Hoàng Đế hỏi :"Khi giao hợp, lúc khoái lạc lên cực đỉnh gần xuất tinh mà cố kềm lại một ít lâu để kéo dài cuộc vui. Như vậy có hại gì không ?".
Tố Nữ đáp :"Không hại mà lợi"
- Lần đầu : muốn xuất tinh cố kềm lại ít lâu, đến khi ý ta muốn xuất tinh mà cơ thể không thể xuất được nữa, sức lực trong người ta sẽ tăng mạnh mẽ hơn.
- Lần thứ hai: mắt, tai sẽ tỏ thính hơn.
- Lần thứ ba: nhiều bệnh sẽ không mắc phải.
- Lần thứ tư: ngũ tạng sẽ bình an.
- Lần thứ năm: máu huyết sẽ thông suốt, điều hòa.
- Lần thứ sáu: bộ phận ở chỗ thắt lưng là chỗ dễ đau khi giao hợp nhiều, được cường tráng nên mặc dầu giao hoan nhiều vẫn bình thường, không đau mỏi.
- Lần thứ bảy: mông và đùi sẽ được nở nang, sức lực tăng cường tối đa.
- Lần thứ tám: toàn thân sẽ cường kiện, dũng mãnh.
- Lần thứ chín: sẽ được trường thọ, sống lâu.
- Lần thứ mười: cửa thiên đình sẽ mở rộng nghĩa là người đó có một đời sống sảng khoái, tâm hồn luôn được hân hoan, thơi thới ".
GHI CHÚ:
Thuật dưỡng sinh của phép thai tức - phái thai tức là môn phái dưỡng sinh rất lâu đời ở Trung Quốc - có nói đến vấn đề này: "Nhả ra, thở ra ít hơn khi hít vào thì khí sẽ tồn tại trong cơ thể. Đó là bí quyết làm cho trẻ mãi không già". Nguyên tắc hô hấp áp dụng vào thuật giao hợp cũng vậy thôi bởi vì hai bên có sự giống nhau. Hô hấp là "ái khí", nghĩa là giữ khí tồn tại lại trong mình. Thuật giao hợp gọi là hành động giữ tinh khí lại trong mình là "bửu tinh ái khí", nghĩa là coi trọng "cái tinh", quý "cái khí" của mình. Nguyên tắc "bửu tinh ái khí" chú trọng ở chỗ giữ sao cho tinh khí của mình càng ít xuất ra càng tốt.
Y học Trung Quốc xưa cho rằng máu là một hình dạng khác của tinh khí, nói cách khác khí là sự biến hóa của máu mà thành (người ta thường nói khí huyết). Bảo vệ máu thì phải baỏ vệ khí. Tinh là hình thức cao hơn của máu, do đó xuất tinh đi sẽ làm cho mình mất máu đi. Sẽ bị tổn thọ.
Hấp khí là thu khí mà thải ra ít hoặc không thải ra. Bởi thế khi giao hợp, nam nhân cố kéo dài thời gian và không xuất tinh là đã tuân theo nguyên tắc trường sinh trong thuật phòng trung vì đã hấp được cái khí của người nữ mà không tổn cái khí của mình.
Vấn đề quan trọng là: giao hợp mà không xuất tinh thì có khoái lạc hay không, ông Bành Tổ trả lời là có, mình càng kềm chế thì càng được khoái lạc.
Giao hợp mà kéo dài không xuất tinh (xúc nhi bất tiết) là để thỏa mãn khoái cảm, nhưng nếu luyện được xuất tinh theo ý muốn thì sẽ hưởng được mười điều lợi như Tố Nữ đã nói ở trên. Những điều Tố Nữ nói, Y học Trung Quốc cũng nói tương tự: " Tiết dục để tồn trữ tinh lực, tăng cường hoạt năng của tinh trùng, luyện tập sức đề kháng và duy trì trí lực. Tiết dục có lợi cho cả thân thể và tinh thần".
Lão Tử nói: "Tri túc vi phú" (biết đủ thì làm giàu), sách Lễ Ký cũng nói: "Lương nhập vi xuất" (tùy theo sự thu nhập mà chi tiêu, xuất phát). Đem hai câu trên áp dụng vào việc phòng trung và việc xuất tinh thì rất đúng. Không biết quý khí, trọng tinh có bao nhiêu cũng trút thì không thể nào tráng kiện được.
Ông Khang Đức có nói: "Ấu tiểu thời bất giáo, dĩ ngưỡng dục ngã, chân thị bất thạnh" có nghĩa là: " Bất hạnh thay cho ai lúc trẻ không được dạy dỗ nên lớn lên ham mê điều nhục dục. Ham mê buông thả mà không biết kiềm chế đó là tự mình bỏ máu của mình vậy".
Y học Trung Quốc khi nói về hô hấp cũng nói tới khả năng trừ áp huyết cao của hô hấp. Bị bệnh này, dùng phương pháp hít thở thật chậm, thật dài để thông suốt kinh mạch thì có thể khỏi bệnh.
Phương pháp này do Nhật Bản phát động khởi thủy từ bác sỹ Hát Phu Ba, như là một món thể thao trị liệu, trong đó bệnh nhân làm nhiều cử động hô hấp, càng hô hấp nhiều thì phổi sẽ mạnh và dưỡng khí vào máu càng nhiều.
Trung Hoa còn thuật trừ già nua bằng cách hít thở (hố hấp). Tập thở ra mà bụng phình lên và hít vô bụng xẹp xuống. Điều này nghe thì khó nhưng thực hiện không khó vì hít vô thì hít vào phổi, bụng đương nhiên sẽ xẹp xuống.
Phép dưỡng sinh bằng hô hấp của Trang Tử có câu quan trọng: "Người chân nhân đạt đạo dưỡng sinh, hô hấp tới gót chân, thường nhân chỉ hô hấp tới cổ họng. Hô hấp đúng thì bảo toàn được thân, như một người đầu bếp khéo dùng dao cắt chặt lâu ngày mà dao vẫn không mòn ". "Người đầu bếp giỏi cũng phải mỗi năm thay dao một lần, người kém hơn thì mỗi tháng một lần. Ta cũng dùng dao để cắt da, cắt thịt thế mà đã chín mười năm nay rồi mà con dao dùng từ đó đến nay vẫn còn mới toanh ". Đó là câu nói thời danh của Trang Tử áp dụng vào thuật giao hợp tiết khí rất là hữu ích.
Phép Yoga của Ấn Độ có dùng xương sống để hô hấp. Phép này không khác gì dùng gót chân để hô hấp của Trang Tử của Trung Hoa. Yoga căn bản là hít thật nhiều khí vào trong bụng. Từ bụng chuyển không khí vào đan điền (lỗ rốn).
Về thuật "xúc nhi bất tiết", giao hợp mà không xuất tinh, sách Ngọc Phòng chủ yếu có đoạn quan trọng như sau: " Lúc sắp xuất tinh không cử động dương vật nữa, thở ra một hơi thật dài, đồng thời cắn chặt răng lại, ngước đầu lên thật lẹ ngó chung quanh, hít vào một hơi dài để phùng bụng lớn lên, tập trung tinh thần vào việc thở hít này, rồi thót bụng lại đồng thời thả hế hơi trong bụng ra. Luôn ngó mắt chung quanh, kỵ ngó người bạn ngọc đang ở dưới mình mình, hàm răng cắn chặt. Khi trong tai nghe tiếng gió thổi ù ù thì thót bụng lại".
Phương pháp này còn lợi ích cho việc chữa trị các chứng mắt kém và điếc tai, làm cho thị lực được tăng cường và thính lực được phát triển.
Mắt ngó chung quanh là cách thế để phân tán sự chú ý của ta vào ngoại cảnh khỏi phải chú ý vào dục tình. Hứng thú lúc đó không bị khơi động, tinh khí do vậy không thể dễ dàng xuất được.
Hô hấp có thể kết hợp với đọc kinh có thể luyện cho khả năng hô hấp kéo dài hơn. Ở Nhật Bản có một chi phái Phật Giáo thực hành phép tu dưỡng sau:
Sáng sớm thức dậy đọc kinh ba mươi phút, mỗi khi đọc hết một đoạn kinh thì hô hấp và uống một ly nước lạnh. Nhiều cuộc nghiên cứu cho thấy tín đồ của giáo phái này:
Đường đại tiện, tiểu tiện rất thông suốt.
Hô hấp rất dài hơi.
Tập trung ý chí dễ dàng.
Tinh thần an tịnh, không biết lo âu hồi hộp.
Tục ngữ Trung Quốc có câu: "Hô hấp thi ích dã" nghĩa là sự hít thở rất có ích lợi. Ở đây chỉ có sự hít thở đúng phương pháp, còn sự hít thở bình thường của thường nhân thì chỉ để duy trì sự sống thôi, không có ích lợi nào khác.
Cười cũng là một phương pháp hô hấp để tinh thần an tịnh cho nên cười cũng là một trong những phương pháp dưỡng sinh và có tác dụng làm cho con người tươi trẻ. Những người thường hay vui cười thì thâm tâm được quân bình, tinh thần được an định.
Những người Ấn Độ thường hay luyện tiết dục bằng phương pháp đè nén. Họ lấy tay đè một vùng gần niệu đạo, gần chỗ con đường dẫn nước tiểu, tức là vùng dẫn tinh khi tinh khí xuất ra ngoài. Theo họ thì phương pháp này làm cho tinh khí xuất ra không xuất được mà phải chạy trở vô lại.
Một đặc tính để kiềm chế xuất tinh là giao hợp nhiều lần mà mỗi lần đều với người đẹp trẻ tuổi khác nhau.
Sách "Thiên Kim Phương" là sách nói về các phương pháp áp dụng để tìm hoan lạc trong phòng trung có nói rằng: "Con gnười trước 30 tuổi thì khí huyết dồi dào, tình dục phong phú, khi quá 30 tuổi khí thế so lại hơi giảm. Lúc này thân thể đã yếu nên khám bệnh để coi mình có bị bệnh hay không để trị vì để lâu sau này hậu quả sẽ khó lường. Lúc này cũng là lúc luyệïn bí thuật phòng trung. Phương pháp thì dễnhưng phương tiện lại khó; đó là mỗi đêm giao hợp với mười người con gái khác nhau và không được xuất tinh. Ăn uống những thức bổ dược (phần cuối sách có nóivề những thức bổ dược này). Luyện phép này trong một năm thì tự nhiên khí lực và thể lực tăng tiến vô cùng, trí óc lúc này lại minh mẫn".
Tiếp xúc với nhiều người con gái trẻ đẹp là ước vọng từ lậu của con người, nhưng đối với cuộc sống ngày nay thì không còn phù hợp nữa.
Bác sỹ Kim Soai có nhận xét rằng phụ nữ sau khi có hôn nhân vẫn có ước vọng giao hợp với nhiều đàn ông khác nhau. Họ cũng thích sướng khoái và thay đổi như nam giới. Nhưng nam giới cũng như nữ giới nếu chỉ thuần túy đi tìm khoái lạc thì rất dễ hại thân. Quan niệm cổ điển về tình dục của Trung Quốc cho rằng tinh khí là thứ quý trọng của con người, bằng mọi giá ta không thể xuất tinh.
Y học có một câu rất hay: "Người nam trong giai đoạn 20 tuổi, giao hợp nhiều hay ít quyết định suy thoái tình dục hay không, vào khoảng 30 tuổi sự hay ho của cách giao hợp quyết định sự thất bại hay không, vào khoảng 40 tuổi thì khoảng cách giữa hai lần giao hợp quyết định sự thất bại hay không" .
Trung Hoa cũng có câu về sinh lý của phụ nữ: "Tam thập quả phụ bất khả thông", nghĩa là đàn bà góa chồng lâu mà tuổi còn trẻ thì sinh lý không còn mạnh mẽ như nam giới nữa. Điều này cho thấy sinh lý của phụ nữ mâu thuẫn với sinh lý của nam nhân.
Sách "Thiên Kim Phương" có nói về sự hiệu dụng của cách chữa bệnh bằng phương pháp tọa thiền và hô hấp thật sâu. Thực hành phương pháp này thì dầu cho thời gian trôi qua tóc râu cũng không mọc ra dài. Sách cổ có ghi lại chuyện một vị hòa thượng dùng phương pháp "nội quan" để trị bệnh phổi kết hạch của mình. Thật ra đây chỉ là một phương pháp kết hợp giữa sự toạ thiền và sự hít thở sâu đúng phương pháp mà thôi.
Đời Hán có một cuốn dã sử tựa là "Châu lâm dã sử", chuyện viết về đời của nàng Hạ Cơ là một nhân vật sống vào đời Xuân Thu. Hạ Cơ trong một giấc mơ chiêm bao thấy mình học được phương pháp trẻ mãi không già của tiên gia bằng hai phương pháp "Hấp Tinh Đạo Khí" và "Tố Nữ Chiến Thuật". Hai bí quyết này là liên tục không ngừng ngẫm nghĩ hấp thụ tinh khí của nam nhân. Khi được Trần Linh Công ôm ấp ân ái, nàng sử dụng phép "Nội Thị" là một bí thuật khác của phòng trung mà người đời sau cho là thuật điều tức dựa trên nguyên lý "Xúc nhi bất tiết", nghĩa là giao hợp kềm hãm không cho xuất tinh của phái nữ.
Theo "Ca Xuyên đại nhã thị" thì cái hạch lý tưởng của một người theo Lạt Ma giáo là đạt đến sự "linh nhục nhất chí " nghĩa là tinh dịch từ phần của bộ phận sinh được dùng ý chí điều khiển theo đường xương sống mà chạy lên đỉnh đầu. Trong quá trình thực hành động tác đôi nam nữ đều phải tập trung tinh thần theo kiểu thiền định sao cho đạt được trình độ không xuất tinh. Phái này lấy việc hãm tinh làm cứu cánh cho sự sung sướng.
Không phải ai cũng cổ võ sự bế tinh, có rất nhiều người cho "Xúc nhi bất tiết" là có hại cho thân thể. Thật ra đây có thể coi như là sự tiết dục và phương pháp luyện cho giao hợp được dài lâu. Các chương sau của kinh Tố Nữ sẽ đề cập đến số lần xuất tinh cần thiết, nghĩa là kinh Tố Nữ không bảo tuyệt đối không được xuất tinh.