Tôtem Sói

Chương 21

Thác Bạt Thọ( Nguỵ Thái Vũ đế- người dân chủ) năm 429 quyết định đẩy lùi sự xâm nhập của bộ lạc Nho Nho người Mông Cổ. Một số cố vân của nhà vua dự báo: Nam triều (Nam Kinh) đế quốc người Hán có thể nhân dịp này đem quân kiềm chế. Thác Bạt Thọ trả lời đơn giản: “Người Hán dùng bộ binh, ta dung kỵ binh, trâu bò làm sao chống nổi sói.”

(Pháp) Pierre Renouvin “Đế quốc thảo nguyên”

Trần Trận thấy mấy đàn cừu lần lượt rời hồ nước, liền gom chúng lại dồn tới ven hồ. Thấy đàn cừu đã tụ tập một chỗ, cậu phóng ngựa tới ven hồ trước. Bãy sậy phía tây bắc đã bị chặt quang, lộ ra những dải cát nhân tạo rất rộng để gia súc xuống uống nước. Một đàn ngựa sau khi đã uống no, vẫn đứng yên nhắm mắt dưỡng thần, không chịu lên bờ. Vịt trời và các loại thuỷ cầm vẫn đùa giỡn trên mặt nước. Vài con chim còn dám bơi dưới bụng ngựa, ngang nhiên chui sang bên kia. Đàn ngựa nhìn lũ chim bằng ánh mắt thân thiện, không dùng đuôi xua đuổi. Riêng thiên nga không chịu kết bạn với ngựa. Chúng lánh xa vùng nước đục do ngựa gây nên, bơi chậm rãi bên bờ đối diện, trong bãi sậy.

Đột nhiên trên quả đồi bên hồ có tiếng cừu be ầm ĩ: Đàn cừu của Trần Trận ngửi thấy mùi nước. Mùa hè cừu uống nước hai ngày một lần. Khát đã hai ngày, đàn cừu chạy ào xuống hồ làm tung lên từng đám bụi phía sau. Đàn gia súc vào bãi chăn mới chưa đầy mười ngày, bãi cỏ ven hồ đã bị chúng giẫm nát, biến thành bãi cát. Đàn cừu xuống nước, cắm đầu uống ngay bên cạnh đàn ngựa.

Đàn cừu uống no vừa đi lên đồi, bên hồ lại rộ lên những tiếng be của một đàn cừu khác khát nước, bụi vàng bay lên dày đặc hơn.

Trên một con dốc thoai thoải cách hồ nước hai dặm đã dựng lên ba bốn cái lán dân công. Vài chục dân công đang đào mương. Bao Thuận Quý chỉ huy đám dân công đào bể tắm chữa bệnh, xây nhà kho chứa lông cừu và trụ sở đội bộ tạm thời. Trần Trận trông thấy vài dân công cùng người nhà của họ đào mương, xới đất làm vườn rau. Cách đó rất xa, một số dân công đã đào xong một cái hố cực lớn, đang trình tường bằng đá hộc, vài chiếc xe lớn chở đá hộc và đá lát nhà đên địa điểm thi công. Không muốn nhìn mảnh đất trinh nguyên bị cày xới nham nhở, Trần Trận vội lùa cừu lên phia Tây Bắc.

Đàn cừu qua một con đèo xuống thung lũng cỏ. Ông Pilich yêu cầu các tổ chăn thả không quanh quẩn ở tráng cỏ, mùa hè ngày dài, cố gắng đi thật xa, để cuối hạ đầu thu không phải chuyển nhà. Ông đặt kế hoach dùng đàn cừu càn đi càn lại cả trong lẫn ngoài bãi chăn vài lượt, khống chế cỏ mọc vô tổ chức, lèn mặt đất, đề phòng đàn muỗi nguy hiểm. Đàn cừu Trần Trận dàn hình cánh cung, chậm rãi di chuyển đến dốc tây nam.

Dưới nắng, gần nghìn con cừu non như những bông cúc đại đoá trắng tinh nổi bật trên sườn dốc. Lông cừu non đã bắt đầu xoăn, chùng vừa ti sữa vừa ăn cỏ, khu đuôi mọc rất nhành, có con đã dài bằng khu đuôi cừu mẹ. Hoa cúc dại nở khắp nơi, trải màu vàng trước mặt Trần Trận. Hàng ngàn hàng vạn cây hoa chu cao hơn một mét, trên ngọn là một bông hoa màu vàng hình loa kèn, kẽ lá chi chít những nụ sắp nở. Trần Trận ngồi giữa đám hoa cúc vàng mà như ngồi trên đồng cải quê nhà. Cậu không ngờ trên cánh đồng hoang lại mọc nhiều cúc dại đến thế, bông cúc lớn hơn cúc vườn, nụ hoa to bằng cán bút bi.

Trần Trận đứng dậy nhảy lên ngựa phóng tới phía trước đàn cừu, chỗ hoa cúc dày nhất để hái. Những ngày này rau cúc là món ăn ngon miệng cho đám học sinh Bắc Kinh, cúc vàng xào thịt cừu, bánh gối cúc nhân thịt, nộm cúc hành. Mời mục dân thưởng thức, nhưng mục dân không thích mùi hoa cúc. Buổi sang trước khi đi làm, Cao Kiện Trung đã chuẩn bị sẵn cho Trần Trận hai cái túi. Mấy ngày nay, Cao Kiện Trung không cho Trần Trận đọc sách, tranh thủ hái hoa đem về trần nước sôi, hong khô để ăn trong mùa đông, có tên là rau tram vàng. Họ đã phơi khô được nửa tải.

Đàn cừu ăn cỏ phía sau rất xa, Trần Trận bứt từng nắm nụ hoa cúc, chẳng mấy chốc đã đầy một túi xách. Mải mê hái hoa cúc, Trần Trận chợt nhìn thấy cục phân sói, vội ngồi xuống nhặt lên xem kỹ. Cục phân có màu xám nhạt to bằng quả chuỗi tiêu, tuy đã khô nhưng vẫn có thể nhận ra chỉ cách đây vài hôm. Trần Trận ngồi xếp bằng tròn cân nhắc thật kỹ, cậu muốn có thêm ít kiến thức về phân sói. Cậu chợt nhận ra chỗ cậu ngồi đây chính là nơi con sói nằm nghỉ. Nó đến đây làm gì? Trần Trận nhìn thảm cỏ xung quanh, không xương xẩu vung vãi, lông lá cũng không. Rõ rang đây không phải là nơi sói đem con mồi đến ăn. Cỏ cao và rậm, đàn cừu của tổ thường đi qua, có thể đây là nơi sói phục kích. Trần Trận giật mình, vội đứng dậy nhìn bốn phía. Không sao, mấy cao điểm gần có mã quan đang nghỉ, và đàn cừu thì chỉ cách nửa dặm phía sau. Cậu lại ngồi xuống.

Trần Trận nhận biết phân sói, nhưng cậu chưa có dịp nghiên cứu kỹ. Cậu bẻ cục phân làm đôi, thấy toàn là lông dê vàng và lông cừu, không thấy xương, chỉ có vài chiếc răng chuột bé tí và chất canxi của xương dính bết vào nhau như vôi vữa. Sói nuốt vào bụng thịt cừu thịt chuột, da cừu da chuột, xương cừu xương chuột, gân cừu gân chuột, tiêu hoá bằng hết gần như không còn chút gì, chỉ còn lại những thứ không thể tiêu hoá như lông và răng. Xem xét kỹ, ngay cả lông cũng là những sợi xenluylô ở lông thô, còn lông mịn cũng tiêu hoá hết. So với sói, tiêu hoá của chó kém xa, trong phân chó còn bã xương và vỏ ngô hạt chưa tiêu hoá hết.

Trần Trận càng xem càng sợ, sói đúng là công nhân vệ sinh trên thảo nguyên. Chúng xử lý gọn bò cừu ngựa, rái cá dê vàng, thỏ đồng chuột đồng, thậm chí thi thể người chết, qua răng miệng dạ dày và ruột, chúng hấp thụ toàn bộ chất bổ dưỡng, cuối cùng chỉ còn thừa chút lông và răng, keo kiệt đến mức chẳng để lại chút nào cho lũ vi khuẩn. Thảo nguyên hàng vạn năm nay luôn sạch sẽ, đó là công lớn của sói!

Trần Trận rơi vào trầm tư. Ngàn vạn năm nay, người thảo nguyên và sói thảo nguyên du mục và săn bắt, khi về trời không để lại mồ mả bia đá, càng không để lại cung điện lăng tẩm. Người và sói từng sinh ra, sống, chiến đấu và chết trên thảo nguyên, đến như thế nào khi đi như thế. Những dũng sỹ thảo nguyên từng đánh chiếm cách thành luỹ và thành phố của mấy chục quốc gia, vậy mà cái chết của họ nhẹ như lông hồng, khiến cho những nhà khảo cổ đời sau đau đầu vì không khai quật được gì. Cái sinh mạng thảo nguyên nhẹ như lông hồng ấy, hoá ra rất tôn trọng sinh mạng của tự nhiên và của đấng cao xanh, là tấm gương cho những chủ nhân của những lăng mộ đồ sộ Kim Tự Tháp, Tần Hoàng lăng, Thái Cơ lăng coi cái chết nặng tựa Thái sơn. Người thảo nguyên thông qua sói mà đạt tới sinh mạng nhẹ tựa lông hồng, cuối cùng về với thiên nhiên. Họ không thể thiếu một trong hai, sau khi thể xác tiêu tan, họ hoà với thiên nhiên làm một.

Bột mịn lọt qua kẽ tay Trần Trận rơi xuống, có thể trong đám bụi này có tàn dư râu tóc người thảo nguyên. Thảo nguyên tháng nào, quý nào cũng có thiên tang đưa linh hồn người thảo nguyên lên trời. Trần Trận giơ cao hai tay ngửa mặt nhìn trời, chúc cho linh hồn họ bằng an hạnh phuc bên Tăngcơli.

Đàn cừu hình răng lược chậm rãi chải những búi hoa vàng tiến dần lên dốc núi. Trần Trận tiếc, không muốn vứt bỏ mấy cục phân sói, bèn bỏ vào một cái túi khác, lên ngựa đón đầu đàn cừu.

Trên đỉnh núi gần đó có một tảng đá lớn màu đen nhọ nồi, nhìn từ xa giống như một phong hoả đài. Trên những đỉnh núi xa hơn cũng có những tảng đá như thế. Trần Trận nheo mắt ngắm, thấy chúng như một đoạn trường thành còn sót lại, chợt nhớ tới câu thành ngữ “phong hoả hí chư hầu” (đốt lầu phong hoả đánh lừa chư hầu là có giặc cho vui) và “lang yên tứ khởi” (khói phân sói bốc lên mù mịt). Cậu từng tra những từ điển nổi tiếng, “lang yên” được giải thích là “khói đốt từ phân sói”. Nhưng như cục phân sói cậu vừa bóp nát cho thấy, phân sói chủ yếu do tàn tích của lông động vật tạo thành, làm sao có thể khói đen cuồn cuộn?

Chẳng lẽ trong phân sói có thành phần đặc biệt gì đó? Tim cậu đập rộn lên: “phong hoả đài” ngay trước mắt, sao mình không đốt lên, đùa giỡn “chư hầu” một cái, tận mắt trông thấy “khói sói” khiến dân tộc Hoa Hạ kinh hồn táng đởm hàng ngàn năm nay? Xem cái khói sói ấy nó kinh khủng như thế nào. Do tính hiếu kỳ thôi thúc, Trần Trận quyết định đi nhặt thêm ít phân sói nữa, để “khói sói” bốc trên “phong hoả đài”.

Đàn cừu di chuyển chậm, Trần Trận dạo qua rất nhiều lượt mới nhặt được chừng bốn vốc tay, chưa đầy nửa cái túi xách.

Trần Trận ngày càng sinh nghi, cứ cho là phân sói bốc lên khói đen, nhưng sói không như cừu, sói là loài mãnh thú di chuyển nhanh, phân rải rác khắp nơi, không tập trung một chỗ như cừu. Vì vậy kiếm đủ phân sói đâu có dễ. Ngay cả nơi đàn sói lớn tập trung tiêu diệt đàn dê vàng, cũng khó tìm thấy phân, nói gì dưới chân trường thành ít gia súc. Hơn nữa, các binh sĩ phong toả đài trên trường, thành nhặt phân sói ở đâu? Rất nhiều phong hoả đài, bao nhiêu phân sói cho đủ? Sức tiêu hoá của sói rất mạnh, bài tiết phân rất ít, do vậy phải có những đàn sói khổng lồ mới đủ phân cho các phong hoả đài. Trần Trận lại dạo vài lượt nữa vẫn không kiếm thêm được bãi phân nào. Cậu cho đàn cừu trú tại chân dốc lớn rồi phóng ngựa lên chỗ tảng đá trên đỉnh núi.

Trần Trận đến bên tảng đá nhìn lên. Tảng đá cao bốn tầm người, bên cạnh có nhiều tảng thấp có thể dùng làm bậc thang trèo lên. Cậu kiếm trong khe một ôm củi khô, buộc chặt, kéo lên đỉnh núi. Rồi đeo chéo túi sang bên, cậu trèo lên tảng đá, kéo bó củi lên theo. Bề mặt tảng đá bằng phẳng, rộng bằng hai chiếc bàn, bên trên có phân chim đại bàng trắng.

Lúc này đã gần trưa, đàn cừu nằm nghỉ trên bãi cỏ. Trần Trận đứng trên “phong hoả đài” dung ống nhòm quan sát kỹ bốn phía, không có sói. Đàn cừu của cậu cách những đàn cừu khác năm sáu dặm, đàn gần nhất cũng ngoài ba dặm, không sợ lẫn. Yên tâm, Trần Trận chất củi thành đống, bỏ tất cả chỗ phân sói lên trên. Giờ là dầu hạ, không phải đề phòng hoả hoạn, trên thảo nguyên toàn là cây tươi, vả lại, trên mỏm đá cao cao, có đốt lửa cũng không bị ca cẩm, người ta nghĩ các mã quan nướng thịt ăn.

Trần Trận ý đã quyết, móc cái ví da cừu nhỏ như quyển ngữ lục trong túi trên, bên trong có hai miếng thuỷ diêm và hơn chục que diêm đầu đỏ. Đây là vật bất li thân của những mục dân không nghiện thuốc trên thảo nguyên, dùng để phòng thân: Sưởi ấm, nấu nướng thức ăn, báo tin… Trần Trận quẹt diêm, đám củi khô lập tức bén lửa nổ tí tách, tim cậu đập thình thịch, nếu như phân sói bốc khói đen. Có thể nói từ khi có sử đến nay, đây là lần đầu tiên người Hán đốt lên làn khói của phân sói trên thảo nguyên Mông Cổ. Có thể mọi người trong đội đều nhìn thấy làn khói này, các thanh niên trí thức sẽ chắc chắn liên tưởng tới khói soi. Quả thật “khói sói” đã gieo rắc kinh hoàng trong tâm trí người Hán, nó là lời cảnh báo đặc biệt trong lịch sử văn hoá Trung Quốc, đồng nghĩa với báo động, khủng bố, chiến tranh bột phát và kẻ thù xâm nhập. “Sói đến đấy!” Tiếng kêu khiến người lớn trẻ em sợ mất vía, và “khói sói” khiến dân tộc Hán khiếp đảm, bao nhiêu vương triều Hán trung nguyên đã bị diệt trong “khói sói”!

Trần Trận hơi sợ, khói sói bốc lên, tất cả thanh niên trí thức trong đội lập tức lên án cậu. Nuôi sói chưa đủ hay sao, lại còn ngang nhiên nổi khói sói, thằng cha này chắc hẳn là quân bất lương, phản phúc khó lường. Trần Trận giơ cao chân, sẵn sàng dùng gót ủng giập lửa bất cứ lúc nào. Nơi đây là vùng biên, tình hình khá căng, vậy mà dám đốt lửa giỡn chư hầu, chẳng phải thông báo địch tình thì là gì? Nghĩ vậy Trần Trận toát mồ hôi lạnh.

Thế nhưng, lửa đã rừng rực mà chỗ phân sói không thấy động tĩnh, cục phân màu xám biến thành đen, không bốc khói cũng không cháy thành ngọn lửa. Đống lửa cháy càng to, phân sói đã bén lửa, bốc lên mùi hôi của sói và mùi khét của lông cừu, những vẫn không thấy khói đen. Đốt phân sói giống như đốt thảm len, khói bốc lên màu nâu nhạt, không đậm bằng khói củi. Củi cháy đùng đùng, phân sói cũng cháy thành ngọn lửa, cuối cùng tất cả đỏ rực, khói cũng không còn mấy, nói gì khói đen, khói trắng cũng không. Vậy làm gì có “khói sói” khiến người ta sợ mất vía? Làm gì có cột khói đen cuộn cuộn dâng cao đầy ma thuật? Chỉ là đống củi khô thêm vào đó ít thảm len rách, khói bôc lên rất bình thường, mỏng và nhẹ.

Trần Trận hạ chân xuống từ lâu, cậu gạt mồ hôi do sợ hão, thở ra nhẹ nhõm. Đống lửa này chẳng có gì ghê gớm, chỉ bằng những đống lửa sưởi ấm mùa đông. Cậu nhìn đống củi và những mẩu phân sói đã cháy hết, tịnh không thấy xuất hiện khói sói. Cậu đứng lên trên tảng đá cao, trảng cỏ rộng lớn phía đông hoàn toàn thanh bình: những chiếc xe bò chậm rãi lăn bánh, đàn ngựa trong hồ vẫn nhắm mắt dưỡng thân, đám phụ nữ cắm cúi xén lông cừu, các dân công đang đào đa hộc. Đống lửa không gây phản ứng gì, một dương quan gần nhất đang nhìn về phía cậu. Ống khói trên nóc lều Mông Cổ phía xa toả khói trắng, cột khói vươn thẳng lên trời. Làn khói sói đốt bằng chính nguyên liệu phân sói lại chẳng có gì đáng chú ý, không hấp dẫn bằng khói cơm trên túp lều Mông Cổ.

Trần Trận rất thất vọng. Cậu nghĩ, khói sói không có thật, chẳng qua là chuyện bịa. Thực nghiệm hồi nãy đã chứng minh sự phán đoán của cậu: Cái gọi là khói sói trên phong hoả đài, dứt khoát không phải khói của phân sói. Làn khói đen đặc kia hoàn toàn do đốt củi khô củi ướt và dầu mỡ khói bốc lên trời. Đốt phân cừu phân bò còn ướt cũng có khói đen, mà củi ướt, dầu mỡ, phân bò cừu ướt dễ kiếm hơn nhiều so với phân sói. Giờ thì cậu có thể khẳng định, khói sói là cách nói dựa vào uy thể của sói, hoàn toàn bịp bợm, là lời tự dối mình của cư dân hoà bình Hoa Hạ.

Gió thổi tro củi và tro phân bay khỏi “phong hoả đài”. Trần Trận không sợ khói sói, cậu rất ghét cái lối giải thích về khói sói trong những từ điển danh tiếng của Trung Quốc. Nền văn minh nông canh Hoa Hạ hiểu rất nông cạn về văn minh thảo nguyên, không hiểu tí gì về sói thảo nguyên. Khói sói không đơn giản là khói của phân sói, chỉ cần đốt một ít phân sói là biết liền. Nhưng vì sao hàng triệu người Hán bao nhiêu năm nay không đốt thử? Từ một góc độ khác, Trần Trận thấy cái chuyện đơn giản như thế, thực tế không giản đơn chút nào. Sự mở mang nền văn minh nông canh mấy nghìn năm đã giết sách sói Hoa Hạ, người Hán có đâu phân sói mà nhặt? Những ông già đi nhặt phân đều là phân trâu bò dê cừu chó ngựa hoặc phân người, ngẫu nhiên gặp phân sói cũng không nhận ra.

Trần Trận ngồi trên “phong hoả đài” suy nghĩ rất lung. Đã bảo khói sói không phải khói của phân sói, vậy thì khói đen cuồn cuộn trên phong hoả đài sao lại gọi là khói soi? “Khói sói”, từ này quả đáng sợ hơn, có tác dụng uy hiếp hơn đàn sói, còn từ “sói” trong “Sói đến đấy” không phải đàn sói thảo nguyên, mà là lá quân kỳ thêu hình đầu sói của kỵ binh Đột Quyết; là những kỵ binh Hung Nô, Tiên Ty, Đột Quyết, Mông Cổ hùng mạnh, mang tính sói của thảo nguyên, noi gương sói, rất thích tự ví mình là sói, ví người Hán là cừu; luôn luôn tự hào về sói mạnh một chọi trăm của mình mà khinh rẻ tính cách nhu nhược như cừu của các dân tộc nông canh. Còn dân tộc nông canh Hoa Hạ cổ đại vẫn coi kỵ binh thảo nguyên là “sói”. Nghĩa ban đầu của “khoi sói” phải là “Khói lửa trên phong hoả đài, là tín hiệu bằng khói lửa cấp báo kỵ binh dân tộc thảo nguyên sùng bái tôtem sói, đã xâm phạm quan nội”. Khói sói và phân sói không hề lien quan.

Cậu chợt nghĩ, có lẽ trên thế giới này chỉ Hán ngữ có cái từ “khói sói”. Trên đời này, chuột sợ mèo nhất, cừu sợ sói nhất. Lấy “khói sói” tượng trưng cho cuộc tiến công đáng sợ nhất của dân tộc thảo nguyên, đã bộc lộ bản chất tính cách cừu tính hoặc gia súc tính của dân tộc Hán. Từ khi Mãn Thanh lên thảo nguyên, do tộc Mãn du mục yêu thảo nguyên và nông canh, khói sói tiêu tan dần. Nhưng mâu thuẫn sâu sắc giữa văn minh thảo nguyên và văn minh nông canh vẫn không được giải quyết. Người Hán không hiểu thảo nguyên. Sauk hi dựng nước, khói sói tắt hoàn, nhưng khói đen khẩn hoang lại lan rộng trên thảo nguyên. Đay là một loại khói lửa chiến tranh, đáng sợ hơn khói sói, là cuộc chiến tranh tự  sát dã man hơn tự huỷ trường thành. Trần Trận nhớ lại ông Ulichi, nếu như bắc trường thành biến thành sa mạc, nối liền sa mạc Mông Cổ thành một dải, vậy Bắc Kinh sẽ như thế nào? Trần Trận thở dài, để dân tộc nông canh xưa nay coi thảo nguyên như kẻ thù, yêu mến và trân trọng thảo nguyên, có lẽ phải đợi khi trường thành bị sa mạc vùi lấp mới có thể. Dân tộc nông canh là dân tộc chưa thấy quả báo nhỡn tiền thì chưa chịu, tộc Thanh sau khi vào trung nguyên dần dà bị văn minh nông canh đồng hoá, bế quan toả cảng, tự đóng cửa lại mà huenh hoang khoác lác, cự tuyệt văn minh bốn phương, không chịu cải cách đổi mới, nếu không có chuyện các cường quốc đưa tàu to súng lớn mở toang cửa ngõ Trung Quốc, cắt đất đền tiền, đuổi hoàng thất ra khỏi kinh thành, chưa hẳn đã có cuộc cải cách gượng gạo mấy chục năm sau đó.

Trần Trận nhìn cục phân sói dưới đất đã biến thành tro, buồn da diết.

°

°

Cái nắng mùa hạ trên cao nguyên, đến trưa bỗng trở nên gay gắt, toàn bộ cỏ trên đồng bị héo lùn ba tấc, tảng đá khổng lồ nứt thêm mấy vết mới. Trần Trận vun tàn tro nhét đầy các kẽ nứt, rồi trèo xuống trở lại trảng cỏ. Đàn cừu say nắng rúc trong bụi cỏ, cằm sát đất, lưng phơi lên trời, núp dưới cái bóng của chính mình. Cả đàn đang ngủ trưa, im phắc.

Ẩn sau một phiến đá lớn, Trần Trận cũng muốn chợp mắt một lát nhưng không dám. Chỗ này vừa nhặt được phân sói, rất có thể một con sói lớn đang ẩn nấp đâu đó chỉ đợi mình ngủ say. Trần Trận uống mấy ngụm lớn sữa chua trong bi đông, thấy đỡ buồn ngủ. Mỗi lần đi chăn cừu, cậu lại đến nhà Caxưmai lấy đầy bi đông sữa chua, loại nước giải khát của dương quan trong mùa hè, cũng là đồ uống chống nóng ưa thích của người và chó ở nhà.

Có tiếng vó ngựa. Đanchi đang nhảy xuống. Anh mặc áo dài trắng Mông Cổ, thắt lưng đoạn màu xanh ra vẻ một trang anh tuấn. Khuôn mặt đỏ như táo chin đẫm mồ hôi. Anh lau mặt, bảo Trần Trận: Té ra là cậu. Hồi nãy trông thấy khói trên tảng đá tưởng cậu dương quan nào nướng rái cá. Tôi buồn ngủ quá nên đốt lửa cho đỡ ríu mắt lại. Cừu của anh đâu? Đanchi trỏ đàn cừu ở sườn núi phía bắc, nói, ngủ cả rồi. Mình buồn ngủ quá, nhưng sợ nên tìm cậu nói chuyện. Đừng lo cho đàn cừu của mình, mình đã giao cho dương quan trông rồi. Hai cậu dương quan đang đánh cờ đằng ấy. Đanchi ngồi hóng mát sau tảng đá.

Trần Trận biết mục dân thảo nguyên biết chơi cờ bắt dê; cờ tướng quốc tế thì do kỵ binh Mông Cổ đem từ phương Tây về. Nhưng không ai biết chơi cờ tướng Trung Quốc. Ông Pilich nói: Quân cờ người Hán toàn chữ Hán, người Mông Cổ không đọc được. Cờ phương Tây không có chữ nhưng ai cũng nhận ra, nhất là con mã không khác đầu ngựa Mông Cổ là mấy. Người Mông Cổ rất thích quân cờ có đầu ngựa. Trần Trận nghĩ thầm, đến nay Mông Cổ còn lưu giữ những hiện vật, chứng cứ, ảnh hưởng của kỵ binh Mông Cổ càn quét thế giới đem về. Dân tộc thảo nguyên tiếp xúc với cờ tướng quốc tế và quốc tế sớm hơn nhiều so với người Hán, là dân tộc phương Đông thu được chiến lợi phẩm sớm nhất từ phương Tây. Thời kỳ Mông Cổ chinh chiến thế giới, ngay cả giáo hoàng La Mã cũng cử sứ thần đến chào. Sự dũng mãnh của người Mông Cổ là một trong những nguyên nhân khiến phương Tây không dám khinh rẻ người phương Đông. Sau khi lên thảo nguyên, Trần Trận đã học được lối chơi cờ tướng quốc tế.

Mùa hè trên thảo nguyên, ban ngày dài dễ sợ, hơn ba giờ đã sang, bảy tám giờ tối mới tối hẳn. Tuy đàn cừu sợ giẫm sương bị thấp khớp, tám giờ mới xuất chuồng, nhưng phải đợi đến chin giờ nắng khô sương mới lùa cừu lên núi. Nhưng buổi chiều thì phải đợi tối hẳn mới cho cừu về chuồng, vì đây là khoảng thời gian cái nóng dịu đi, cừu tranh thủ ăn cỏ vỗ béo. Mùa hè chăn cừu dài gần gấp đôi mùa đông. Các dương quan đều sợ mùa hè. Sáng uống bát trà sữa, bụng đói đến tận tám chin giờ tối, nắng và buồn ngủ, khát và đói, nhàm chán và cô đơn. Giữa mùa hạ, khi đàn muỗi bay ra, thảo nguyên đúng là nhà tù. Sau khi lên thảo nguyên, đám thanh niên trí thức mới biết, so với mùa hạ, mùa đông rét buốt triền mien, nhưng lại là mùa người ta béo lên.

Trước khi đàn muỗi kéo đến, Trần Trận khó chịu nhất là đói. Mục dân rất giỏi nhịn đói, nhưng phần lớn đau dạ dày. Mùa hè đầu tiên, thanh niên trí thức đem theo lương khô, nhưng về sau dần dà nhập gia tuỳ tục. Nói đến rái cá nướng, bụng hai người réo ùng ục.

Đanchi nói: Bãi chăn mới rái cá rất nhiều, sườn núi phía tây toàn là hang rái cá. Hôm nay thăm thú tình hình, mai đặt một ít bẫy, đến trưa chắc chắn được vài con. Trần Trận luôn miệng khen hay, nếu như bẫy được rái cá thì vừa no bụng vừa tỉnh ngủ. Đanchi thấy hai đàn cừu chưa muốn dậy ăn cỏ, liền dẫn Trần Trận sang đỉnh dốc phía tây nấp sau những phiến đá thạch anh, vừa có thể theo dõi đàn cừu phía sau, vừa quan sát hang rái cá sườn núi phía trước. Hai người lấy ống nhòm ra quan sát kỹ. Sườn núi yên tĩnh, hơn chục nấm đất trước hang trống không, phản chiếu tia thạch anh lấp loáng. Hang rái cá ở Ơlôn rất sâu. Rái cá đùn cả quặng trong núi ra ngoài hang, mục dân có khi nhặt được đá saphia màu tím hoặc đá cuội chứa quặng đồng. Chuyện này làm kinh động đoàn thăm dò địa chất quốc gia, nếu Ơlôn kề sát đường biên thì đã trở thành vùng mỏ từ lâu.

Chỉ lát sau, từ bên sườn núi vọng lại tiếng “chít chít”, “chút chút” rất to. Đó là rái cá phát đi tín hiệu thăm dò trước khi ra ngoài. Chỉ cần bên ngoài không có phản ứng là hàng loạt rái cá chuẩn bị ra ngoài hang. Lại một loạt tiếng kêu nữa, vài chục con rái cá to có nhỏ có chui lên, gần như mỗi nấm đất đều có một con rái cá mẹ ngó nghiêng, liên tục phát ra những tiếng “chít chít” nhịp nhàng chậm rãi, báo hiệu bình yên. Thế là lũ rái cá con chạy hểt ra ăn cỏ cách đó mấy chục mét. Đại bang lượn vòng trên cao, rái cá mẹ cảnh giác nhìn trời, nếu kẻ thù sà xuống, rái cá mẹ lập tức kêu “chíp chíp”, đàn con chui hết xuống hang, đợi hết nguy hiểm lại mò lên.

Trần Trận nhích người sang bên, động tác hơi mạnh. Đanchi vội dung tay ấn lưng Trần Trận, nói nhỏ:  Trông kìa, bên dưới cái hang ở tận cùng phía bắc có một con sói. Người và sói cùng một ý tưởng rồi. Nó cũng định ăn thịt rái cá. Nghe nói đến sói, Trần Trận hết cả buồn ngủ vội giơ ống nhòm về phía mục tiêu. Một con rái cá đực rất to đứng thẳng trên một nấm đất, hai chân trước buông xuôi trước ngực ngó quanh, không dám xuống ăn cỏ. Rái cá trên thảo nguyên, con cái ở cùng đàn con, con đực ở riêng một hang. Phía dưới cửa hang của con sói đực cỏ mọc rất cao, mỗi khi có gió lại lộ ra mấy hòn đá màu vàng, đám cỏ rung rinh, rất khó phân biệt mọi vật. Trần Trận nói: Tôi chưa trông thấy con sói, chỉ thấy mấy hòn đá.

Đanchi nói: Nó ở ngay bên cạnh hòn đa. Mình đồ chừng nó phục ở đấy lâu rồi. Trần Trận lại nhìn kỹ mới thấy thấp thoáng nửa thân con sói, buột miệng nói: Mắt anh mới tinh chứ, làm sao tôi không thấy nhỉ? Đanchi nói: Nếu cậu không biết sói bắt rái cá bằng cách nào thì dù mắt tinh đến mấy cũng khó nhìn thấy nó. Sói chọn hướng ngược gió phục kích phía dưới cửa hang, trong đám cỏ rậm. Một lần bắt rái cá không dễ, nên sói chọn con đực. Cậu xem, con đực này mới to chứ, gần bằng con cừu choai, ăn một con đủ no. Muốn tìm sói, trước hết tìm rái cá đực trên miệng hang rồi lần xuống đám cỏ cao phía dưới theo hướng ngược gió…

Trần Trận vui vẻ kêu: Hôm nay lại học thêm một chiêu. Khi nào con rái cá này ăn cỏ? Tôi rất muốn biết con sói bắt con rái cá như thế nào. Sói ló đầu lên, con rái cá liền chui tọt vào một cái hang gần đấy là sói chịu phép. Đanchi nói: Sói đần không bắt nổi đâu, phải là con thông minh kia. Sói đầu đàn thường giở tuyệt chiêu, rái cá có muốn chui vào hang cũng không được. Cậu cứ ở đấy mà xem tài nghệ con sói này.

Hai người ngoảnh lại nhìn đàn cừu, thấy chúng vẫn nằm yên bèn quyết định đợi. Đanchi nói: Rất tiếc hôm nay không đem chó theo. Có chó ở đây, đợi sói bắt được rái cá, liền thả chó cho đuổi, còn ta lên ngựa phóng theo, dứt khoát cướp lại được con rái cá. Dù cho hai người ăn nhưng vẫn đảm bảo một bữa no. Trần Trận nói: Đợi lát nữa ta thử đuổi theo xem sao, chưa chắc đã đuổi kịp. Đanchi nói: Chắc chắn không đuổi kịp. Cậu thấy đấy, sói trên sườn núi, sói chạy xuống, ta chạy lên, càng không đuổi kịp. Trần Trận đành thôi.

Đanchi nói: Mai ta đặt bẫy. Hôm nay đưa cậu đi quan sát tình hình, sói cũng chỉ còn nửa tháng bắt rái cá. Nửa tháng nữa mưa xuống, muỗi bay ra, sói không bắt rái cá nữa. Vì sao? Vì muỗi cứ nhè vào mũi vào mắt vào tai sói mà đốt khiến sói nhảy như choi choi thì còn nằm phục sao được. Sói động là rái cá chạy liền. Khi đó sói mới tấn công đàn cừu đàn ngựa chúng ta, người và gia súc khốn đốn đây.

Con rái cá đực nhìn đàn rái cá ăn cỏ, không chịu nổi nữa, nó bèn nhảy xuống chạy một quãng chừng hai chục mét bứt mấy miếng rồi chạy trở lại nấm đất, kêu cầm canh như cũ. Đanchi nói: Cậu xem, con rái cá không ăn cỏ ngay miệng hang để khỏi lọ miệng hang. Động vật hoang dã trên thảo nguyên sống rất khó khăn, sểnh ra một tí là mất mạng.

Trần Trận sốt ruột nhìn con sói, đoán chừng từ chỗ nấp nó không trực tiếp nhìn thấy, chỉ bằng thính giác mà phán đoán vị trí và hành động của con rái cá, vì vậy nó ép sát gần như chui xuống đất.

Con rái cá đực chạy ra chạy vào mấy lượt không thấy có gì nguy hiểm liền buôn lỏng cảnh giác, nhằm một búi cỏ lớn chạy tới. Chừng năm sáu phút trôi qua, con sói bật dậy. Điều khiến Trần Trận giật mình là con sói không vồ ngay con rái cá, mà nó cào cho sỏi đá lăn xuống rào rào. Con rái cá đực cách đó hai chục mét nghe tiếng động giật mình chạy trở về hang. Lúc này con sói nhanh như chớp nhảy vọt lên nấm đất trước cửa hang con rái cá, và gần như cùng một lúc, nó và con rái cá chạm trán nhau ở cửa hang. Con rái cá định chạy sang hang khác nhưng không kịp, con sói ngoạm gáy con rái cá cắn một phát đứt cổ, rồi nó ngẩng cau đầu, miệng ngậm con rái cá nhanh nhẹn vượt qua một con đèo mất hút, từ lúc xuất kích cho đến lúc hạ con mồi chưa đầy nửa phút.

Trên sườn núi, lũ rái cá biến mất. Trần Trận tận mắt chứng kiến tuyệt kỹ của con sói mà sững người. Trí tuệ của loài sói thật không thể lường, Trần Trận đã đọc “Nguồn gốc loài vật” nhưng sách không giải thích rõ, chỉ trong cuộc sống cậu mới được mục kích kỳ tích này.

°

°

Nắng ngả màu vàng, hai đàn cừu đã đứng lên ăn cỏ, di chuyển theo hướng tây bắc một hai dặm nữa. Hai người chuyện trò thêm dăm câu rồi ai nấy đi về đàn cừu của mình. Đã đến lúc đổi hướng cho con cừu đầu đàn để về chuồng. Đúng lúc hai người định đứng lên dắt ngựa, Trần Trận chợt phát hiện có chuyện xao động giữa đàn cừu, vội giơ ống nhòm lên thấy một con sói lông màu vàng kim từ bụi cúc bên trái đàn cừu vọt ra quật ngã con cừu mẹ rồi cắn xé. Trần Trận tái mặt định hét lên, nhưng Đanchi vội ấn cậu xuống. Trần Trận chợt hiểu, ngừng ngay tiếng kêu. Con sói ăn thịt đùi cừu ngay khi con cừu còn sống. Cừu thảo nguyên là loại động vật hạ đẳng, thấy máu không dám kêu. Cổ toé máu, chân giãy đạp nhưng nó không dám kêu lên như sơn dương để được cứu.

Đanchi nói: Xa đàn quá, cứu không kịp. Để nó ăn no rồi sẽ tính. Đanchi bình tĩnh, con sói chết tiệt, dám bắt cừu ngay trước mũi mình. Hai người ngồi yên bên tảng đá, sợ đứng dậy sớm quá, kinh động con sói.

Rõ rang đây là con sói đói, thấy người chăn xa đàn đã lâu, bèn lợi dụng những đám cúc vàng bò tới, bất chợt nhảy ra ăn thịt cừu. Nó đã trông thấy hai người và hai con ngựa nhưng không bỏ chạy, vừa theo dõi hai người, ước lượng chính xách khoảng cách, vừa tranh thủ từng phút từng giây ngốn hết miếng nọ đến miếng kia, ăn được chừng nào có thể ăn. Trần Trận nghĩ, thảo nào sói con ở nhà ăn như ăn cướp. Trên thảo nguyên, thời gian là thịt, ăn nhỏ nhẹ thì chỉ có chết đói.

Trần Trận từng nghe kể chuyện dương quan đổi cừu lấy sói. Căn cứ vào tình hình trước mắt, có lẽ phải dung cách này. Đổi một cừu lấy một sói lớn, quá lãi. Một sói lớn một năm ăn thịt mười mấy con cừu, đấy là chưa kể ngựa lớn ngựa nhỏ. Dương quan đổi cừu lấy sói, không bị đội phạt đã đanh, mà còn được biểu dương. Nhưng Trần Trận vẫn lo, không tóm được sói thì thiệt to. Cậu dán mắt vào ống nhòm, con sói ăn hết cái đùi chỉ trong một phút, cả da lẫn lông. Hai người rón rén đến bên ngựa, lặng lẽ cởi dây buộc chân, nắm chặt dây cương thấp thỏm chờ đợi.

Giống cừu thậm ngu. Khi con sói ăn thịt con cừu mẹ, mấy chục con gần đấy kinh hoàng chạy túa ra, nhưng chỉ lát sau chúng trở lại bình tĩnh, thậm chí có những con còn đứng gõ móng tỏ vẻ sốt ruột hoặc xán lại gần xem sói ăn. Tiếp theo lại hơn chục con nữa xúm quanh. Cuối cùng, hơn trăm con cừu đứng chen chúc vòng trong vòng ngoài đường kính dễ đến ba mét, nghển cổ mà nhìn sói ăn đồng loại, nét mặt tỏ ra “sói ăn cậu, chả việc gì đến tới!” hoặc “cậu chết thì tớ thoát”. Đàn cừu sọ vạ vào thân, không con nào dám chống lại sói.

Trần Trận trong lòng đau nhói. Cậu không nén nổi căm phẫn. Cảnh tượng trước mắt khiến cậu nhớ lại những gì Lỗ Tấn  tả một đám dân ngu giống hệt lũ cừu trước mặt: Vươn cổ mà ngó quân Nhật giết người mình!

Sói ăn thịt cừu là dã man, nhưng nhu nhược như cừu quả thực đáng sợ, khiến lòng người tê tái.

Đanchi có vẻ lúng túng. Là thợ săn nổi tiểng của đội mà bỏ mặc đàn cừu, đưa một thanh niên trí thức đi xem sói bắt rái cá, giữa ban ngày ban mặt để sói vồ mất mẹ cừu. Mất mẹ, cừu con thiếu sữa sẽ không lớn, không qua nổi mùa đông. Có thể coi như một vụ thiều tinh thần trách nhiệm, Trần Trận bị phê bình, Đanchi tránh không khỏi liên can. Gay go là sẽ có người làm to chuyện, vì sao sự cố sói ăn thịt cừu mẹ lại xảy ra đối với người nuôi sói con? Người nào không quan tâm đến cừu thì không nuôi được cừu, người nào bắt sói về nuôi chắc chắn sẽ bị sói mẹ báo thù. Những đội viên phản đối nuôi sói nhân dịp này sẽ tha hồ thêu dệt. Trần Trận càng nghĩ càng sợ.

Đanchi dùng ống nhòm quan sát rất lâu, hình như anh ta đã có chủ ý. Anh ta bảo: Con cừu mẹ cứ tính vào tôi, nhưng tôi sẽ lấy da. Tôi chỉ việc đem bộ da lên nộp Bao Thuận Quý, ông ta sẽ biểu dương cả hai chúng ta.

Con sói vừa nhìn người bằng ánh mắt sói, vừa tăng nhanh tốc độ ngốn thịt. Đanchi chỉ: Không đến mấy lúc đói cũng ngốc. Sao nó không nghĩ lát nữa còn chạy nổi không? Tôi đồ chừng đây là con sói ngố, bắt không được rái cá mới quay về đây. Chắc nhiều ngày nay không có gì vào bụng.

Trần Trận thấy con sói đã ăn gần hết nửa con cừu, bụng căng như trống, bèn hỏi: Xông tới được chưa? Đanchi nói: Đừng vội, đợi lát nữa. Phải rất nhanh đấy. Ta từ phía nam đuổi tới buộc nó phải chạy lên phía bắc. Phía ấy có mấy dương quan, họ sẽ chặn đường giúp ta.

Đanchi còn xem một lúc nữa, cuối cùng hô: Lên ngựa! Hai người vịn cọc yên nhảy lên mình ngựa nhằm phía nam đàn cừu phi tới. Con sói chưa vội bỏ chạy, thấy người tới, còn cắn thêm mấy miếng nữa mới bỏ con cừu lại, nhằm phía bắc chạy đi. Nhưng chạy được vài chục mét, hình như nhận ra sai lầm, con sói dừng lại đột ngột, ngồi xổm, đầu cúi xuống. Đanchi hét to: Không hay rồi, nhanh lên! Nó định nôn bớt. Quả nhiên Trần Trận trông thấy nó thót bụng lại, nôn ra toàn là thịt. Hai người tranh thủ thời cơ ngàn năm có một, thúc ngựa vọt lên, loáng cái đã đuổi kịp con sói.

Trần Trận chỉ biết sói oẹ thức ăn trong bụng để nuôi con, không biết sói nôn thức ăn để nhẹ bụng chạy cho dễ. Con sói đói cũng không ngu. Nếu chỉ còn bụng không thì cừu bị sói ăn thịt đúng là sự cố. Cậu lập tức ra roi cho ngựa vọt lên, ngựa Đanchi lại càng nhanh, anh ta vừa hò hét vừa gọi các dương quan trên núi giúp đỡ. Đanchi sắp tới gần, con sói buộc phải ngừng nôn, điên cuồng bỏ chạy, tốc độ nhanh gấp đôi lúc nãy. Trần Trận đuổi theo một đoạn, trông thấy đống thịt con sói nôn ra màu đỏ tươi. Cậu càng cuống, thúc ngựa đuổi bắt bằng được.

Có lẽ trong bụng còn khá nhiều thịt, thực phẩm mới ăn vào bụng chưa phát huy tác dụng, nên con sói tuy chạy nhanh nhưng vẫn chưa đạt tộc độ thường ngày của nó. Con ngựa của Đanchi đã chạy nhanh bằng con sói. Chạy thêm đoạn nữa, con sói đột nhiên đổi hướng chạy lên con dốc cao, định dùng tuyệt chiêu lăn dốc của sói để thoát hiểm. Đúng lúc, dương quan Tang Kiệt hiện ra vung cây thòng chặn đường sói chạy. Con sói run lên, nhưng nó chỉ lưỡng lự trong giây lát rồi lập tức đổi hướng xông thẳng vào đàn cừu gần nhất. Trần Trận không ngờ con sói tính nước lợi dụng đàn cừu hỗn loạn làm chậm chân ngựa, mã quan vướng cừu không tung được thòng, để một lần nữa thoát hiểm.

Nhưng đúng lúc con sói do dự, Đanchi không bỏ lỡ thời cơ thúc ngựa vọt lên tiếp cận nó. Tang Kiệt cũng nhanh nhẹn chặn đường con sói chạy về phía đàn cừu. Con sói lần nữa định đổi hướng, chỉ thấy Đanchi vươn người ra phía trước giơ cao cây sào dài thượt, đồng thời ném thòng trúng cổ con sói. Không cho nó rụt cổ để gỡ thòng, Đanchi run nhẹ cho thòng lọng xiết chặt cổ chỗ yết hầu và lập tức quay ngựa kéo lê con sói phía sau.

Con sói đã mất khả năng chống cự. Thân hình nặng nề của nó càng làm cho thòng xiết chặt đến thè lưỡi, há miệng thở dốc cùng với bọt máu. Đanchi cho ngựa chạy lên dốc để sức kéo lớn hơn. Trần Trận chạy theo sau thấy con sói  co giật toàn thân bắt đầu giãy chết. Trần Trận thở ra nhẹ nhõm, vậy là sự cố để sói ăn mất cừu đã được hoá giải. Nhưng cậu không sao vui lên được khi thấy con sói lớn đầy sức sống mà chỉ trong vài phút đã chểt ngoẻo. Thảo nguyên tàn khốc vô cùng. Thảo nguyên yêu cầu nghiêm khắc đối với các loài động vật về khả năng sinh tồn. Chỉ cần lóng ngóng vụng về một chút là bị đào thải. Trần Trận tiếc ngẩn ngơ. Cậu thấy con sói rất thông minh, mạnh mẽ: Nếu có những con người như thế, liệu có bị đào thải không?

Khi ngựa chạy đến nửa dốc, con sói đã không cựa quậy nữa, nhưng vẫn còn thở ra bọt máu. Đanchi xuống ngựa, vừa xiết vừa rút ngắn dây thòng, cầm lấy cây gậy vẫn lồng ở cổ tay vụt liền mấy gậy rồi rút dao Mông  Cổ đâm một nhát giữa ngực con sói. Lúc Trần Trận xuống ngựa, con sói đã tắt thở. Đanchi đá con sói hai cái thấy không có phản ứng, liền lau mồ hôi trên mặt, ngồi xuống cỏ lấy thuốc ra hút. 

Tang Kiệt ngó con sói khen Đanchi mấy câu. Rồi giúp Đanchi dồn cừu về. Trần Trận chạy đến đàn cừu của mình, định hướng về nhà cho chúng, rồi quay lại xem Đanchi lột da sói. Mùa hè nóng bức sợ da bị thối nên không lộn trái mà mổ phanh như lột da cừu, tấm da có thể trải phẳng. Lúc Trần Trận quay lại, Đanchi đã phơi tấm da sói trên cỏ.

Trần Trận nói: Đây là lần đầu tiên em trông thấy giết sói bằng thòng lọng, sao anh giỏi thế? Đanchi cười hề hề: Mình nhận ran gay con này hơi vụng về. Nếu nó nhanh nhẹn một chút thì khi cái thòng rơi trúng cổ, nó rụt đầu mà lắc cho bật ra. Trần Trận nói: Mắt anh tinh thật, phục anh đấy. Em có tập dăm ba năm cũng không được như anh. Con ngựa của em cũng không ổn. Sang năm em phải luyện vài con, trên thảo nguyên mà không có ngựa tốt không xong. Đanchi nói: Cậu bảo Batu chọn cho một con. Batu như anh trai cậu, chắc chắn sẽ chọn cho cậu một con ngựa tốt.

Trần Trận chợt nhớ đến con sói của Đanchi, hỏi: Lâu nay bận quá không đến được, con sói của anh thế nào rồi? Có ai nói gì không? Đanchi lắc đầu nói: Đừng nhắc đến nó nữa, hôm kia mình đập chết nó rồi. Trần Trận bị hẫng, vội hỏi: Đập chết rồi à? Sao thế? Xảy ra chuyện gì với nó?

Đanchi thở dài, nói: Giá như mình xích nó lại như cậu đã làm thì hay. Con sói của mình nhỏ hơn con của cậu, sói tính cũng không rõ lắm, nên mình vẫn cho sống chung với lũ chó con, sau một tháng chúng đã quan nhau, kể cả với chó cái, không ai biết nó là sói. Sau đó nó lớn nhanh hơn chó, như một con bécgiê, cả nhà ai cũng thích. Con sói rất thích chơi với thằng con mình. Thằng nhỏ lên bốn, cũng rất thích con sói. Chẳng ngờ hôm kia đang chơi với nhau, con sói cắn thằng nhỏ một miếng vào bụng chảy máu, dứt đứt một mẩu da. Thằng nhỏ đau quá, khóc. Răng sói rất độc, độc hơn răng chó, mình sợ quá vác gậy vụt chết luôn rồi bế thằng nhỏ đến chỗ cô Bành tiêm hai mũi mới không sinh chuyện. Giờ bụng thằng nhỏ vẫn còn sưng.

Trần Trận có vẻ hoang mang, vội nhắc: Phải rất cẩn thận, vẫn phải tiêm tiếp. Bệnh dại có thể tiêm phòng, không sợ.

Đanchi nói: Chuyện này mục dân đều biết, bị chó cắn là phải tiêm phòng ngay, bị sói cắn lại càng phải tiêm. Sói và chó khác nhau hoàn toàn. Dân ở đây nói không thể nuôi sói, xem ra đúng thế thật, sói không đổi tính, sớm muộn sẽ sinh chuyện. Mình khuyên cậu đừng nuôi nữa, con của cậu to lớn, sói tính càng lớn, nọc độc ở răng càng lớn, bị nó cắn một miếng là mất mạng. Xích cũng không an toàn.

Trần Trận cũng hơi sợ, nghĩ một lúc, cậu nói: Em sẽ cẩn thận hơn, nuôi được nó lớn đâu có dễ! Em không nỡ. Ghét nó như Cao Kiện Trung mà bây giờ suốt ngày chơi với nó.

Các dương quan đã về hết. Đanchi cuộn tấm da lại buộc bên yên rồi lên ngựa về trại.

Trần Trận nhớ con sói. Cậu đến bên con cừu bị sói ăn thịt, dùng dao lưỡi gập của thợ điện, cắt bỏ những chỗ sói ăn dở, bỏ ruột, để lại tim gan, rồi cột đầu cừu vào cọc yên,chuẩn bị đem về cho đàn chó và sói con ở nhà. Cậu lên ngựa cho đi từng bước một, lòng nặng trĩu.

Hôm sau, chuyện Đanchi  đổi cừu lấy sói lan khắp đại đội. Bao Thuận Quý được biếu tấm da, tán dương Đanchi hết lời, lại còn thưỏng cho anh 30 viên đạn. Sau đó mấy hôm, một dương quan trẻ tổ 3 cũng dùng cừu dụ sói, kết quả mắc mưu một con sói thành tinh. Nó chỉ ăn một đùi rưỡi con cừu, không nhiều hơn, nghĩa là ăn đủ chứ không ăn no, không hề ảnh hưởng đến tốc độ chạy, trái lại càng khoẻ, loáng cái đã mất dạng. Cậu dương quan bị ông Pilich phê bình một trận trước đại đội, phạt cả nhà cậu một tháng không ăn thịt cừu.