp xong đã quên béng tôi rồi nhé!” Hoàng Tử Hà ra sức đưa mắt ra hiệu cho gã.
Bấy giờ Trương Hàng Anh mới sực hiểu, hiện giờ cô là tội phạm bị truy nã toàn quốc, đương nhiên không thể để lộ thân phận thực. Nhưng trong chốc lát gã vẫn chưa tiếp nhận nổi sự thực, cứ ngây ra nhìn cô, máy móc nói theo: “Ồ ồ, là Dương Sùng Cổ à… Hiện giờ huynh ở… ”
“Giờ tôi đang là thuộc hạ của Quỳ vương, ngạc nhiên không?” Hoàng Tử Hà liền đáp, thấy vẻ sững sờ của gã, cô lập tức chuyển chủ đề sang người khác, chỉ vào Chu Tử Tần bên cạnh: “Vị này là Chu Tử Tần, tiểu công tử nhà Chu thị lang ở bộ Hình.”
Chu Tử Tần vốn tính niềm nở, vội chắp tay chào Trương Hàng Anh: “Trương nhị ca! Tuy chưa gặp mặt, nhưng ta đã nghe Sùng Cổ kể về huynh rất nhiều. Sùng Cổ kể rằng huynh nghĩa khí ngất trời, trung hiếu gan dạ, thành thực nhiệt tình... ai da!”
Đang nói dở câu, Chu Tử Tần đã bị Hoàng Tử Hà giẫm cho một cái. Có điều gã là kẻ chẳng nệ tiểu tiết, tiếp tục thao thao: “Huynh yên tâm, việc của Sùng Cổ cũng là việc của ta, chuyện này cứ để ta lo, ta sẽ làm đến nơi đến chốn...”
Chẳng đợi gã dứt lời, cánh cửa căn nhà nhỏ cạnh sân phơi đã bật mở, một ông già thò đầu ra quát lớn: “Léo nhéo cái gì thế! Trương Hàng Anh, còn không mau đi đảo thuốc? Nếu không phơi kịp thì tiệm thuốc lấy đâu mà dùng?”
Trương Hàng Anh lật đật vâng dạ rồi cúi xuống bưng một nong tre lên, tiếp tục xóc thuốc.
Chu Tử Tần nhìn sân nong thuốc mênh mông, nghi hoặc hỏi : “Trương nhị ca, nơi này chỉ có mình huynh à? Một mình huynh phải xóc toàn bộ những nong thuốc này mỗi ngày một lần?”
Trương Hàng Anh lắc đầu, vừa đặt nong thuốc trong tay xuống, bưng một nong khác lên, vừa đáp: “Không, bốn lần cơ. Sáng hai chiều hai.”
“Thế thì cả ngày huynh chẳng làm được gì, chỉ đảo thuốc cũng hết ngày!”
“Chưa hết.” Trương Hàng Anh rụt rè bổ sung, “Còn phải thái thuốc, xay thuốc, giã thuốc, sao thuốc, sấy thuốc, luyện thuốc tễ… Tôi lại lề mề, thường không làm xuể việc sư phụ giao, nên sáng sáng đều phải dậy sớm, tối lại phải thức khuya.”
“Cha huynh tốt xấu gì cũng là đại phu ngồi quầy, sao không đỡ cho huynh một ít?”
Trương Hàng Anh buồn bã lắc đầu: “Cha tôi già cả ốm yếu, không đến ngồi bắt mạch chẩn bệnh được nữa, giờ đây Đoan Thụy Đường chịu nhận tôi, cho tôi việc làm là tốt lắm rồi.”
Miệng nói, tay gã vẫn thoăn thoắt không ngừng, trong lúc trò chuyện đã xóc thêm được ba bốn nong nữa.
Nhưng Chu Tử Tần khăng khăng kéo tay gã, “Đừng xóc nữa, đi thôi! Đến ta nhìn cũng ngứa mắt nữa là, Đoan Thụy Đường thực bóc lột người ta quá lắm!”
Trương Hàng Anh vội giật lấy nong thuốc suýt đổ ụp: “Đi… đi đâu cơ?”
Thấy chẳng ai đếm xỉa đến mình, ông lão cạnh đó nổi cáu: “Trương Hàng Anh! Làm tử tế vào! Không làm xong thì đừng trách ta tống cổ ngươi đi!”
“Tống cổ cái gì chứ ? Nói cho mà biết, không làm nữa đâu!” Chu Tử Tần kéo Trương Hàng Anh quay ngoắt người đi thẳng: “Tả Kim Ngô Vệ còn đang đợi huynh ấy, ai rảnh mà đứng đây nghe lão lèm bèm?”
Ông lão vểnh râu trợn mắt: “Tả Kim Ngô Vệ á! Đùa à! Kẻ vào được chỗ đó không giàu cũng sang, thằng nhãi này dựa vào cái gì chứ?”
“Tả Kim Ngô Vệ cần huynh ấy, lão quản được à?”
Chu Tử Tần ném lại một câu, chẳng buồn nhìn lão: “Đợi Trương nhị ca làm ở đó hai ba năm rồi chuyển sang quân Thần Sách cho lão tức chết luôn!”
Ông già quả thật sắp bị chọc cho tức chết: “Đúng là mơ giữa ban ngày! Trương Hàng Anh, ngươi đi thì đừng hòng quay lại!”
Trương Hàng Anh lộ vẻ do dự, song Hoàng Tử Hà đã thấy mắt gã sáng lên, chiếc nong trên tay cuối cùng cũng bị vứt xuống.
“Được rồi, nói một câu thôi, đi hay không?” Chu Tử Tần vỗ vai Trương Hàng Anh, nghiễm nhiên coi gã là huynh đệ: “Huynh dáng vóc thế này, khi phách thế ấy, không vào quân Thần Sách đúng là tổn thất của họ!”
“Đi!”
Binh tào tham quân sự Hứa Tùng Vân thuộc Tả Kim Ngô Vệ vốn hào sảng phóng khoáng, lại quen Chu Tử Tần từ nhỏ, dĩ nhiên hết sức thân thiết.
Hắn hỏi han Trương Hàng Anh mấy câu, biết được gã từng ở trong đội nghi trượng của phủ Quỳ vương, bèn hỏi: “Người bên cạnh Quỳ vương đều là ngàn người chọn một, ngươi đã được tuyển, ắt là cực kỳ xuất sắc, sao lại rút ra?”
Trương Hàng Anh còn đang ngập ngừng thì Hoàng Tử Hà đã cướp lời: “Trương nhị ca xui xẻo, đang theo đoàn hộ tống thì đau bụng, rớt lại phía sau, không may bị phát hiện, nên bị đuổi ra.”
Hứa Tùng Vân nhìn Hoàng Tử Hà hỏi: “Công công đây là?”
“Là Dương Sùng Cổ Dương công công của phủ Quỳ vương, ngươi thân tín bên cạnh vương gia.” Chu Tử Tần đáp.
Hứa Tùng Vân không giấu vẻ kinh ngạc: “ Ô! Lẽ nào chính là Dương công công đã phá được án Bốn phương và án Quỳ vương phi? Đúng là thất lễ, thất lễ rồi!”
Trương Hàng Anh bên cạnh cũng gật đầu lia lịa, nhìn Hoàng Tử Hà đầy ngưỡng mộ.
Chu Tử Tần nói như đinh đóng cột: “Đúng thế, Sùng Cổ rất lợi hại, chỉ thua Hoàng Tử Hà thần tượng của tôi thôi!”
Hoàng Tử Hà thấy rõ nụ cười của Trương Hàng Anh cứng lại, đành khiêm tốn đáp: “Đâu có, đâu có, ăn may thôi mà.”
Hứa Tùng Vân giơ tay vỗ bồm bộp vào lưng Trương Hàng Anh, khiến họ Trương đang đứng thẳng người bị hắn vỗ cho suýt thì nôn cả phổi ra.
“Đã có hai vị bảo lãnh, huống hồ ban đầu gã từng vào được đội nghi trượng của phủ Quỳ Vương, chắc sức khỏe và gia cảnh không vấn đề gì. Thế này đi, Tả Kim Ngô Vệ hiếm người nhất, ta tạm xếp ngươi vào bên đó trước, tháng đầu theo mọi người đi lại xem xét, nếu không có vấn đề gì thì tháng sau báo cho Vương đô úy rồi chính thức vào danh sách, thế nhé.”
Lần này, dù có bị vỗ cho nôn hết cả tim gan phèo phổi, Trương Hàng Anh cũng cam lòng. Gã xúc động đến nỗi nói không nên lời, cứ đứng đờ ra đó cười ngây ngô.
Hoàng Tử Hà cũng thở phào nhẹ nhõm, xưa nay cô vẫn canh cánh áy náy với Trương Hàng Anh, lần này giúp được gã, cô mới yên lòng về Thục, không cảm thấy mắc nợ người khác nữa.
Bàn bạc xong xuôi, Chu Tử Tần lại gọi mấy đội trưởng của Tả Kim Ngô Vệ lại, rủ cả bọn đến quán rượu đánh chén, gã mời.
Hoàng Tử Hà và Trương Hàng Anh đều nghèo rớt mùng tơi, đương nhiên không dám tranh với gã công tử ăn chơi ấy, kẻo bữa rượu này lại phải bán thân trả nợ.
Cũng chẳng biết là may hay rủi, cả đám vừa kéo ra cửa thì đụng phải Vương Uẩn.
“Vương huynh!”
“Vương đô úy!”
Ai nấy đều nhao nhao chào hỏi, lại thấy phía sau y còn một nam tử tuấn tú, chính là phò mã Vi Bảo Hoành, bèn lũ lượt bước lên tham kiến, kẻ chào phò mã, người chào Vi thị lang, ngoài cửa nha môn bỗng ồn ã hẳn lên.
Vi Bảo Hoành rất cởi mở, tươi cười gật đầu chào tất cả. Vương Uẩn liếc Hoàng Tử Hà, cười hỏi: “Tử Tần dẫn Dương công công đến có việc gì không?”
Chu Tử Tần vội kéo Trương Hàng Anh chạy đến: “Tôi nghe nói bên Hứa đại ca thiếu người, bèn tiến cử một vị. Đây là Trương Hàng Anh, gia thế thanh bạch, thân thủ nhanh nhẹn, huynh xem, diện mạo cũng là trăm người chọn một, lại quen biết Sùng Cổ, nhất định làm được. Hứa đại ca nói cứ thử thách một tháng, nếu được sẽ báo lên huynh, đến lúc đó phải nhờ Vương huynh để mắt nhiều rồi!”
“Là Dương Sùng Cổ giới thiệu ư?” Vương Uẩn nắm ngay được mấu chốt vấn đề.
Chu Tử Tần nào biết được ân oán giữa hai người, tươi cười gật đầu.
Trương Hàng Anh cũng hồi hộp hành lễ với Vương Uẩn.
Nào ngờ, y giơ tay ngăn lại rồi nói: “Tử Tần, vốn dĩ Hứa đội trưởng đã nhận lời giữ gã lại, ta không tiện ý kiến, xưa nay ta cũng không can thiệp vào việc tuyển chọn các huynh đệ. Nhưng chuyện của vị huynh đài này, e rằng không được đâu.”
Nghe vậy, Chu Tử Tần sững sờ. Những người khác cũng không ngờ Vương Uẩn lại nói ra một câu gây cụt hứng như thế, ai nấy đưa mắt nhìn nhau.
Thấy vậy, Vương Uẩn thoáng lộ nụ cười: “Không phải cố ý làm khó vị huynh đài này, có điều các vị cũng biết đấy, ta sắp được điều sang Tả Kim Ngô Vệ rồi. Nhân khi nhậm chức, ta định đặt ra một tiêu chuẩn cho Tả Kim Ngô Vệ, vừa có thể khảo nghiệm tố chất tân binh, lại không làm tổn thương hòa khí, tiếc là chưa kịp bàn bạc với các vị.”
Tả Kim Ngô Vệ đúng là có kẻ chỉ biết lên ngựa, nhưng nhờ lăn lộn mấy năm, lại dựa vào quan hệ và gia nhập. Lúc này, nghe nói Vương Uẩn có biện pháp sàng lọc tân binh, lại không làm tổn thương hòa khí, mọi người đều nhao nhao gặng hỏi.
Vương Uẩn quan sát Trương Hàng Anh từ trên xuống dưới, để ý kỹ hai bàn tay gã: “Có vết hằn cương, chắc là biết cưỡi ngựa, hẳn cũng biết chơi kích cúc chứ hả?”
Kích cúc chính là trò mã cầu* rất thịnh hành trong hoàng thất Đại Đường, Trương Hàng Anh đương nhiên biết, bèn gật đầu.
* Mã cầu: một trò chơi, tương tự như polo ngày nay, người chơi chia làm hai đội, mỗi bên giữ một cầu môn, các cầu thủ đều cưỡi ngựa, dùng một chiếc gậy cán dài để đánh bóng, ai đánh bóng vào cầu môn đối phương thì ghi điểm.
“Kẻ giỏi kích cúc, khỏi bàn đến thân thủ trên ngựa dưới đất, tài cưỡi ngựa ắt cũng phải xếp hàng đầu. Chi bằng sáng mai các vị kiếm mấy người hợp lại thành một đội, Tả Kim Ngô Vệ cũng triệu tập mấy tên giỏi kích cúc, tỉ thí một trận, vừa không tổn thương hòa khí, lại có thể khảo nghiệm thân thủ Trương huynh đệ, Tử Tần thấy sao?”
Vương Uẩn vừa dứt lời, mọi người đều vỗ tay khen hay. Nói cũng bằng thừa, lời thượng cấp nói ra, ai dám không phụ họa? Mấy câu như “Đô úy cao minh”, “nhìn xa trông rộng”, “giải quyết mối lo cho Tả Kim Ngô Vệ” rào rào tuôn ra không biết ngượng.
Vương Uẩn vẫn cười tươi như gió xuân, nhìn Trương Hàng Anh và Hoàng Tử Hà: “Mọi người đều tán thành, vậy giờ Mão ngày mai, xin chờ các vị.”
“Đâu ra cái lý đó! Tên khốn Vương Uẩn, hằng ngày xưng huynh gọi đệ, đến lúc cần kíp lại phá hỏng việc của chúng ta!”
Trên đường về, Chu Tử Tần dẫn bọn họ qua xem bãi kích cúc của Tả Kim Ngô Vệ. Gã đứng chống nạnh ngoài rìa sân, nhìn vào bãi cát bằng phẳng, không giấu vẻ hậm hực.
“Ai chẳng biết hắn sắp được điều sang Tả Kim Ngô Vệ, quan mới nhậm chức ba ngọn lửa* chẳng phải danh chính ngôn thuận, tự dưng lại nảy ra chủ ý vớ vẩn này!”
* Ý nói quan viên mới nhậm chức, ắt phải làm vài ba việc có lợi cho dân chúng trước đã. “Ba ngọn lửa” ở đây ý chỉ ba việc làm đầu tiên, phải rực rỡ, thu hút sự chú ý như ngọn lửa thắp lên vậy.
Trương Hàng Anh ngập ngừng góp lời: “Nhưng... nhưng tôi thấy Vương đô úy nói cũng có lý, Tả Kim Ngô Vệ chức vụ trọng đại, sát hạch nghiêm ngặt cũng phải thôi...”
“Huynh còn chưa vào Tả Kim Ngô Vệ, đừng đứng ngay về phe Vương đô úy như thế chứ!” Chu Tử Tần đang tức mà không biết trút vào đâu: “Huynh có biết tài kích cúc của đám Tả Kim Ngô Vệ có thể coi là hàng đầu kinh thành không? Mỗi năm các nha môn trong kinh thi kích cúc, Tả Kim Ngô Vệ luôn giành được quán quân. Huynh nói xem, một thường dân như huynh, đi đâu tìm được người lập đội cùng huynh đánh đây? Trận này thua chắc chứ còn gì nữa!”
Thua chắc ư?
Trương Hàng Anh ngẩn người ra.
“Cũng không bảo là thua thì không cho huynh vào nữa, nhưng nếu chúng ta không đánh được một trận ra hồn để họ xem, thì khả năng làm khó dễ huynh sẽ càng cao.” Chu Tử Tần trỏ tay hỏi: “Một đội kích cúc ít nhất cũng phải năm người. Sùng Cổ biết chơi kích cúc không?”
Hoàng Tử Hà gật đầu: “Tôi từng chơi rồi.”
“Hàng Anh, huynh thì sao?”
Trương Hàng Anh gật đầu: “Tôi cũng chơi rồi.”
“Còn thiếu hai người...” Chu Tử Tần ngồi thụp xuống gốc liễu cạnh bãi kích cúc, gập ngón tay rầu rĩ tính, “Gọi ai được nhỉ... Để xem xem mấy kẻ giỏi kích cúc có tiếng nhất trong kinh...”
“Chiêu vương gia.” Hoàng Tử Hà buột miệng.
Chu Tử Tần gật đầu: “Không sai, Chiêu vương chơi kích cúc rất giỏi, có điều người thường ai mà mời nổi gia? Đừng nói mời, ngay cả gặp mặt còn khó, cả ngày Chiêu vương đâu có ở trong phủ...”
Chẳng đợi gã nói xong, Hoàng Tử Hà đã vịn lan can, tung người nhảy vào bãi cầu trước mặt.
Trận cầu trên bãi vừa kết thúc, cát bụi vẫn bay mù mịt. Song cô xăm xăm băng qua màn bụi đất như không thấy, chạy thẳng về chỗ nghỉ ở phía đối diện.
Nghe tiếng chân chạy đến, hai người đang chọn gậy kích cúc ngoảnh lại.
Tròng mắt Chu Tử Tần suýt nữa rớt ra ngoài.
“Chiêu vương? Sao… sao lại khéo thế, còn cả Ngạc vương nữa?”
Hoàng Tử Hà khom người thi lễ với Chiêu vương Lý Nhuế, Chu Tử Tần đứng đằng xa không nghe được họ nói gì, chỉ thấy Chiêu vương cười cười gật đầu, rồi đưa cây gậy kích cúc trong tay cho cô.
Hoàng Tử Hà một tay cầm gậy, một tay dắt thớt ngựa cạnh đó, tung người nhảy lên ngựa. Chiêu vương cũng nhảy lên một thớt ngựa khác, hai người nhìn nhau rồi đồng loạt thúc ngựa chạy như bay về phía quả cầu đang nằm trơ trọi giữa sân.
Chu Tử Tần vội vã từ ngoài vào, đến gần Ngạc vương Lý Nhuận đang đứng một bên cười quan sát, hỏi: “Ngạc vương, bọn họ… làm gì vậy?”
Lý Nhuận cười đáp: “Dương công công đánh cuộc với Chiêu vương, xem ai đánh được cầu vào trước.”
Sao tự dưng Dương Sùng Cổ lại đánh cuộc với Chiêu vương? Chu Tử Tần vẫn còn ngơ ngác, lại hỏi: “Cuộc cái gì?”
“Chưa giao hẹn, chỉ bảo nếu thắng thì Chiêu vương phải nhận lời một việc.”
Chu Tử Tần phì cười: “Sao Dương công công dám chắc thắng?”
“Nếu không phải hắn phách lối như thế, đời nào Chiêu vương đáp ứng mau mắn vậy? Ngươi cũng biết Chiêu vương không chịu được lời khích bác mà.”
Trong khi hai người trò chuyện, hai thớt ngựa một trái một phải đã xông đến bên quả cầu, nhanh nhẹn vô cùng, gần như chạy đến cùng lúc.
Hai cây gậy kích cúc đồng thời vung lên, gậy của Chiêu vương nhằm thẳng vào bên dưới quả cầu, còn gậy của Hoàng Tử Hà nửa đường lại đổi hướng, đánh thẳng vào gậy của Chiêu vương.
Hai cây gậy đạp vào nhau đánh “cạch”. Hoàng Tử Hà không thể chặn đứng thế đánh của Chiêu vương, song cũng làm giảm lực đánh ít nhiều. Trong khoảnh khắc Chiêu vương mải nhìn theo trái cầu bay ra, cô đã thúc ngựa chạy về phía cầu đang rơi xuống.
Quả cầu rơi xuống cách cầu môn không xa. Chu Tử Tần thầm than nguy hiểm, suýt nữa là bị Chiêu vương đánh cầu vào rồi.
Mọi người đều đợi cô đánh cầu về phía cầu môn Chiêu vương, bản thân gã cũng ghìm cương đứng nguyên tại chỗ, giơ gậy trỏ cô cười nói: “Dương công công, thúc ngựa qua đây nào! Ta muốn xem xem ngươi có thể…”
Lời còn chưa dứt, gã bỗng thấy cô cười với mình, rồi khom người vung cây gậy trong tay lên, đánh thẳng vào trái cầu.
“Bộp” một tiếng, quả cầu bay vèo vào lưới, rơi xuống cầu môn sau lưng cô
Những người đứng xem đều tròn mắt kinh ngạc, không hiểu cô phá cầu môn của mình là ý gì.
Trái lại, Hoàng Tử Hà hớn hở thúc ngựa chạy về phía Chiêu vương cười hỏi: “Chiêu vương gia, vừa rồi chúng ta chỉ nói ai đánh cầu vào trước là thắng, đâu giao hẹn cầu môn nào thuộc về ai đâu?”
Chiêu vương cứng họng: “Dương công công, đánh cầu vào lưới mình cũng tính ư?”
“Thứ nhất, khi nãy chúng ta không hề phân định đâu là cầu môn của ai, nên cầu môn sau lưng nô tài cũng không thể tính là của nô tài được, đúng không nào? Thứ hai, ai bảo nô tài kém cỏi, tài nghệ không bằng người, để mời Chiêu vương gia ra tay tương trợ, đành giở hạ sách, lợi dụng sơ hở của gia vậy?” Cô vừa nói vừa cười tươi tắn, dù bày trò xỏ lá, trông vẫn khả ái vô ngần, khiến Chiêu vương vừa buồn cười vừa bực, không nhịn được vung gậy tét nhẹ vào mông con ngựa cô cưỡi, phá lên cười: “Đáng ghét quá, dám lừa cả bản vương.”
Hai người đã phân thắng bại, Chiêu vương lại đang vui, bèn thúc ngựa chạy ra ngoài sân nghỉ.
“Tử Tần cũng đến à? Còn tiểu tử kia là ai vậy?”
Chiêu vương trỏ Trương Hàng Anh hỏi.
Chu Tử Tần vội thưa: “Là bạn của chúng tôi, lần này muốn xin vào Tả Kim Ngô Vệ, không ngờ lại gặp chút rắc rối.”
Chiêu vương quay sang cười hỏi Hoàng Tử Hà: “Vậy ra ngươi tìm ta đánh cuộc là vì gã ư?”
“Xin Chiêu vương gia tha tội!” Hoàng Tử Hà nhất nhất thuật lại mọi chuyện.
Nghe nói là đấu kích cúc với Tả Kim Ngô Vệ, Chiêu vương nổi hứng: “Hay đấy! Lần này ta phải giúp các người đánh bại đám Tả Kim Ngô Vệ, dạy cho chúng biết, ai mới là cao thủ kích cúc đệ nhất kinh thành! À phải, phe ta còn những ai?”
Hoàng Tử Hà trỏ mình, Trương Hàng Anh, Chu Tử Tần.
“Thêm cả ta mới được bốn thôi à?” Ánh mắt Chiêu vương dừng ở Ngạc vương Lý Nhuận.
Lý Nhuận cười gượng: “Chuyện này...”
“Chuyện này chuyện kia gì nữa, Thất ca à, còn thiếu một chân thôi, huynh đi hay không?”
“Thì đi vậy.”
Hôm sau, vừa tảng sáng, Hoàng Tử Hà đã bị tiếng chim ríu rít ngoài song đánh thức.
Sực nhớ ra hôm nay có việc quan trọng, cô vội bật dậy, vớ ngay miếng vải bó ngực thật chặt, rồi chọn một bộ áo tay bó chẽn mặc vào, chạy ra sân vận động gân cốt.
Sáng mùa hạ, dọc hai bên đường nở đầy hoa thủy lạp, những đóa hoa trắng muốt rợp đường, ngát hương thanh mát.
Ngang qua chuồng ngựa, cô sực nhớ ra gì đó, bèn chạy đến hỏi Vương bá quản lý đàn ngựa: “Vương bá, sáng nay tôi muốn mượn Na Phất Sa một lúc được không?”
“Được thôi, vương gia nói thớt ngựa đó chịu theo ngươi rồi, muốn cưỡi lúc nào cũng được.”
“Tốt quá! Đa tạ Vương bá!” Cô mừng rỡ nhảy cẫng lên, chợt nghe thấy Địch Ác bên cạnh khịt mũi rồn rột, bèn ngoảnh sang nhìn nó. Rồi sợ Địch Ác hỉ mũi vào mình, cô lập tức lấy tay bịt mũi nó lại, nhưng khi nhìn vào mắt Địch Ác, cô tức thì nhận ra điểm bất thường. Trong đôi mắt to cồ cộ của Địch Ác, in cả bóng một người cao lớn rắn rỏi.
Hoàng Tử Hà ngập ngừng quay đầu lại: “Vương gia.”
Lý Thư Bạch đứng sau cách cô chừng ba bước, bình thản hỏi: “Sáng sớm đã đi đâu thế?”
“Nô tài đi… đấu kích cúc với Tả Kim Ngô Vệ.” Hoàng Tử Hà xưa nay không dám dối kẻ này. Trận cầu hôm nay vừa mở màn, ắt Lý Thư Bạch se rõ như lòng bàn tay. Cô còn phải nhờ y đưa mình về Thục, nên chẳng thể giấu giếm được y.
“Tả Kim Ngô Vệ à… Vương Uẩn sao?” Y nhướng mày.
“Vâng, Chu Tử Tần cũng mời Chiêu vương Ngạc Vương đến, chúng tôi họp thành một đội, đấu với Vương Uẩn.” Hẵng tạm chưa nhắc đến Trương Hàng Anh vội.
Lý Thư Bạch một mình giữ mấy chức, trong triều lại nhiều việc bận rộn, đâu thừa thời gian để ý tới cô, chỉ “ừm” một tiếng rồi dắt Địch Ác ra, tung mình lên ngựa.
Hoàng Tử Hà thở phào nhẹ nhõm, đang cởi dây cương của Na Phất Sa thì Lý Thư Bạch lại quay đầu ngựa, ngồi trên yên nhìn xuống bảo cô: “Đám người ở Tả Kim Ngô Vệ xưa nay vốn thô lỗ, chơi kích cúc cũng nổi danh hung tợn trong kinh đấy.”
Hoàng Tử Hà gật đầu, đương đoán xem y có ý gì, lại nghe thấy y nói thật nhanh, thật khẽ: “Ngươi... nhớ cẩn thận, đừng để bị thương.”
“Vâng.” Cô gật đầu, ngập ngừng ngẩng nhìn y.
“Lỡ như bị thương, ngày lên đường lại phải hoãn.”Y buông một câu giải thích rồi kéo cương giục ngựa quay đầu, đi thẳng.
Chỉ còn lại mình Hoàng Tử Hà dắt Na Phất Sa chầm chậm đi qua con đường lát đá xanh nở đầy hoa thủy lạp, lòng ngập những hoang mang.
Khi cô cưỡi Na Phất Sa chạy đến sân cầu, Trương Hàng Anh đã đứng một mình ở ngoài rìa.
“Trương nhị ca.” Cô nhảy xuống ngựa, bấy giờ mới phát hiện mình đã quên bẵng một việc, “Huynh không có ngựa à?”
“Nhà tôi làm sao mua nổi ngựa?” Trương Hàng Anh ngượng ngùng phân trần, “Thế nên thường ngày tôi cũng chẳng mấy khi chơi kích cúc, tôi đánh kém lắm.”
“Không sao, lần này chúng ta lôi kéo được cả Chiêu vương và Ngạc vương, người của Tả Kim Ngô Vệ bất luận thế nào cũng phải kiêng dè. Phần thắng của bên ta không nhỏ đâu.” Hoàng Tử Hà an ủi.
“Ừm, dù sao cũng phải đa tạ huynh và Tử Tần huynh.” Trương Hàng Anh nhìn cô đầy cảm kích.
Hoàng Tử Hà xua tay: “Không có gì, chúng tôi sẽ không để huynh về Đoan Thụy Đường chịu khổ nữa đâu.”
“Đúng thế, hôm nay nhất định phải giúp huynh vào được Tả Kim Ngô Vệ, sau đó đến Đoan Thụy Đường chọc lão già kia tức chết luôn.” Giọng Chu Tử Tần vang lên từ phía sau. Gã dắt ngựa đến, vỗ vỗ vào cổ ngựa, “Tiểu Hà, chào hỏi đi.”
Con ngựa nọ liền ngoan ngoãn gật đầu với hai người.
Nghe thấy tên con ngựa, Hoàng Tử Hà bỗng có một dự cảm chẳng lành: “Tiểu Hà ư?”
“Đúng thế, Hà trong Hoàng Tử Hà.” Chu Tử Tần âu yếm xoa đầu ngựa đáp.
Hoàng Tử Hà và Trương Hàng Anh lẳng lặng nhìn nhau, đều trông thấy biểu cảm câm nín trên mặt người kia.
Mặt trời mùa hạ vừa lên, cả thành Trường An đã bắt đầu nồng nực.
Bên Tả Kim Ngô Vệ tới hơn trăm người, ngoài đô úy Vương Uẩn, các đội trưởng như Hứa Tùng Vân hầu hết đều có mặt, còn thêm cả phò mã Vi Bảo Hoành.
Trông thấy bọn họ Vương Uẩn bước đến cười hỏi: “Có ba người các vị thôi ư? Ô, chỉ có hai thớt ngựa, thế thì làm sao thành một đội được?”
Y cười hết sức ôn hòa, song Hoàng Tử Hà càng nhìn càng thấy bứt rứt. Cô biết rõ y ghét mình, thậm chí có lẽ còn căm hận, nhưng ngoài mặt vẫn nhẹ nhàng hòa hoãn, hạng người như thế mới là đáng sợ nhất.
Chu Tử Tần cười đáp: “Vội gì chứ, còn hai người nữa, đợi lát họ đến, chắc chắn huynh sẽ nhận thua ngay.
“Ồ…” Vương Uẩn liếc Hoàng Tử Hà rồi hỏi; “Lẽ nào là Quỳ vương gia?”
Chu Tử Tần chớp mắt: “Không phải, nhưng cũng thừa sức đánh bại huynh.”
“Vậy ta chống mắt chờ xem.” Vương Uẩn cười cười, quay người trở về chỗ. Chu Tử Tần thoáng thấy phò mã Vi Bảo Hoành đang lau cây gậy trong tay, thì buột miệng “ối” lên: “Không phải chứ, Vương Uẩn ác quá!”
“Sao thế?” Hoàng Tử Hà hỏi.
“Vi Bảo Hoành cũng ra sân!”
“Phò mã giỏi kích cúc lắm ư?”
“Đâu chỉ giỏi! Năm xưa nếu không phải hắn thể hiện xuất sắc trong trận kích cúc mồng Một Tết tại cung Đại Minh, một mình thao túng cả trận đấu, đánh bại năm cao thủ kích cúc của Thổ Phồn thì đâu được hoàng thượng khen ngợi, còn lọt vào mắt xanh Đồng Xương công chúa?”
“Ác thật...” Hoàng Tử Hà nhìn con “Tiểu Hà” ngoan ngoãn nhu mì của Chu Tử Tần, lại nhìn Trương Hàng Anh không có nổi thớt ngựa, rồi nhìn xuống cổ tay mảnh dẻ của mình, không khỏi lo lắng trước trận cầu sắp tới.
Đúng lúc cô đang bế tắc thì từ bên ngoài sân rộ lên tiếng hô vạn tuế, ra là hoàng đế dẫn Quách thục phi và Đồng Xương công chúa đến.
Hoàng đế vận thường phục đen, vừa bước vào vừa cười nói với con gái. Đám cung nhân đã tức tốc kê xong ngự tọa, Quách thục phi còn tự tay bày hoa quả điểm tâm cho hoàng đế, hết mực săn sóc, lại phủ cả gấm đoạn lên ngăn bụi.
Quách thục phi tuổi tác xấp xỉ hoàng đế, song vì chăm sóc thường xuyên nên vẫn đầy phong vận, mặt hoa da phấn, nõn nà hồng nhuận tựa trân châu.
Dung mạo Đồng Xương công chúa rất giống Quách thục phi, nhưng đường nét cứng hơn, ngũ quan nhìn cũng mờ nhạt hơn mẹ, tuy đang ríu rít nói cười cùng hoàng đế, mặt mày rạng rỡ, song vẫn không giấu được vẻ sắc sảo mà mong manh, tựa như một lớp băng mỏng, chỉ chực vỡ tan.
Hoàng đế ngồi xuống, đưa mắt nhìn quanh rồi cười nói: “Nghe nói Thất đệ, Cửu đệ cũng tham gia trận cầu này, trẫm bèn tức tốc đến ngay! Đúng là việc trọng đại hiếm thấy, không thể bỏ lỡ được.”
Hoàng đế Đại Đường hầu như ai cũng mê kích cúc, năm xưa Mục Tông hoàng đế mới gần ba mươi, trong lúc chơi bị kẻ hầu lỡ tay đập trúng đầu, đến nỗi băng hà. Kính Tông nối ngôi, lại vì mê trò này mà mới mười tám tuổi đã bị hoạn quan mưu hại. Nhưng phong trào kích cúc trong hoàng thất chỉ có tăng không giảm, đương kim hoàng thượng tuy đánh không giỏi nhưng lại rất thích xem, nhất là hôm nay có hoàng thân quốc thích tham dự, ngài bèn bỏ cả triều chính mà đến.
Mọi người nhất loạt hành lễ tham kiến hoàng đế. Chẳng rõ có phải Hoàng Tử Hà quá nhạy cảm hay không, song cô luôn cảm thấy lúc nhìn lướt qua mình, nụ cười của hoàng đế thoáng đanh lại.
Có lẽ, trông thấy cô, Người lại nhớ tới Vương hoàng hậu trong cung Thái Cực.
Đợi hoàng đế ngồi xuống, Chiêu vương và Ngạc vương mới song song cưỡi ngựa tiến vào giữa vòng vây của mọi người. Thấy họ đi về phía Hoàng Tử Hà, Vương Uẩn hiểu ngay trợ thủ mà bọn Hoàng Tử Hà mời đến là ai.
Song y vẫn thản nhiên như thường, tựa hồ không hề để ý, chỉ mỉm cười tiến lại tham kiến hai vị vương gia, nói mấy lời hàn huyên khách sáo, cử chỉ phóng khoáng tự nhiên, cả vẻ kinh nhạc pha mừng rỡ khi trông thấy hai người cũng đúng độ tuyệt hảo.
Hoàng Tử Hà đành lẳng lặng cho Na Phất Sa ăn cỏ.
Chu Tử Tần trơ trẽn nhất, thấy hai vương gia không đem theo ngựa để thay đổi, liền bảo thẳng Vương Uẩn: “Vương huynh, tôi có chuyện này muốn thương lượng, bên chúng tôi thiếu một thớt ngựa, chi bằng huynh cho mượn đi?”
Người của Tả Kim Ngô Vệ nghe vậy đều cười thầm, vào trận mới mượn ngựa đối phương, quả là chuyện lạ chưa từng có xưa nay.
Song Vương Uẩn chẳng hề để tâm, vẫn thản nhiên hào sảng như trăng thanh gió mát, giơ tay ra sau làm hiệu:
“Chúng ta đem tới hơn mười thớt ngựa kia, Tử Tần ưng con nào thì cứ lấy.”
Chu Tử Tần cũng chẳng khách sáo, trỏ ngay con ngựa nâu cao lớn bên cạnh Vi Bảo Hoành: “Lấy thớt này đi!”
Vi Bảo Hoành cười: “Tử Tần thực tinh tường quá!”
“Khỏi phải nói, ngựa được huynh chấm ắt là tốt nhất rồi, tôi vẫn bái phục mắt nhìn của huynh mà.” Dứt lời, Chu Tử Tần ngang nhiên dẫn thớt ngựa nâu lại, nhét cương vào tay Trương Hàng Anh: “Mau lên ngựa đi, phải làm quen một lát.”
Vi Bảo Hoành tuy là phò mã, nhưng tính tình rất thoải mái dễ chịu. Hắn tiện tay dắt một con ngựa đen khỏe mạnh cạnh đó, cười nói: “Đổi ngựa thì vẫn thắng huynh như thường.”
Sân đấu đã được cào phẳng, Chiêu vương Lý Nhuế và Vương Uẩn rút thăm, xác định phần sân của đôi bên, rồi hai đội bắt đầu mặc áo đấu. Phe Hoàng Tử Hà áo đỏ, bên kia áo trắng.