Sáu ngàn công nhân viên chức của đảo Vàng được tuyển mộ từ khắp các lục địa. Viên phụ tá số một của Garin là kỹ sư Sécmắc được phong chức tổng trấn và chịu trách nhiệm phân bố sức lao động theo thành phần dân tộc tại mười lăm khu vực có hàng rào dây thép gai ngăn cách với nhau.
Đề biện minh cho các đường ranh giới bằng dây thép gai này trước mắt mọi người, Sécmắc tổ chức một đội khiêu khích gồm mười lăm tên. Chúng có nhiệm vụ thổi bùng lên sự thù hằn giữa các công nhân thuộc các dân tộc khác nhau: vào ngày thường chúng khiêu khích có chừng mực, nhưng vào các ngày hội hè thì chúng gây những vụ khiêu khích đến mức ẩu đả nhau.
Cảnh sát trên đảo toàn là bọn cựu sĩ quan bạch vệ. Chúng có nhiệm vụ duy trì trật tự, không cho phép các công nhân thuộc các dân tộc khác nhau giết hại lẫn nhau.
Công nhân được trả lương cao hơn nhiều so với tiền lương trên lục địa. Một số gửi tiền về nước theo chuyến tầu sắp đến, một số khác giữ lại. Chẳng có chỗ nào mà chi tiêu, bởi vì vào những ngày hội, tại một khu hẻo lánh trên bờ biển phía Đông - Nam, mới mở các quán rượu và nơi vui chơi.
Các công nhân biết rõ chiếc giếng mỏ khổng lồ kia đi sâu mãi vào lòng đất để làm gì. Garin tuyên bố với mọi người là khi thanh toán mọi khoản, y sẽ cho phép mỗi người được quyền mang theo bao nhiêu vàng cũng được, miễn là mang theo nổi. Và trên đảo không có người nào lại không xúc động khi nhìn những băng chuyền thép chuyển đất đá từ lòng đất ra ngoài biển, lại không say sưa với đám khói vàng nhạt lơ lửng trên miệng giếng mỏ.
97
- Thưa các ngài, đã đến giờ nghiêm trọng nhất trong công việc của chúng ta. Tôi đã dự kiến và đã chuẩn bị xong xuôi, nhưng dĩ nhiên không vì thế mà nguy hiểm giảm bớt. Chúng ta đã bị phong tỏa. Tôi vừa nhận được tin là hai chiếc tàu của chúng ta, hai chiếc tầu chất đầy sắt định dùng để củng cố giếng mỏ cùng với đồ hộp và thịt cừu ướp lạnh đã bị một tuần dương hạm Mỹ bắt giữ và tịch thu. Điều đó nghĩa là chiến tranh đã bắt đầu. Bất cứ giờ phút nào cũng có thể nhận được lời tuyên chiến chính thức. Một trong những mục tiêu cần nhất của tôi là chiến tranh. Nhưng nó đã nổ ra sớm hơn dự tính của tôi. Những kẻ trong lục địa quá nôn nóng. Tôi thấy trước kế hoạch của họ: họ sợ chúng ta, họ sẽ cố làm cho chúng ta bị chết đói. Tôi xin thông báo là lượng thực phẩm trên đảo đủ cho hai tuần lễ, không kể súc vật. Trong mười bốn hôm sắp tới, chúng ta sẽ phải chọc thủng vòng vây và đem đồ hộp về đây. Nhiệm vụ thật khó khăn, nhưng có thể thực hiện được. Ngoài ra, những nhân viên của tôi đem séc của Rôlinh đi lấy tiền đều đã bị bắt. Ngân quỹ chúng ta trống rỗng. Ba trăm năm mươi triệu đô la đã tiêu hết và nếu chúng ta trả bằng séc thì công nhân sẽ nổi loạn và ngăn chặn bộ máy phát tia. Chắc hẳn trong vòng bảy ngày chúng ta phải kiếm được tiền.
Phiên họp diễn ra vào lúc sẩm tối trong căn phòng làm việc chưa xây xong hẳn của Garin. Những người tham dự là Sécmắc, kỹ sư Sêphe, Dôia, Senga và Rôlinh. Như thường thấy vào những giây phút nguy hiểm và căng thẳng tâm trí, Garin vừa nói vừa mỉm cười giễu cợt, người lắc lư trên đế giày, hai tay đút túi. Dôia chủ tọa, tay cầm chiếc búa nhỏ. Sécmắc vóc người nhỏ bé, tính tình nóng nảy, mắt đỏ mọng, y hằng giọng rồi nói:
- Điều luật thứ hai của đảo Vàng viết rằng không một ai được âm mưu tìm hiểu bí mật của cấu tạo bộ máy phát tia. Bất kỳ người nào, dù chỉ chạm vào lớp vỏ bộ máy ấy, đều sẽ bị tử hình.
- Đúng thế, - Garin xác nhận, - pháp luật là như vậy.
- Để hoàn thành tốt đẹp những công việc ông vừa nêu ra thì ít nhất cũng phải có ba bộ máy phát tia đồng thời hoạt động: một chiếc để lấy tiền, một chiếc để chọc thủng vòng phong tỏa và một chiếc để bảo vệ đảo... Ông sẽ phải có hai người phụ tá được quyền vi phạm điều luật trên.
Mọi người im lặng. Đám đàn ông nhìn theo làn khói xì gà. Rôlinh mải mê hít tẩu thuốc. Dôia quay đầu về phía Garin. Y nói:
- Được. (Y làm một động tác buông thả). Hãy công bố đi: điều luật thứ hai sẽ không áp dụng cho hai người trên đảo: bà Lamôlơ và...
Y vui vẻ cúi người qua bàn và vỗ vai Senga:
- Ông Senga sẽ là người thứ hai được tôi cho biết bí mật của bộ máy phát tia...
- Anh nhầm rồi, anh bạn ạ, - Senga vừa trả lời vừa hất tay Garin khỏi vai. - Tôi từ chối.
- Lý do?
- Tôi không việc gì phải giải thích. Anh cứ nghĩ rồi sẽ đoán ra được.
- Tôi trao cho anh nhiệm vụ tiêu diệt hạm đội Mỹ.
- Chịu, tôi không thể làm được.
- Tại sao chứ?
- Tại sao ấy ư?... Bởi vì đường trơn lắm!...
- Cẩn thận đấy, Senga...
- Tôi đang cẩn thận đây.
Bộ râu của Garin vểnh lên, hàm răng trắng bóng. Y cố kìm mình, hỏi khẽ:
- Anh đã mưu tính chuyện gì phải không?
- Đường lối của tôi là đường lối công khai. Tôi không giấu giếm điều gì hết.
Cuộc trao đổi ngắn ngủi này được tiến hành bằng tiếng Nga. Ngoài Dôia, không một ai hiểu nổi.
Senga lại bắt đầu vẽ những hình ngoằn ngoèo trên giấy. Garin nói:
- Như vậy, tôi chỉ định một người làm phụ tá trong việc điều khiển các máy phóng tia. Nếu bà đồng ý thì ngày mai bà sẽ ra khơi...
- Tôi sẽ phải làm gì ngoài biển? - Dôia hỏi.
- Đánh cướp tất cả các con tàu xuất hiện trên tuyến đường xuyên Thái Bình Dương. Một tuần nữa chúng ta phải trả tiền cho công nhân rồi.
98
Vào lúc hai mươi hai giờ, trên chiếc tuần dương hạm chỉ huy thuộc hạm đội Bắc Mỹ, người ta nhận thấy một vật thể lạ bên trên chòm sao Chữ Thập Nam.
Những tia đèn chiếu xanh xanh như đuôi sao chổi, rạch ngang bầu trời đầy sao, lồng lộn và tụ vào vật thể lạ. Nó sáng bừng lên. Hàng trăm kính viễn vọng quan sát thấy một chiếc khí cầu máy cùng những vòng cánh quay trong suốt và hai chữ cái P và G hiện rõ trên thành khí cầu máy.
Những đèn tín hiệu nhấp nháy trên các con tàu. Từ tuần dương hạm chỉ huy, bốn thủy phi cơ cất cánh và gầm rú bay lên cao. Cả phi đội tăng tốc, bay theo đội hình hàng một.
Tiếng máy bay mỗi lúc một nhỏ dần. Đột nhiên, chiếc khí cầu máy mà bốn máy bay lao tới bỗng biến mất. Nhiều kính viễn vọng được lau chùi kỹ bằng khăn tay. Nhưng chiếc khí cầu máy đã mất tích trong bầu trời đêm, dù các ngọn đèn chiếu đã ra sức sục sạo.
Nhưng rồi lại yếu ớt vọng đến tiếng súng máy: họ đã tìm ra được. Tiếng súng đứt quãng, một chấm sáng rực chao đảo, rơi xiên xuống. Những người nhìn qua kính viễn vọng ồ lên ngạc nhiên: đây là một chiếc thủy phi cơ đâm đầu xuống biển. Chuyện gì xảy ra vậy?
Rồi các khẩu súng máy lại nhả đạn liên tục trên bầu trời, rồi tiếng súng lại tắt ngấm và ba chiếc thủy phi cơ lần lượt lộn nhào xuống qua các tia đèn chiếu rồi đâm sầm xuống biển. Các ánh đèn tín hiệu lại nhảy nhót trên tàu chỉ huy. Những ánh lửa nhấp nháy tận sát chân trời: có chuyện gì xảy ra vậy?
Sau đó, mọi người nhìn thấy ngay trên đầu là một đám mây đen rách nát bay ngược chiều gió, cắt ngang đội hình hàng một của đoàn tàu. Đó là chiếc khí cầu máy đang bay thấp xuống, bị một màn khói phủ kín. Tàu chỉ huy phát đi tín hiệu: "Hãy cẩn thận, hơi độc! Hãy cẩn thận, hơi độc!" Pháo cao xạ gầm lên. Và ngay lập tức, những quả bom hơi độc rơi tới tấp xuống boong tàu, cầu chỉ huy và tháp bọc thép, rồi nổ tung.
Người thiệt mạng đầu tiên là đô đốc chỉ huy đoàn tàu. Một thanh niên tuấn tú hai mươi tám tuổi, vì kiêu hãnh nên không chịu đeo mặt nạ, ôm lấy cổ và ngã lộn nhào, khuôn mặt phồng lên, xanh tím. Trong một vài giây, tất cả những ai có mặt trên boong tàu đều bị chết ngạt - mặt nạ phòng hơi độc tỏ ra ít hiệu quả. Tàu chỉ huy đã bị tấn công bằng một thứ hơi độc lạ.
Quyền chỉ huy được trao cho viên phó đô đốc. Đoàn tuần dương hạm nhất tề sử dụng hỏa lực cao xạ. Ba loạt đạn làm rung chuyển đêm tối. Ba ánh chớp lóe từ các khẩu đội phát ra làm nhuộm đỏ đại dương. Ba đàn quỷ thép kêu vun vút, bay thẳng lên nhưng chẳng biết nhắm vào đâu, nổ tung rồi chiếu sáng rực bầu trời đầy sao.
Tiếp theo mấy loạt cao xạ là sáu chiếc thủy phi cơ cất cánh, toàn bộ các phi hành đoàn đều đeo mặt nạ phòng hơi độc. Rõ ràng là bốn thủy phi cơ đầu tiên đã bị tiêu diệt khi bay vào bức màn khói độc của khí cầu máy. Bây giờ vấn đề là danh dự của hạm đội Mỹ. Cả đoàn tàu đều tắt hết đèn. Chỉ còn các ngôi sao trên trời. Trong đêm tối nghe rõ tiếng sóng vỗ vào mạn tàu và tiếng phi cơ gầm rú trên cao.
Cuối cùng, từ phía làn sương mù lấp lánh bạc của dải Ngân Hà đã thấy vọng đến tiếng súng nổ liên hồi. Rồi dường như ở đó có tiếng mở nút chai. Đó là khởi đầu cuộc tiến công bằng lựu đạn. Trên đỉnh đầu, một đám mây đang cuồn cuộn bốc lên bỗng rực sáng một thứ ánh sáng mầu nâu sẫm, từ trong đám mây ấy một vệt tựa như điếu xì gà bằng kim loại nhảy bật ra, chúc nghiêng chiếc mũi tù. Dọc theo sườn phía trên của nó là những lưỡi lửa nhảy nhót. Nó lao xiên xuống dưới, để lại đằng sau một chiếc đuôi lấp lánh, và sau khi bốc cháy rừng rực, biến mất ở chân trời.
Nửa giờ sau, một thủy phi cơ báo cáo là đã hạ thấp cạnh chiếc khí cầu máy đang cháy và dùng súng máy bắn chết tất cả những người bên trong và bên cạnh khí cầu máy.
Đội tàu chiến Mỹ đã phải trả giá đắt cho chiến thắng: bốn máy bay cùng toàn bộ phi hành đoàn bị tiêu diệt. Hơi độc làm chết hai mươi tám sĩ quan, kể cả đô đốc chỉ huy và một trăm ba mươi hai thủy thủ. Điều nhục nhã nhất là những chiếc tuần dương hạm tuyệt vời với hỏa lực pháo hùng hậu lại bị rơi vào tình trạng của lũ chim cụt cánh: kẻ địch thả sức tiến công chúng từ trên không bằng hơi độc (không hiểu là loại hơi độc gì). Nhất định phải phục thù, phải cho biết sức mạnh thật sự của pháo binh hạm tàu.
Theo tinh thần đó, viên phó đô đốc ngay đêm ấy gửi về Oasinhtơn bản báo cáo về những diễn biến của trận hải chiến. Ông ta thiết tha yêu cầu cho phép ném bom đảo Khốn kiếp.
Sau một ngày đêm, họ nhận được trả lời của bộ trưởng quốc phòng: tiến đến ngay hòn đảo đã nói trên và san bằng nó cùng với sóng biển.
99
Các ngài nghĩ sao đây? - Garin vừa hỏi với vẻ thách thức vừa đặt ống nghe máy thu vô tuyến lên bàn viết. (Phiên họp diễn ra vẫn với thành phần cũ, trừ Dôia). - Các ngài thấy thế nào?... Tôi có thể chúc mừng được. Chúng ta không còn bị phong tỏa nữa. Hạm đội Mỹ đã được lệnh ném bom đảo Vàng.
Người Rôlinh run lên, y đứng dậy khỏi ghế bành, chiếc tẩu rời khỏi miệng y, cặp môi xám ngoét cong lên, dường như y muốn nói một điều gì đó nhưng không thốt ra nổi.
- Ông bạn già làm sao thế? - Garin hỏi. - Ông bạn quá xúc động vì hạm đội thân yêu sắp đến gần chứ gì? Ông bạn nóng lòng muốn treo cổ tôi lên cột buồm chứ gì? Hay ông bạn sợ bị ném bom? Tất nhiên, đối với ông bạn thì thật ngu ngốc nếu bị tan xác vì đạo pháo Mỹ. Hay lương tâm ông bạn đã bắt đầu ngọ nguậy đấy?... Dù thế nào chăng nữa thì chúng tôi cũng sẽ chiến đấu bằng tiền bạc của ông bạn.
Garin cười vang một tiếng, quay mặt đi. Rôlinh không nói một câu gì hết, buông mình xuống ghế, che bộ mặt xám ngoét bằng đôi tay run rẩy.
- Không, thưa các ngài... Không liều mạng thì chỉ có thể kiếm được theo kiểu cò con thôi. Hiện nay, chúng ta đang thực hiện một chuyến liều mạng lớn. Khí cầu máy thám thính của chúng ta đã thực hiện xuất sắc nhiệm vụ. Tôi đề nghị tất cả đứng dậy mặc niệm mười hai người đã hy sinh, trong số đó có ông Vôsin, chỉ huy trưởng khí cầu máy. Khí cầu máy đã kịp báo tin tỉ mỉ về thành phần đội tàu chiến Mỹ. Có tám tuần dương hạm loại tối tân, được trang bị bằng bốn tháp bọc thép, trong mỗi tháp có ba khẩu pháo. Sau trận chiến đấu, họ còn lại ít nhất là mười hai thủy phi cơ. Ngoài ra là các khinh hạm, khu trục hạm và tàu ngầm. Nếu tính mỗi quả đạn pháo là bảy lăm triệu kilôgam hoạt năng thì một loạt đạn của toàn bộ đoàn tàu sẽ tính tròn bằng một tỷ kilôgam hoạt năng.
- Càng hay, càng hay, - Rôlinh thầm thì.
- Đừng có lầu bầu nữa, ông bạn già ạ, thật xấu hổ... Thưa các ngài, tôi quên bẵng mất một việc: chúng ta phải cảm ơn ngài Rôlinh đã có nhã ý trao cho chúng ta một sáng chế mới nhất và tạm thời còn trong vòng bí mật: đó là một thứ hơi độc tên là "Chữ thập đen". Nhờ loại hơi độc ấy, chúng ta đã dìm xuống biển bốn thủy phi cơ và loại ra khỏi vòng chiến chiếc tuần dương hạm chỉ huy.
- Không, ông Garin ạ, tôi đâu có nhã ý trao cho ông loại hơi độc "Chữ thập đen"! - Rôlinh khàn khàn kêu lên. - Ông đã giơ súng đe dọa tôi, buộc tôi phải ra lệnh gửi những bình hơi "Chữ thập đen" đến đảo này đấy chứ!
Y thở hổn hển và lảo đảo bước ra. Garin bắt đầu trình bày chi tiết kế hoạch bảo vệ đảo. Ba hôm nữa chắc hẳn đoàn tàu Mỹ sẽ tiến công.
100
Chiếc "Aridôna" đã giương lá cờ cướp biển.
Điều đó hoàn toàn không có nghĩa là trên du thuyền phất phới lá cờ lãng mạn màu đen với hình sọ người và hai khúc xương bắt chéo của bọn cướp biển. Thật ra, trên chiếc "Aridôna", chẳng có lá cờ nào được giương lên hết. Hai ngọn tháp có chấn song mà bên trong có để bộ máy phát tia đã khiến hình dạng nó khác hẳn mọi tàu thuyền trên trái đất. Chỉ huy du thuyền là Gianxen, cấp dưới trực tiếp của Dôia.
Dãy phòng lộng lẫy của Dôia - phòng ngủ, phòng tắm, phòng trang điểm, phòng khách - đều khóa kín. Dôia dọn lên buồng chỉ huy cùng với Gianxen. Mọi đồ đạc xa hoa trước đây - mái che lụa xanh, thảm, gối, ghế bành - đều được dọn đi.
Đội thủy thủ tuyển mộ hồi ở Mácxây được vũ trang đầy đủ, được cho biết rõ mục đích của chuyến ra khơi và phần thưởng khi chiếm được mỗi chiếc tàu.