Tôi Tự Học

Chương 7: Ba Yếu Tố Chính Để Xây Dựng Một Nền Văn Hóa Vững Vàng

A. Óc khoa học

Tạo cho mình có được một đầu óc khoa học là phát huy được cái khiếu ham chứng minh và lý luận, đồng thời phân biệt được rõ ràng thế nào là một chứng minh luận cứ, thế nào là một thực nghiệm.

❉❉❉

Chứng minh luận cứ là đem một thực nghiệm để chứng minh, để lập luận, còn thực nghiệm là một sự kiện và chỉ là một sự kiện thôi. Như trước đây đã có nói: những sự kiện không chứng minh gì cả (les faits ne prouvent rien). Chứng minh luận cứ thì có màu sắc chủ quan, trái lại, không cố cưỡng đem sự thật để chứng minh gì cả, đó là nhận xét khách quan.

Vì thế, óc khoa học có rất nhiều hình thức khác nhau, nhưng tựu trung ta nên phân biệt óc toán họcóc thực nghiệm. Người có óc toán học (esprit mathématique) thì ưa lý luận, ưa chứng minh, người có óc thực nghiệm (esprit expérimental) thì trái lại, không tin nơi lý luận mà chỉ dùng thực nghiệm làm nền tảng cho sự hiểu biết của mình. Thực ra, hai khuynh hướng ấy không phải ngược nhau mà thường bồi bổ cho nhau. Các bậc vĩ nhân trong giới khoa học như Henri Poincaré, tự mình vừa là một nhà toán học đại tài, vừa cũng là một nhà vật lý học đại tài, ông không chịu hạn chế mình trong một khu vực khoa học nào cả. Nhà toán học cần phải nhận thấy rằng đời rất là phức tạp và những vấn đề nhân sinh không thể nằm ngoan ngoãn trong hình thức của những phương trình toán học. Còn nhà sinh vật học cũng phải biết nhìn lên trên những hình thức phức tạp của các giống sinh vật, cây cỏ và thú vật, để tìm lấy một ý nghĩa chung của sự vật trên đời, tìm mà hiểu biết và chứng minh.

Bởi thế, tinh thần khoa học đòi hỏi nơi ta một học vấn khá cao về toán học và biết rành rẽ những phương pháp thực nghiệm. Nhưng, ở đây cái phẩm quý hơn cái lượng cũng như bất cứ trong các vấn đề liên quan đến văn hóa. Sự học vấn của ta nên chú trọng về bề sâu hơn bề rộng.

Hình học sơ đẳng cũng đủ cho ta ý niệm được thế nào là một luận chứng. Không có gì giúp ta thấy rõ cách cấu tạo một khoa học khít khao bằng một quyển hình học. Hình học là một cái học giúp cho người ta tiến bằng cách “đứng dừng một chỗ”. Thật vậy, mỗi định lý mới đều bị quy về một định lý cũ: “luận chứng” tức là lập định rằng cái định lý mới chẳng qua là mới về hình thức thôi, thực ra nó là kết quả dĩ nhiên của những định lý cũ, những công thức mà ai ai cũng phải nhìn nhận không cần chứng giải những thứ chân lý tiên thiên. Cho nên mới nói rằng hình học là cái học “đứng dừng một chỗ”.

Tuy nhiên, lần lần tinh thần ta nhờ sự nghiền ngẫm mà tiến lên, tiến một cách từ từ mà ta không dè, vì “chân đứng” đã vững vàng rồi.

❉❉❉

Toán học giúp cho vật lý học phương tiện biểu diễn một cách rạch ròi những quy luật của thiên nhiên. Nhưng, ta cũng nên nhớ rằng lý thuyết suông không đủ, cần phải thông hiểu những phương pháp thực nghiệm. Có được một mớ hiểu biết thực dụng như có được vài phương thức sẵn để trở thành một anh thợ chụp ảnh hay sửa chữa máy, chưa có thể xem đó là mình đã thông hiểu được phương pháp thực nghiệm. Một cái học đã thành lập rồi thường lại che lấp không cho ta thấy cái học đang thành lập, những “phương thức sẵn có” thường làm cho ta lãng quên những kinh nghiệm mà người khác đã trải qua và dò dẫm lâu ngày để lần mò đến chân lý. Vì vậy, tự mình tìm tòi và kinh nghiệm tuy không là bao, nhưng nó giúp cho sự hiểu biết của mình linh động, sâu sắc hơn là sự thu nhận thụ động một số kiến thức sẵn có do kẻ khác phát minh sáng tạo đã trình bày trong các sách khoa học.

Bởi vậy, thay vì “nhồi nhét” một mớ học thức “sẵn” về một phát minh nào, ta cần trình bày trước những dò dẫm vất vả của nhân loại đi từ kinh nghiệm này sang kinh nghiệm kia mới đến kết quả ấy. Có khi chỉ vì một sự kiện mới vừa được phát minh mà tất cả hệ thống học thuyết đã an bày kia cần phải kiểm soát lại và đánh giá lại. Người ta sẽ thấy rõ sự cần thiết của phương pháp thực nghiệm trong việc đi tìm chân lý. Cũng phải chỉ cho học sinh biết rằng lắm khi kết quả của một cuộc tìm tòi khoa học lại đi ngược lại với mục đích ban đầu, nghĩa là thực nghiệm thường chống đối lại với ức thuyết.

❉❉❉

Học khoa học, cần phải tìm biết bằng cách nào và bởi những nguyên nhân nào các nhà bác học đã phát minh sáng tạo được, tức là biết được lề lối làm việc trong công trình suy tầm chân lý, hiểu được những phương pháp thực nghiệm của những bậc vĩ nhân trong giới khoa học. Đời sống hằng ngày của ta không cung cấp cho ta đủ phương tiện để tự mình thực hiện được phương pháp thực nghiệm, thì ta chỉ còn có một cách là theo dõi những công trình tìm kiếm của những nhà bác học đương thời đã được ghi trong những tập tiền thuyết của họ hay trong những tiểu sử do những kẻ cộng sự của họ tường thuật lại. Nhà sách Armand Colin có cho ra tập sách nhan đề là Classiques de la Science, trong đó, chính các nhà bác học viết ra những thực nghiệm của họ như tập trần thuyết của Augustin Fresnel về ánh sáng, của Lavoisier về không khí và nước. Công trình tìm tòi và phát minh khoa học của Pasteur được René Vallery Rodot miêu tả tỉ mỉ trong một quyển tiểu sử nói về ông [1]. Darwin đã để lại cho ta một tài liệu vô cùng quý giá về sự cấu tạo tư tưởng của ông ta trong quyển Voyage d’un naturaliste autour du monde fait à bord du navire le Beagle de 1831 à 1836 (Bản dịch của Barbier, Paris - 1883). Tủ sách Bibliothèque de Philosophie scientifique in ra dưới quyền giám đốc của bác sĩ Gustave Le Bon (Flammarion) cũng như tủ sách Nouvelle Collection scientifique sau này xuất bản dưới quyền giám đốc của Émile Borel (Alcan), có cho in nhiều quyển sách về khoa học, trong đó miêu tả rất rõ ràng những phương pháp thực nghiệm của chính những nhà phát minh khoa học viết ra. Nhờ đọc những quyển sách ấy, người ta mới quen thuộc được với những phương pháp thực nghiệm. Đó là vai trò của những quyển lịch sử khoa học và trần thuyết khoa học đối với sự đào tạo óc khoa học của ta vậy.

B. Óc triết học

Con người mà biết suy nghĩ, dù lòng có ham thích đeo đuổi theo cái học trục vật thế nào, dù có muốn hạn định ngành hoạt động của mình trong một khu vực khoa học nào, trong đời cũng không sao có lần tránh khỏi chạm đến những vấn đề to tát của nhân sinh, liên quan đến số phận của con người. Biết suy tưởng, biết cảm giác, biết đau khổ, biết hy vọng nghĩa là biết phập phồng lo sợ cho tương lai, biết tiếc uổng đau buồn vì quá khứ. Khi mà ta biết thắc mắc tự hỏi thế nào là ý nghĩa của cuộc đời, ở đâu ta đến, nơi đâu ta ở, và trên con đường vô định sau này ta sẽ đi về đâu, sao là phải, sao là quấy, đâu là cứu cánh giá trị của khoa học, của nghệ thuật, của tôn giáo, đâu là chỗ sơ khởi và dừng lại của kiếp người trong khoảng mênh mông vô tận, đó là ta đã bắt đầu triết luận. Triết luận tức là tìm hiểu cái ý nghĩa của mọi sự mọi vật trên đời, tìm cái chỗ ý thức và nhất trí của những gì rời rạc vô ý thức, tức là biết nhìn lại quá khứ, nhận định được hiện tại và phòng bị cho tương lai. Triết luận là tìm một phương hướng, một thái độ trước sự phiền phức của cuộc đời. Tìm hạnh phúc, tránh đau khổ và tìm những nguyên nhân đã tạo ra cái khổ, đó là mục tiêu của triết lý.

Thực ra, trong đời sống hằng ngày của ta, mỗi người đều đã, hoặc vô tâm hay hữu ý, nhìn nhận một thái độ triết lý nào rồi. Dù là kẻ không tin đến triết lý và tìm cách để chứng minh rằng sống không cần đến triết lý, sự chứng minh ấy tỏ rằng họ cũng đã triết lý nhiều rồi đấy!

❉❉❉

Một thứ triết lý, dù tầm thường và nông cạn thế nào, cũng ảnh hưởng ít nhiều đến cách ăn ở cư xử của người nhận nó, hoặc giúp cho mình có thêm nhiều can đảm, nhiều hy vọng mà chịu đựng mọi đau khổ trên đời. Tôi nhớ có một nhà văn đã nói: “Có nhiều người - mà tôi là một trong nhóm người ấy - tin rằng sự quan trọng nhất và ích lợi nhất cho ta là đứng trước bất cứ một ai, cần phải biết quan niệm của họ về vũ trụ như thế nào. Đành rằng ông chủ nhà cần phải biết trước số huê lợi của người mướn nhà, coi họ có đủ điều kiện trả tiền tháng cho mình không? Nhưng quan trọng hơn nữa, là phải biết nhân sinh quan của người ấy như thế nào? Một vị tướng trước khi giao chiến đành rằng phải biết tổng số quân của địch, nhưng quan trọng hơn hết là phải biết trước triết lý về nhân sinh của quân địch như thế nào. Câu nói này thâm thúy vô cùng! Đối với kẻ có một nhân sinh quan như Tào Tháo: “Thà ta phụ người hơn để người phụ ta” thì giao thiệp với con người ấy là điều đáng lo ngại vậy.

❉❉❉

Bất cứ một thứ học nào mà thiếu những chân trời rộng rãi của triết học làm hậu thuẫn là những thứ học còn thiếu sót và không vững chắc.

Triết học phải là cứu cánh của tất cả mọi ngành học của ta, mỗi khoa là mỗi con đường, chung quy rồi cũng phải đổ dồn về một mối, là triết học.

Chân lý là một cái gì duy nhất, bao trùm; khoa học chỉ cắt xén nó ra từng mảnh vụn vặt để nghiên cứu riêng về một khía cạnh nào thôi. Mỗi khoa học chỉ nhìn thấy có một khía cạnh chứ không sao thấy được thật toàn diện, lại cũng thường thiên về phần vật chất hơn.

Sứ mạng của triết học là nhắm vào sự thỏa mãn óc thống quan của con người, tổng hợp lại những gì rời rạc, mâu thuẫn trong đời, nhìn cuộc đời một cách cao xa và rộng rãi hơn như người đứng trên núi cao mà nhìn khắp chân trời. Vì vậy, nhờ óc triết học người ta thấy được sự liên lạc giữa các sự vật, vì bao giờ họ cũng có cái nhìn bao trùm. Khoa học thì thiên về óc phân tích hơn, triết học thì chuyên về óc tổng quan hơn.

Tuy vậy, “óc hệ thống” (esprits de système) không phải là không nguy hại: Óc tổng quan thường lại dễ biến thành óc hệ thống, vì vậy chân lý chỉ có một mà học thuyết triết học thì mọc lên như nấm, khiến cho kẻ nào đam mê triết học, đọc triết học miết cũng phải điên đầu. Tâm trí loài người không thể nào nhận được có một sự mâu thuẫn, cái này phủ nhận cái kia, cái kia phủ nhận cái nọ, vì vậy họ tìm đủ cách để hệ thống hóa tư tưởng của họ. Chung quy chỉ vì bản tính của loài người là như thế: không thể chấp nhận được luật mâu thuẫn. Và vì thế mà suốt đời vẫn triết luận mãi không thôi.

Dù sao triết học vẫn phải là việc học căn bản của con người, một cái học làm danh dự cho con người.

Phải làm cách nào để tạo cho mình có được một cơ sở tạm vững về triết học? Ở đây, nếu có được một bậc thầy chỉ dẫn cho thì rất có lợi. Nhưng nếu mình là kẻ chỉ biết cậy nơi mình mà thôi, không được cái hạnh phúc có người giỏi người hay chỉ dạy cho, thì bước đầu tiên là phải nhờ đến những sách triết học đại cương, loại sách giáo khoa đang áp dụng trong các trường học.

Nhưng nên nhớ kỹ điều này: nhờ đến những sách giáo khoa là để mà vượt qua khỏi nó. Nghĩa là chỉ có những nhà triết học mới có thể truyền cho ta cái hiểu biết về triết học mà thôi. Vậy đọc sách giáo khoa, trong đó, người ta tóm tắt, lược thuật lại tư tưởng của các nhà triết học sao bằng đọc ngay tác phẩm của các nhà đại triết học. Dĩ nhiên là lúc đầu, phải có sự giới thiệu của một người sành sỏi trong giới triết học để ta làm quen được với tư tưởng các bậc đại triết gia ấy, bằng không, ta phải mất nhiều thời giờ vô ích.

❉❉❉

Bắt đầu các bạn nên khởi bằng tâm lý học, rồi tiếp đó luận lý họcluân lý học. Đó là hệ thống mà người ta đã dùng trong các lớp triết học.

Về sách giáo khoa thì phần đông các nhà giáo khuyên ta nên đọc bộ Traité de Psychologie của Georges Dumas. Sách này dày đến hai ngàn trang. Như vậy, người mới học triết học mà đọc nó sẽ bị lạc mất, vì sách này là một bộ sách do nhiều chuyên gia viết. Sách mà do nhiều người viết, nhất định là thiếu mạch lạc. Nó là một bộ sách nghiên cứu sâu rộng về nhiều vấn đề mà sau khi ta biết rõ đại cương rồi trở lại với nó là phải hơn. Vậy, tốt hơn là tìm đọc những sách do một người viết ra, một quyển sách vắn tắt hơn, gọn gãy hơn để cho ta dễ nhìn thấy mạch lạc về đại cương trước đã.

Theo chúng tôi, thì quyển Précis de Psychologie của William James, bản dịch của E. Baudin và G. Bertier (Marcel Rivière, 1909) là dễ đọc và linh động hơn hết. Gần đây, E. Baudin lại cũng có cho xuất bản một quyển Cours de Psychologie (Payot), và G. Dwelshauvers, quyển Traité de Psychologie có vẻ thông thái hơn, nhưng sách của Désiré Roustan thì gọn gẫy hơn.

❉❉❉

Khởi đầu học triết lý cần phải quan tâm đến cái ý nghĩa chính xác của những danh từ chuyên môn. Cần phải mua những bộ sách này: quyển Vocabulaire philosophique của Edmond Goblot (Colin, 1909) và nhất là quyển Vocabulaire technique et critique de la Philosophie của André Lalande với sự cộng tác nhiều hội viên của Société française de Philosophie (Alcan). Quyển của Goblot thì sơ lược lắm, nhưng rất có ích. Quyển của Lalande là quyển sách rất hay và rất đúng đắn. Trước khi học triết lý cần phải biết rõ định nghĩa của những từ ngữ triết học; bằng không chúng ta không sao tránh khỏi sự hiểu sai lầm.

❉❉❉

Học về luận lý học thì những bộ giáo khoa của Rabier (Hachette) và Liard (Masson) vẫn còn dùng được tuy đã cũ.

Có những quyển mới hơn như Leçons de Logique et de Morale của R. Hourticq (Delagrave), Philosophie scientifique et Philosophie morale của Félicien Challaye (F. Nathan); Manuel de Philosophie của A. Cuvillier (Colin).

Nên đọc thêm quyển Lectures sur la Philosophie des sciences của A. Lalande (Hachette). Quyển Logique của Goblot hay nhất, nhưng không phải viết cho hạng độc giả mới bắt đầu học triết học.

❉❉❉

Nhân các quyển nói trên của Hourticq, Challaye, Cuvillier chúng ta nên bắt qua khoa luân lý học. Về khoa luân lý, ta không cần phải lệ thuộc các sách giáo khoa nữa vì đề tài luân lý không khó gì mấy mà phải theo dõi những sách có tính cách giáo khoa. Ta nên thoát ra ngoài vòng kiềm tỏa của các sách giáo khoa mà đọc ngay những bộ như Justice et Liberté của Goblot (Alcan), Devoirs của Jacob (Rieder). Muốn hiểu biết các triết gia hiện thời đối với vấn đề luân lý ra sao thì nên xem quyển Le problème moral et la pensée contemporaine (Alcan) và Les bases psychologiques de la vie morale (Alcan) của Parodi.

❉❉❉

Giờ đây, ta hãy đi ngay vào trung tâm triết học. Cần học qua những quan niệm chính của các bậc đại triết gia về những vấn đề tâm, vật và trời. Đi vào siêu hình học thì nên đọc bộ Triết học của Cuvillier nhưng muốn có được một ý niệm rõ ràng và sơ lược về những danh từ triết học như các lý thuyết về duy tâm, duy vật, duy linh v.v… thì phải đọc lịch sử triết học mới được.

Nên đọc Les Systèmes philosophiques của A. Cresson, quyển La Philosophie comparée của Masson-Oursel, quyển Histoire de la Philosophie của E. Bréhier. Những quyển Initiation à la Philosophie của S. de Coster và Initiation philosophique của A. Ponceau cần phải đọc kỹ và nghiền ngẫm, nó sẽ giúp ta có nhiều ý tưởng hay lạ. Quyển Tour d’horizon philosophique (Gallimard) của Matila C. Ghyka giúp ta có được một cách nhìn thống quan rất cần thiết cho những ai bắt đầu học triết học, mặc dù hơi nông cạn.

❉❉❉

Về triết học Đông phương, cần phải đọc trước hết những bộ lịch sử triết học để có sơ lược một ý niệm chung về các luồng tư tưởng triết học của tam giáo Nho, Lão, Phật - ba hệ thống tư tưởng căn bản của triết học Đông phương. Bộ Trung Quốc triết học sử của Phùng Hữu Lan, Trung Quốc triết học sử cương yếu của Tưởng Duy Kiều, hoặc của Hồ Thích, đều đọc được cả. Bộ triết học sử của Phùng Hữu Lan xuất bản bằng tiếng Anh đã được dịch ra tiếng Pháp, nhan đề Précis d’histoire de la philosophie chinoise (Payot).

Những sách về triết học Đông phương do các học giả Tây phương viết ra như của Marcel Granet, René Grousset, H. de Glasenapp, Masson-Oursel, Wiéger, Brémond, Borel, Foucher, David-Néel, Linssen, Maspéro, Jean Hébert, Docteur Benoit, René Guénon, Romain Rolland v.v... đều cần phải đọc cả. Trừ ra một vài học giả sâu sắc như René Guénon (mà tôi xin đặc biệt giới thiệu với các bạn), phần đông đều ít nhiều mang đầu óc một người Tây phương để hiểu biết Đông phương, vì vậy có nhiều chỗ chưa thể gọi là khám phá. Tác phẩm của Hermann de Keyserling nhan đề Journal d’un philosophe cũng xin đặc biệt giới thiệu với các bạn. Phần phê bình của ông về các học thuyết Đông phương rất là sâu sắc.

❉❉❉

Đọc triết học không nên đọc sách một chiều. Như trước đây tôi đã nói, ta nên tìm đọc những lý thuyết tương phản. Lại cũng không nên tản mát tư tưởng mình trong những học thuyết này, học thuyết kia vô cùng phiền phức. Trong các học thuyết, cần phải chọn lọc cái nào hợp với tâm hồn ta. Bấy giờ cũng như lựa bạn mà chơi, ta hãy quyết tâm đi cho thật sâu vào học thuyết ấy để tìm lấy một con đường tu tâm xử thế đúng theo nguyện vọng thâm sâu của lòng mình. Sách mà đọc nhiều quá cũng có hại, vì nó không ảnh hưởng gì ta được cả. Người xưa có nói: “Tôi sợ người chỉ đọc có một quyển sách mà thôi”.

Dưới đây, xin giới thiệu các bạn một số sách của người Tây phương viết về triết học Đông phương mà tự tác giả đã đọc qua và cho là hay.

�● Sách thuộc về triết học đại quan

1. Histoire de la Philosophie orientale của René Grousset (Lib. Valois). Sâu sắc.

2. La Pensée Chinoise của Marcel Granet (Renaissance). Công phu.

3. Histoire de la Philosophie chinoise của E. V. Zenker (Payot).

4. Philosophie de l’Orient (trong bộ Histoire de la Philosophie của Masson-Oursel (Alcan). Nhiều ý kiến tân kỳ.

5. Les trois Religions de la Chine của W. E. Southil (Payot).

6. L’Orient et sa Tradition của Alfred Le Renard (Dervy).

7. Les Cinq Grandes Religions du monde của H. de Glassenapp (Payot). Quyển này thâm sâu.

8. Histoire des Croyances religieuses et des Opinions philosophiques en Chine, depuis l’origine jusqu’à nos jours của Wiéger. Công phu.

9. Introduction générale à l’Etude des doctrines hindoues của René Guénon (Chacornac). Rất hay.

10. Orient et Occident của René Guénon. Cần đọc kỹ.

11. La métaphysique orientale của René Guénon (Chacornac).

12. Trois courants de la Pensée Chinois antique của A. Waley (Payot).

�● Sách thuộc về loại tam giáo Phật giáo:

1. La doctrine suprême (2 quyển) của bác sĩ H. Benoit (Cercle du Livre). Thật hay.

2. Lâcher prise của H. Benoit. Trong mấy quyển này tác giả bàn rất sâu về Thiền tông (Zen).

3. Essais sur le Bouddhisme en général et sur le Zen en particulier của R. Linssen (2 quyển). Vắn tắt và hàm súc.

4. Le Bouddhisme của A. David-Néel (F. Alcan). Gọn gẫy và xác đáng.

5. Les Enseignements secrets dans les sectes bouddhisles tibétains của A. David-Néel. Thật hay (Adyar).

6. Le Mental Cosmique của Hsi-Yun. Sách nghiên cứu về Thiền tông (Adyar).

7. Essais sur le Bouddhisme Zen của Daisetz Teitaro Suzuki. Bộ này rất quý tuy rất khó đọc. (A. Michel).

8. La Sagesse du Bouddha của Georges Grimm (Lib. Paul Geuthner, Paris, 1931). Có thể nói là tinh hoa của Phật học.

9. Sectes bouddhiques japonaises của E. Steinilber Oberlin. Quyển này thật hay, văn chương lại bay bướm.

10. L’Essence du Bouddhisme của Daisetz T. Suzuki (Cercle du Livre). Chương đầu là một bài nghiên cứu của C. G. Jung về Le Zen et l’Occident. Rất thâm.

11. La Religion du Bouddha của Georges Grimm (A. Maisonneuve). Hay.

12. Le Non-Mental selon la pensée Zen của D. T. Suzuki (Cercle de Livre).

13. Le Bouddhisme của Entai Tomomatsu (F. Alcan).

Sách về Phật giáo còn rất nhiều, nhưng thiết nghĩ những cuốn trên đây đều là lựa chọn, nếu đọc kỹ, sẽ giúp ta có một cái vốn hiểu biết kha khá về Phật giáo.

Sách Việt về Phật giáo cũng khá nhiều, ngoài những bộ sách phổ thông của Phan văn Hùm, Thiện Chiếu. Ta nên đọc tạp chí Viêm Âm (Huế), là tạp chí về Phật giáo khá nhất trong nước từ trước đến giờ. Sách Phật giáo triết học của Phan văn Hùm, đại khái dịch từ sách Trung Quốc. Sách Phật giáo đại quan của Phạm Quỳnh rất tầm thường, chỉ dừng nơi luân lý đạo đức thông thường của Tiểu thừa. Sách Phật học tinh hoa của Thu Giang Nguyễn Duy Cần.

❉❉❉

Lão giáo:

- Sách Pháp.

1. Les Pères du Système taoiste của Léon Wiéger (Cathasia).

2. La Sagesse Chinoise selon le Tao của René Brémond.

3. Wu-Wei của H. Borel (Ed. du Rocher).

4. L’Esprit du Tao của Grenier (Flammarion).

5. Le Taoisme của Henri Maspéro (Civilisations du Sud S.A.E.P - Paris).

6. Le Livre de la Voie et de la Vertu, bản dịch của Stanislas Julien (1812). Rất công phu.

7. La Voie et sa Vertu, bản dịch Đạo Đức kinh của Houang Kia Tcheng và Pierre Leyris. Bản dịch khéo giữ được phần nào khí văn của nguyên tác.

- Sách Việt.

1. Lão Tử (1842) của Ngô Tất Tố - Nguyễn Đức Tịnh. Bình luận sai lạc nhiều và có nhiều thiên kiến đáng tiếc.

2. Nam Hoa kinh của Nhượng Tống dịch. (Tân Việt - Hà Nội). Bản dịch này chỉ dịch sát văn mà không sát ý. Không công dụng gì cả. Rất khó đọc.

3. Đạo Đức kinh bản dịch của Nghiêm Toản. Sách có tính cách giáo khoa hơn là phổ thông.

4. Trang Tử tinh hoa của Thu Giang Nguyễn Duy Cần.

(Khai Trí).

5. Trang Tử Nam Hoa kinh, bản dịch có chú giải và phê bình của Thu Giang Nguyễn Duy Cần.

6. Lão Tử tinh hoa của Thu Giang Nguyễn Duy Cần.

7. Lão Tử Đạo Đức kinh, bản dịch có chú giải và bình luận của Thu Giang Nguyễn Duy Cần.

❉❉❉

Nho giáo:

- Sách Việt.

1. Bộ Nho giáo của Trần Trọng Kim. Công phu.

2. Khổng học đăng của Phan Sào Nam. Sâu sắc nhưng khó hiểu.

3. Vương Dương Minh của Phan văn Hùm (Tân Việt). Công phu nhưng nông cạn.

4. Vương Dương Minh của Đào Trinh Nhất (Tân Việt). Tầm thường. Chưa thấu đáo phần hình nhi thượng của học thuyết.

5. Đại cương triết học Trung Hoa của Giản Chi và Nguyễn Hiến Lê. Công phu nhưng thiên về phần hình nhi hạ, chưa thông suốt phần hình nhi thượng của triết học Trung Hoa.

- Sách Pháp.

1. Textes Philosophiques của L. Wiéger.

2. Les quatre livres của Couvreur.

3. La Sagesse de Confucius của Lin Yu Tang (Victor Attinger). Hay.

4. Le Yih King (texte primitif rétabli, traduit et commenté) của Ch. de Harlez (Bruxelles - 1889).

Nền tảng triết học Đông phương của Trung Hoa là ở Kinh Dịch.

Cái học về Dịch Kinh đã có nhiều học giả Việt Nam đề cập đến. Tìm hiểu Kinh Dịch của Bửu Cầm, chỉ mới in tập 1 (Nguyễn Đỗ): tập này khổ nhỏ, quá sơ lược và sơ đẳng. Một nhận xét về Kinh Dịch của Uyển Diễm thì đứng trên lập trường mát xích mà phê bình.

❉❉❉

Những sách về triết học Đông phương của Ấn Độ, tôi xin giới thiệu các bạn tủ sách Les grands Maitres spirituels dans l’Inde contemporaine, Les trois Lotus, Bouddhisme et JainismeSpiritualités Vivantes (Albin Michel). Các bạn hỏi ngay nhà sách Adrien Maisonneuve, 11 Saint Sulpice, Paris.

Jean Hébert, Romain Rolland, René Guénon là ba học giả uyên thâm đáng là nhà hướng dẫn ta trong con đường đi tìm ánh sáng của triết học Đông phương.

Triết học phải là cái học căn bản cho các thứ học khác. Triết học giúp ta nhận chân được sự tương đối của khoa học, sự hạn định của nó trong vấn đề nhân sinh và nhắc cho ta nhớ rằng còn có nhiều giá trị khác nữa cũng không kém quan trọng.

❉❉❉

Tuy nhiên, học triết lý không có nghĩa là làm con mọt sách, nhớ vanh vách những gì kẻ khác đã nói, thuộc làu làu những hệ thống tư tưởng, những học thuyết của bá gia, để mà đem ra lòe người. Dù là những kẻ có cấp bằng tiến sĩ triết học mà chỉ là những kẻ giỏi thuộc lòng tư tưởng của kẻ khác, giỏi cái thuật nhớ dai để lặp đi nói lại cho kẻ khác nghe, chứ không biết suy nghĩ tư tưởng theo mình, kẻ ấy cũng vẫn là người chưa có óc triết học. Học triết học là để đào tạo cho mình cái khiếu ham suy nghĩ, biết tư tưởng, biết phán đoán, biết nhìn xét việc đời bằng một luồng mắt thống quan, biết tìm hiểu những ý nghĩ sâu kín bên trong các sự vật.

Tôi có nhiều người bạn rất sành về triết học, họ lại là người có những mảnh bằng cao. Mỗi khi ngồi hầu chuyện với họ, tôi hết sức bực mình vì bị gán là kẻ mang đầu kẻ khác mà suy nghĩ. Bất cứ là mình nói với họ những gì thì đã bị họ cắt ngang và bảo: đó là của Hegel hay đó là của Descartes. Thật là những người đáng thương hại với cái vốn học vấn không “tiêu hóa” của họ.

Ông Phan văn Hùm, trong bài tựa quyển Phật giáo triết học có nói: “Tôi muốn sao như vị hòa thượng kia ở Trung kỳ. Ngài sung sướng đề lên vách chùa bốn câu tuyệt diệu:

Kinh điển lưu truyền tám vạn tư

Học hành không thiếu, cũng không dư.

Năm nay tính lại: chừng… quên hết,

Chỉ nhớ trên đầu một chữ “như”.

Có học, có hiểu rồi có quên đi hết, mới thật là nhập diệu, mới không câu nệ như sách. Mới thoát được lên trên một học thuyết mà điều khiển những vấn đề thuộc về nó, không để bị điều khiển bởi học thuyết hay bởi vấn đề. Jules Lachelier chấm vở của Emile Boutroux ở trường Normale Paris, luận về một điểm nọ trong học thuyết Spinoza có đề một câu sâu sắc: “Pour comprendre un système, la première condition est d’y entrer, mais, la seconde d’en sortir” (Để hiểu đặng một học thuyết, điều thứ nhất là phải vào trong đó, và điều thứ hai là phải ra khỏi nó).

Người có óc triết học không phải là người chết trong các chồng sách triết học, mà là người đã biết thần hóa cái học của mình rồi. Pascal nói: “La vraie philosophie se moque de la philosophie”. (Chân triết học chả cần gì đến triết học).

C. Biết xúc cảm

Biết xúc cảm là điều kiện cốt yếu để tạo cho mình một cơ sở văn hóa sâu sắc hơn.

Thật vậy, ta thường gặp biết bao kẻ học giỏi, biết tư tưởng, biết phán đoán nhưng dường như cơ sở học vấn vẫn ở mực tầm thường mãi. Là tại sao?

Là vì họ thiếu “ngọn lửa” lòng, họ là những tâm hồn thiếu hăng hái, thiếu say mê vì ít thắc mắc và rất dễ dãi đối với bất kỳ việc gì. Sở dĩ họ cố công học hỏi ngày đêm là vì phải trải qua những kỳ thi khó khăn. Bởi vậy họ phải “học gạo”, chỉ học và đọc những gì có trong chương trình thi mà thôi, những môn nào không bắt buộc phải thi thì họ dẹp lại một bên, vì miễn cưỡng nên họ xem sự học như một phận sự phải làm, không gì hứng thú cả. Đến khi họ trở thành một nhà giáo, họ cũng vẫn dạy cho có dạy; không phải bài dạy của họ sai lầm hay vô ý thức, nhưng họ dạy một cách buồn chán, lạnh lùng, họ chỉ dạy trong chương trình trung học hay đại học, một cách lạt lẽo, không gây được lòng hăng hái hâm mộ của học sinh, cũng không truyền được cho học sinh lòng nhiệt thành ham mê học hỏi gì cả. Họ thiếu ngọn lửa thiêng của lòng hăng hái.

❉❉❉

Người ta đã nhận xét rất đúng: “Thiếu dục vọng, khó mà làm nên đại sự”. Kẻ thiếu nhiệt thành là những kẻ tầm thường. Học mà không biết ham mê, không bao giờ thành công. Luận ngữ có nói: “Biết mà học, không bằng thích mà học, thích mà học không bằng vui say mà học”.

❉❉❉

Làm sao tạo cho mình một tâm hồn nhạy cảm? Một tình cảm dồi dào?

Phương pháp thứ nhất là sống cho kẻ khác.

Sống cho kẻ khác là biết hy sinh cho kẻ khác, lấy hạnh phúc của người làm hạnh phúc của mình, tức là biết cảm và biết yêu. Kẻ mà không biết yêu ai cả, không biết thương thân phận của những người khác ngoài cái thân phận của mình, tức là người sống một đời chỉ lo cho mình thôi, là người mà tâm hồn cằn cỗi, không thể là một con người văn hóa cao được. Người có văn hóa cao là người có tâm và có trí. Một văn hào Pháp có nói: “Những tư tưởng cao cả đều do quả tim mình mà ra cả”. Chính vì lòng yêu nhân loại mà Pasteur tìm kiếm và phát minh vô số phương thức cứu nhân loại. Thích Ca, Jésus phải chăng là những bậc phi thường chỉ nhờ một tấm lòng yêu thiết tha nhân loại hơn người? Nói thế không phải muốn nói rằng chỉ có lòng yêu nhân loại mới xui người làm nên những phát minh vĩ đại. Có rất nhiều nhà bác học đại tài lại đi phụng sự bạc tiền và quyền thế thì sao? Không! Con người văn hóa cao, trước nhất phải là một người xứng đáng danh hiệu con người, nghĩa là trước hết phải là một người tài và đức, một người quân tử. Người chỉ có tài mà không có đức, không những là một người chỉ có hại cho đời mà thôi, tự mình lại cũng chưa hoàn thiện được sứ mạng làm người của mình.

❉❉❉

Phương pháp thứ nhì để tạo cho mình một mối cảm xúc dồi dào phải cậy đến văn nghệ. Văn nghệ làm tăng gia xúc cảm của ta bằng cách khích động nó. Thi ca, kịch, nhạc, họa... sẽ gây cho ta những xúc cảm mỹ thuật dồi dào. Thường ta gặp một cảnh hoạn nạn thương tâm, ta hay đem lòng thương cảm, rồi nhân cái đau khổ của người, ta liên cảm đến cái đau khổ của ta, nhờ vậy ta thấy mình biết cảm và ra khỏi cái tâm trạng khô khan của một tâm hồn không biết rung động.

Trên màn bạc hay sân khấu, kịch sĩ đã khéo gây thương cảm và làm cho lòng ta bồi hồi xúc động đến rơi lệ. Những vở tuồng hay là những vở tuồng bắt ta thấy lòng ta nhẹ nhàng vì đã biết cảm động và đau khổ cái đau khổ của kẻ khác. Có điều là kẻ đi xem kịch mà khóc vẫn biết là mình khóc những cảnh thương tâm trong tưởng tượng chứ không phải những cảnh thương tâm có thực. Vì thế mà ta ưa nó hơn những cảnh thực ở ngoài đời.

Ta đòi hỏi nơi nghệ sĩ cái tài tạo ra xúc cảm. Nhân loại đều ngưỡng vọng các nghệ sĩ, là tại sao? Là vì ai ai cũng đều muốn sống trong mộng, muốn thoát ra khỏi một cõi đời tẻ nhạt, vô vị, chán nản bằng cách lao mình vào ảo vọng. Nghệ sĩ sở dĩ được coi là cao quý tùy tài nghệ tạo xúc cảm của họ đã khéo đưa ta vào cõi mộng đến bậc nào và đó cũng là một sự đắc ý tạm thời của ta đối với những đau khổ, chán chường của cõi đời thực tế.

Phải chăng câu thơ hay là câu thơ làm cho lòng ta xúc cảm. Và Truyện Kiều, sở dĩ được đa số ưa thích phải chăng vì cốt truyện cũng như văn chương thật là lâm ly cảm động?

Trong chương trình văn hóa của người trí thức ngày xưa có bốn hoạt động văn nghệ là cầm, kỳ, thi, họa kể ra cũng rất là chu đáo. Theo chỗ tôi biết, người học thức ngày xưa ít thấy có người nào là không biết làm thơ, không thích ngâm thơ.

Mà thơ là một nghệ thuật bao gồm gần hết các nghệ thuật. Théodore Bainville nói: “Thơ là gồm cả âm nhạc, hội họa, điêu khắc, hùng biện. Và phải chăng nó là một nghệ thuật bao gồm đầy đủ nhất?” Và theo Lamartine, một câu thơ hay phải gồm đủ bốn yếu tố sau này: phải có cảnh, có tình, có tứ, có nhạc. Nghĩa là nó phải thể hiện được một cái tứ cho trí não, một cái tình cho tâm cảm, một hình ảnh cho con mắt và một nhạc điệu cho lỗ tai.

Như vậy những câu thơ sau đây của Nguyễn Du:

“Buồn trông cửa bể chiều hôm,

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa,

Buồn trông ngọn nước mới sa,

Hoa trôi man mác biết là về đâu.

Buồn trông nội cỏ rầu rầu,

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh

Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”.

phải chăng là những câu thơ tuyệt hay vì nó gồm đủ cả bốn yếu tố đã nói trên, có sức gợi cảm mãnh liệt.

❉❉❉

Thơ hay là ở sự khêu gợi, chứ không phải ở chỗ nói hết được ý mình. Những cái mung lung, mờ mịt càng kích động óc tưởng tượng và làm cho câu thơ trở nên huyền ảo ly kỳ. Tiếng đờn hay là hay ở dư âm. Câu thơ hay là hay ở chỗ hàm súc, lời vắn tắt mà hậu ý thâm trầm, man mác.

Trong Tỳ Bà Hành của Bạch Cư Dị có câu:

“Thủy tuyền lãnh sáp huyền ngưng tuyệt,

Ngưng tuyệt bất thông thanh tạm yết.

Biệt hữu u tình ám hận sinh,

Thử thời vô thanh thắng hữu thanh”.

Tạm dịch:

“Doành lạnh ngắt tơ mành như đứt,

Đứt chẳng thông tạm ngớt cung tơ.

Như sầu như ngẩn như ngơ,

Tứ riêng hay gấp tiếng tơ muôn phần”.

(Khuyết danh)

Thơ, thuộc về tâm cảm hơn là lý luận, vì vậy có kẻ khuyên nên đọc thơ bằng con tim hơn bằng khối óc. Lời khuyên ấy, kể ra cũng có lý.

❉❉❉

Con người đâu phải chỉ sống bằng lý, mà cũng phải sống bằng tình. Một đời sống mà người ta chỉ nghĩ đến ăn, ngủ, làm việc mà lòng mình không bao giờ biết đến những xúc cảm mãnh liệt của tâm tình, thì dễ chán làm sao!

Một nhà trí thức có văn hóa cao mà không thích thơ, hoặc không biết làm thơ, không biết thế nào là một câu thơ hay và hay ở chỗ nào thì tôi cho là một điều thiếu sót đáng tiếc. Có nhiều kẻ đã vu cho thơ là mơ mộng, là huyền ảo, là lơ lửng trên hư không. Nhà văn Ernest Bersot trả lời: “Người ta thường tin tưởng rằng thơ là giả dối bởi nó biến thế tất cả những gì nó mó đến; người ta lầm: Thơ, không phải là giả dối, nó chính là chân lý đấy, nhưng là thứ chân lý mãnh liệt hơn cái chân lý trong đời sống tầm thường”. [2]

Theo Lamartine: “Thơ là một sự an ủi tâm hồn mình bằng những tiếng khóc nức nở của quả tim”. Nó là tiếng “kêu thương, rên rỉ” của tâm hồn. Bởi vậy Anatole France mới nói: “Khoa học không quan tâm gì đến việc làm vui lòng hay làm buồn lòng ai cả. Vì vậy, nó không có lòng nhân. Thơ làm cho ta say mê ngây ngất, an ủi vỗ về ta, cho nên nó còn cần thiết hơn là khoa học” [3].

Nhà bác học Darwin, lúc về già than thở vì đã mất hứng thú về mỹ cảm: “Từ mấy năm nay tôi không thể đọc được một câu thơ nào cả. Tôi cũng không thể đọc Shakespeare, lại cũng đã không còn ưa thích họa và nhạc nữa. Than ôi, mất những hứng thú ấy là mất một nguồn hạnh phúc, có thể rất nguy hại đến sự thông minh và tính tình của mình, làm giảm mất cảm xúc của tâm hồn” [4]

Phương pháp thứ ba là biết sống một mình trong cô tịch, giữa cảnh vật thiên nhiên.

Sống trong xã hội, người ta vì nể nhau mà phải bị bắt buộc sống trong giả dối. Cả một giàn “nghi lễ” giả tạo bắt buộc ta phải dẹp tình cảm ta qua một bên, tỏ vẻ lạnh lùng và cố giữ vẻ trầm lặng bí ẩn. Chẳng những ta không được quyền bộc lộ bản tính của ta, lại còn bị phong tục, tập quán xã hội làm lệch đi và lại phải thay vào đó bằng những cử động, những cảm tưởng mà xã hội thời thượng chấp nhận, dù là trái với tâm cảm của ta. Cái sống phiền phức, nhộn nhịp của đô thị dễ làm khô héo tình cảm thanh cao của ta. Sống trong cô tịch là dịp hay để mình sống trở lại trong sự thành thực với cõi lòng.

Trong những lúc mà văn minh trở nên phiền phức nhất có lẽ là những lúc mà lòng người cảm thấy ham thích cái thú sống trong những cảnh thiên nhiên cô tịch nhất. Là vì cái đời sống cạnh tranh nhộn nhịp khiến lòng ta càng khao khát sự sống trong yên tĩnh, thành thực và tự do. Sống được năm ba ngày trong thôn quê, nơi một làng mạc xa xôi hẻo lánh đem lại cho tâm hồn mình một liều thuốc thanh lương và giải thoát.

Lại nữa, nếu cảnh vật thiên nhiên càng gồ ghề hùng vĩ thì sự tẩm bổ tinh thần lại càng thêm sâu mạnh. Con người đứng trước những cảnh tượng bao la bát ngát, trước những lực lượng tự nhiên vô cùng vĩ đại dường như luôn luôn lăm le chìm đắm ta trong vực sâu hay nghiền nát ta như tro bụi... thì những bản giá trị sai lầm cốt đề cao bản ngã của ta mà ta đã sống hàng ngày, trong xã hội phù phiếm xa hoa, bỗng biến lần và có khi mất hẳn nơi tâm hồn ta. Trước cảnh vật vô cùng hùng vĩ, con người cảm thấy những cao vọng của mình đều là ti tiện không đâu. Một thứ tình cảm thanh cao sâu sắc xâm chiếm tâm hồn ta và nâng nó lên cao trên những vùng cao nhất của tinh thần. Khí tượng như chim phụng hoàng trên mây xanh thì những lợi hại cỏn con không còn động được tâm nữa.

Thánh Bernard có nói: “Anh sẽ tìm được một cái gì rộng rãi và sâu thẳm trong những cảnh rừng hoang vu vắng lặng hơn là trong sách vở”. Vì vậy, ta đã thấy, các bậc đạo học cao thâm thường là những kẻ thích sống trong những cảnh non cao rừng thẳm, chẳng phải để tránh đời mà là vì hợp với tâm hồn thiên về hướng nội của mình hơn. Kẻ nào thích sống một mình, bao giờ cũng là người thâm trầm sâu sắc hơn kẻ thích sống trong nhộn nhịp tưng bừng của bè bạn, hội hè. Ảnh hưởng của thiên nhiên đối với tâm hồn thật là rõ rệt như ta đã biết qua khi bàn đến trước đây về ảnh hưởng của địa lý đối với tâm tính con người. Người xưa tin nơi địa lý cũng có một phần nào đúng với tâm lý đã nói trên:

“Hồng lĩnh sơn cao,

Song ngư hải khoát.

Nhược ngộ minh thời

Nhân tài tú phát”.

Hoan Châu

(Nguyễn Thiếp)

Văn hào André Maurois cũng có nói:

“Những người làm việc nhiều nên thỉnh thoảng sống một đời sống ẩn dật”, “họ tìm về nhà quê, bên sườn núi, hay những bãi bể vắng vẻ để xa hẳn với mọi liên lạc, từ chối cả sự luyến ái tâm tình cùng bè bạn. Trong một khung cảnh rộng rãi bát ngát như thế mới thích hợp với tâm hồn của họ được. Ở giữa sự nhộn nhịp tưng bừng của các đô thị lớn, một tuồng hát, một bài báo, một câu chuyện ngồi lê đôi mách cũng sẽ thành ra điều quan trọng, lấn át cả công việc của ta, cả tình cảm đứng đắn của ta. Nhưng dưới cảnh trời sao mênh mông bát ngát, những chuyện vụn vặt ấy phải chìm lần mất hẳn trong bóng tối. Trong sự im lặng ban đêm và trong sự im lặng của tâm hồn, trên những khoảng bao la man mác thì mọi sự phù phiếm vô giá trị đều bị gạt bỏ hết, và ta có thể xây dựng được những công trình lâu dài. Sự tĩnh mịch không bao giờ làm hèn yếu con người đâu” [5].

-----------------

[1] Nhà sách Hachette xuất bản.

[2] “On croit trop souvent que la poésie est un mensonge, qu’elle altère tout ce qu’elle touche; on se trompe: elle n’est pas un mensonge, elle est la vérité même, mais la vérité plus forte que celle de la vie vulgaire”.

[3] “La science ne se soucie pas de plaire ni de déplaire. Elle est inhumaine. C’est la poésie qui charme et qui console. C’est pourquoi la poésie est plus nécessaire que la science”.

[4] Vie et Correspondance de Charles Darwin - p.104 - (Trad. De Varigny)

[5] André Maurois - Un art de vivre (Plon, 1939).