Trong khi chờ đợi con chó chuyên săn lùng, Senga bắt tay vào việc khám xét kỹ lưỡng ngôi nhà nghỉ, bắt đầu từ gian gác xép.
Đâu đâu cũng bề bộn rác rưởi, kính vỡ, những mảnh giấy dán tường và những hộp đồ hộp rỗng không đã han gỉ. Các cửa sổ chăng kín mạng nhện, trong các góc nhà mọc đầy nấm và rêu mốc. Chắc hẳn ngôi nhà đã bị bỏ hoang từ năm 1918. Chỉ riêng nhà bếp và căn phòng có kê chiếc giường sắt là có người ở. Không một chỗ nào có dấu vết gì của các tiện nghi hoặc thức ăn thừa, ngoài chiếc bánh mì trắng nướng theo kiểu Pháp và mẩu xúc xích tìm thấy trong túi kẻ bị giết.
Không có người sống thường xuyên ở đây, người ta chỉ tạm thời đến để làm một việc gì đó cần giấu giếm. Đó là kết luận đầu tiên của Senga sau khi lục soát. Việc khám xét nhà bếp chứng tỏ rằng ở đây người ta đang nghiên cứu những chế phẩm hóa học nào đó. Sau khi khảo sát những nhúm tro trên bếp lò, nơi rõ ràng là đã tiến hành những thí nghiệm hóa học, và sau khi xem qua mấy cuốn sách nhỏ đã quăn góc, anh đi dến một kết luận thứ hai: kẻ bị giết chỉ nghiên cứu kỹ thuật làm pháo bông bình thường mà thôi.
Kết luận đó làm Senga bối rối. Anh lại lục soát một lần nữa áo của kẻ bị giết, nhưng không phát hiện được điều gì mới. Anh bèn xem xét vấn đề từ hướng khác.
Những vết chân cạnh cửa sổ chứng tỏ rằng có hai kẻ giết người, chúng đánh liều lọt vào phòng qua cửa sổ, tuy biết rằng rất có thể gặp sự kháng cự, bởi vì người trong nhà không thể không nghe tiếng giật cửa răng rắc.
Như vậy có nghĩa là những tên sát nhân ấy phải bằng mọi giá lấy được một thứ gì đó hết sức quan trọng, hoặc phải hạ sát người trong nhà.
Hơn nữa, nếu giả dụ rằng chúng chỉ muốn hạ sát người đó thôi thì chúng có thể làm việc ấy đơn giản hơn, thí dụ như rình người đó tại một nơi nào đấy trên đường dẫn về ngôi nhà nghỉ. Và điểm thứ hai: tình trạng người bị giết ở trên giường chứng tỏ rằng người đó đã bị tra tấn một lúc rồi mới bị đâm chết. Bọn giết người cần người đó cho biết một điều gì đấy, nhưng người đó không chịu nói ra.
Chúng có thể khai thác gì ở người đó nhỉ? Tiền ư? Khó có thể cho rằng một người lần mò ban đêm đến ngôi nhà nghỉ bỏ hoang để nghiên cứu kỹ thuật làm pháo bông lại mang theo nhiều tiền. Đúng hơn là bọn giết người muốn biết một bí mật gì đấy có liên quan với những buổi làm việc ban đêm của kẻ bị giết.
Như vậy, dòng suy nghĩ của Senga đã khiến anh phải nghiên cứu gian nhà bếp một lần nữa. Anh đẩy đống hòm ra khỏi tường và phát hiện thấy một cửa sập hình vuông thông xuống hầm nhà mà trong các ngôi nhà nghỉ người ta thường bố trí ngay dưới sàn bếp. Taraskin thắp mẩu nến cháy dở và nằm sấp bụng, soi sáng khu hầm nhà ẩm ướt, còn Senga thì thận trọng leo xuống theo cầu thang trơn tuột, mốc meo.
- Anh hãy cầm nến xuống đây! - Senga gọi to từ trong bóng tối - Hắn có cả một phòng thí nghiệm thật sự ở dưới này.
Khoang hầm chiếm toàn bộ diện tích bên dưới ngôi nhà: cạnh những bức tường bằng gạch là mấy chiếc bàn gỗ đặt trên giá đỡ, một lô bình cầu đựng khí, một chiếc môtơ và máy phát điện nhỏ, vài chiếc hũ thủy tinh thường dùng để điện phân, nhiều dụng cụ nghề nguội, và trên mặt bàn có đầy những đống tro nhỏ...
- Thử xem hắn ta làm cái trò gì ở đây nào - Senga vừa nói với vẻ hơi phân vân, vừa quan sát những khúc gỗ lớn và những tấm sắt dựa vào tường hầm. Một số khúc gỗ và tấm sắt bị khoan thủng nhiều chỗ, một số khác thì bị cắt đôi, những chỗ cắt và khoan thủng ấy hình như bị đốt cháy và nung chảy.
Trên một tấm gỗ sồi dựng đứng, những lỗ thủng ấy có đường kính gần một milimét, dường như bị châm kim. Ở giữa tấm gỗ có đột một hàng chữ to "P. P. Garin". Senga lật tấm gỗ lại và thấy trên mặt sau cũng hàng chữ ấy nhưng đảo ngược: không hiểu bằng cách nào mà tấm gỗ dày đến bảy phân rưỡi lại bị mấy dòng chữ ấy đốt thủng như vậy.
- Chà, gớm thật, - Senga nói, - không, anh chàng P. P. Garin không nghiên cứu kỹ thuật làm pháo bông ở đây đâu.
- Anh Senga, còn đây là cái gì đây anh? - Taraskin vừa hỏi vừa giơ ra một khối chóp nhỏ, cao chừng bốn phân, đáy chừng hai phân, được ép lại bằng một chất gì đó màu xám.
- Anh tìm thấy ở đâu thế?
- Cả một hòm đầy kia kìa.
Senga lật đi lật lại, ngửi ngửi khối hình chóp rồi đặt lên mép bàn, bật diêm gí sát vào và lùi ra xa. Que diêm cháy hết, khối hình chóp bùng lên một thứ ánh sáng xanh nhạt chói lòa. Nó cháy khoảng hơn năm phút, không có muội than, gần như không có mùi.
- Tôi đề nghị lần sau không thực hiện những thí nghiệm như vậy nữa - Senga nói - biết đâu khối chóp nhỏ này lại là một loại nến hơi độc thì sao. Khi ấy chúng ta đừng hòng ra khỏi hầm nhà này. Tốt lắm, chúng ta đã biết được những gì nhỉ? Ta thử xác định xem nào: thứ nhất, vụ giết người này không nhằm mục đích trả thù hay cướp của. Thứ hai, chúng ta đã xác định được tên của người bị giết - P. P. Garin. Tạm thời chỉ có thế thôi. Taraskin, anh muốn phản đối là biết đâu, Garin chính là người đã chèo thuyền bỏ đi phải không? Tôi không nghĩ như vậy. Chính Garin đã tự viết tên mình lên tấm gỗ. Về mặt tâm lý thì rõ ràng là như vậy. Giả dụ tôi sáng chế được một vật nào đó tuyệt diệu như vậy thì tôi sẽ sung sướng viết tên mình lên chứ nhất định không viết tên anh rồi. Chúng ta biết rằng người bị giết đã làm việc trong phòng thí nghiệm, tức là người đó đã sáng chế ra vật này và vì vậy người đó là Garin.
Senga và Taraskin leo lên khỏi hầm nhà rồi châm thuốc hút, ngồi trên thềm chờ đợi người công an dẫn chó đến.
Tại nhà bưu điện trung tâm, một người nào đó thò bàn tay đỏ hồng, béo mập, vào ô cửa sổ có nhiệm vụ nhận điện gửi đi nước ngoài và để tay lơ lửng trong không khí với tờ giấy ghi điện tín rung rung.
Người nhân viên bưu điện nhìn bàn tay này mấy giây rồi chợt hiểu ra. "À, thiếu mất ngón tay út", và bắt đầu đọc tờ giấy ghi điện tín:
"Gửi Xêmiônốp, Vácsava, phố Mácsancốpxcaia. Nhiệm vụ thực hiện được một nửa, kỹ sư đã ra đi, không kiếm được giấy tờ, chờ chỉ thị. Xtaxi".
Anh gạch đỏ mấy chữ Vácsava rồi đứng dậy, che lấp ô cửa sổ, nhìn người đánh điện qua dãy chấn song. Đó là một người đàn ông to lớn, trung niên, mặt phì phị, nước da mai mái lộ vẻ ốm yếu, bộ ria vàng khè rũ xuống che lấp miệng. Đôi mắt y ẩn dưới hai mí mắt sùm sụp, đầu đội chiếc mũ lưỡi trai nhung màu nâu.
- Có chuyện gì thế? - y hỏi một cách thô bạo - Anh hãy nhận điện đi.
- Bức điện viết bằng mật mã, - người nhân viên bưu điện nói.
- Viết bằng mật mã nghĩa là thế nào? Anh đừng có nói vớ vẩn với tôi! Đây là một bức điện thương mại, anh có trách nhiệm phải đánh đi. Tôi sẽ cho anh xem chứng minh thư, tôi là nhân viên tòa lãnh sự Ba Lan, anh sẽ phải chịu trách nhiệm nếu xảy ra chậm trễ dù chỉ chút ít thôi đấy.
Gã Ba Lan bốn ngón nổi giận, hai má giật giật, phải nói là y sủa lên mới đúng, nhưng bàn tay y đặt trên bệ cửa sổ vẫn run run đầy lo lắng.
- Ông thấy đấy, - người nhân viên bưu điện bảo y, - tuy ông cam đoan là dường như bức điện của ông có tính chất thương mại, nhưng chúng tôi dám chắc rằng đó là một bức điện có nội dung chính trị và được viết bằng mật mã.
Anh nhếch mép cười. Gã Ba Lan giận dữ quát tháo, nhưng trong lúc đó, một cô gái đã kín đáo cầm bức điện đem lại chiếc bàn mà Senga đang ngồi xem toàn bộ các bức điện gửi đi trong ngày hôm đó.
Sau khi liếc nhìn thấy mấy chữ "Vácsava, phố Mácsancốpxcaia", anh bước ra ngoài, đứng lại sau lưng gã Ba Lan đang tức giận và ra hiệu cho người nhân viên bưu điện. Người này nhăn mặt, lầu bầu về chính sách của nước Ba Lan địa chủ rồi ngồi viết hóa đơn. Gã Ba Lan thở phì phì vì giận dữ, nóng nẩy giậm đôi giầy bóng loáng kêu kin kít. Senga chăm chú nhìn đôi chân to tướng của gã. Sau đó, anh bước về phía cửa ra, hất đầu về phía gã Ba Lan để ra hiệu cho người công an trực ban:
- Theo dõi ngay.
Cuộc tìm kiếm ngày hôm qua (có chó giúp sức) đã đưa Senga từ ngôi nhà nghỉ trong rừng bạch dương đến sông Crextốpca. Tại đây, dấu vết bị mất: hiển nhiên là bọn giết người đã xuống thuyền. Ngày hôm qua không đem lại được những tin tức gì mới. Chắc hẳn bọn hung thủ đã ẩn náu kỹ càng trong thành phố Lêningrát rồi. Cả việc nghiên cứu các bức điện cũng chẳng có kết quả gì. Chỉ có bức điện cuối cùng này - bức điện gửi Xêmiônốp ở Vácsava - là đáng chú ý ít nhiều.
Người nhân viên bưu điện đưa hóa đơn cho gã Ba Lan, gã thọc tay vào túi áo gi lê tìm tiền lẻ. Đúng lúc đó, một người đàn ông điển trai, mắt đen, râu dê, tay cầm tờ giấy ghi điện tín đã điền sẵn, nhanh nhẹn bước lại gần ô cửa sổ, và trong khi chờ đợi đến lượt mình, y thản nhiên nhìn chiếc bụng phệ của gã Ba Lan đang tức giận với vẻ chê trách.
Sau đó, Senga thấy người đàn ông râu dê ấy bỗng ưỡn thẳng người lên: y đã nhận thấy bàn tay bốn ngón và lập tức nhìn thẳng vào mặt gã Ba Lan.
Mắt hai bên gặp nhau. Hàm gã Ba Lan trễ xuống. Mi mắt sùm sụp của gã trợn tròn. Cặp mắt đùng đục của gã thoáng lộ vẻ kinh hoàng. Mặt gã biến sắc, trở nên xám ngoét.
Chỉ khi ấy, Senga mới hiểu - anh đã nhận ra người râu dê ấy đứng trước mặt gã Ba Lan: y giống như đúc kẻ bị giết tại ngôi nhà nghỉ trong khu rừng bạch dương trên đảo Crextốpxki...
Gã Ba Lan thét lên một tiếng khàn khàn và lao vụt về phía cửa. Người công an trực ban đã được lệnh chỉ theo dõi gã từ đằng xa nên để mặc gã chạy ra ngoài phố, rồi anh kín đáo theo gót gã.
Người giống hệt kẻ bị giết vẫn đứng lại bên ô cửa sổ nhỏ trong nhà bưu điện. Cặp mắt lạnh lùng thâm quầng của y không biểu lộ một chút gì ngoài vẻ sửng sốt. Y nhún vai, và khi gã Ba Lan đã biến mất thì y đưa tờ giấy ghi điện tín cho người nhân viên bưu điện:
"Thư lưu trạm, gửi đến số nhà 555, đại lộ Butinhông, Pari. Hãy bắt tay ngay vào việc phân tích, cần nâng cao chất lượng thêm năm mươi phần trăm, chờ bưu phẩm đầu tiên vào giữa tháng năm. P. P.".
- Bức điện này liên quan đến những công trình khoa học mà một người bạn tôi, được Viện Hóa học vô cơ phái đi công tác ở Pari, hiện đang nghiên cứu, - y bảo người nhân viên bưu điện. Sau đó, y ung dung lấy hộp thuốc lá trong túi ra, búng búng điếu thuốc rồi thận trọng châm lửa.
Senha lịch thiệp nói với y:
- Anh hãy cho phép tôi nói vài lời thôi.
Y liếc nhìn anh, cụp mi mắt xuống và hết sức nhã nhặn trả lời.
- Xin mời anh.
- Tôi là nhân viên Ban điều tra hình sự, - Senga vừa nói vừa hơi hé mở tấm thẻ. - Có lẽ, ta nên tìm một nơi thích hợp hơn để nói chuyện với nhau.
- Anh muốn bắt tôi chắc?
- Tôi không hề có ý định ấy. Tôi muốn báo trước cho anh biết là gã Ba Lan vừa chạy khỏi đây có ý định giết anh, hệt như hôm qua gã đã giết kỹ sư Garin ở đảo Crextốpxki.
Người râu dê ngẫm nghĩ một phút. Y vẫn tỏ ra lịch thiệp và bình tĩnh.
- Đồng ý, - y nói, - ta đi đi, tôi còn được rỗi rãi mươi lăm phút.
Tại đường phố gần nhà bưu điện trung tâm, người công an trực ban chạy đến gặp Senga mặt đỏ bừng, mồm lắp bắp:
- Đồng chí Senga, hắn trốn mất rồi.
- Tại sao anh lại để hắn chạy thoát?
- Ôtô đã đợi sẵn hắn, đồng chí Senga ạ.
- Thế môtô của anh đâu?
- Nó nằm kềnh ở kia kìa, - người công an vừa nói vừa chỉ chiếc môtô nằm cách cổng nhà bưu điện khoảng một trăm bước, - hắn nhảy vọt đến rồi dùng dao rạch thủng lốp. Tôi huýt còi. Hắn chui tọt vào ôtô và cho xe chạy thẳng.
- Anh có nhận ra số xe không?
- Không.
- Tôi sẽ đề nghị kỷ luật anh.
- Biển số bị cố ý lấy bùn xoa kín thì làm sao mà nhận được số xe!
- Được. Anh cứ về Ban điều tra hình sự đi, hai mươi phút nữa tôi sẽ có mặt ở đấy.
Senga đuổi kịp người đàn ông râu dê. Họ lặng lẽ đi một lát rồi rẽ sang đại lộ Công Đoàn.
- Anh giống kẻ bị giết đến mức lạ lùng, - Senga nói.
- Tôi đã nhiều lần phải nghe câu nói ấy, tên tôi là Plancốp Pítkêvích, - người đàn ông râu dê sởi lởi trả lời. - Trong số báo ra chiều qua, tôi có đọc về vụ giết Garin. Thật khủng khiếp. Tôi biết rõ anh ta. Đấy là một cán bộ thạo việc, một nhà hóa học tuyệt vời. Tôi vẫn thường đến phòng thí nghiệm của anh ta ở Crextốpxki. Anh ta chuẩn bị một phát minh lớn trong lĩnh vực hóa học quân sự. Anh có biết gì về một loại nến gọi là nến khói hay không?
Senga liếc nhìn Pítkêvích, anh không trả lời mà hỏi:
- Anh nghĩ sao, việc giết Garin có liên quan gì đến quyền lợi của Ba Lan hay không?
- Theo tôi thì không. Nguyên nhân vụ giết này sâu xa hơn nhiều. Những tin tức về công trình của Garin đã đến tay báo chí Mỹ. Ba Lan chỉ có thể là trạm trung gian thôi.
Ra đến đại lộ, Senga đề nghị ngồi một lát. Đường phố vắng vẻ. Anh lấy trong cặp ra những mảnh cắt trong các tờ báo Nga và nước ngoài rồi trải lên đầu gối.
- Anh vừa nói là Garin làm việc trong lĩnh vực hóa học và những tin tức về anh ta đã lọt qua báo chí nước ngoài. Trong những mảnh báo đấy có đôi điều trùng hợp với ý kiến của anh và có đôi điều tôi chưa hiểu rõ lắm. Anh hãy đọc đi.
"... Ở Mỹ, người ta quan tâm đến một tin từ Lêningrát nói về các công trình của một nhà sáng chế Nga. Người ta phỏng đoán rằng bộ máy của nhà sáng chế này có sức phá hủy ghê gớm nhất, hơn mọi bộ máy đã được biết từ trước đến nay".
Đọc xong, Pítkêvích mỉm cười, nói:
- Lạ thật, là tôi lại không biết... Tôi không nghe nói đến chuyện đó. Không, đó không phải là nói về Garin đâu.
Senga đưa ra mảnh báo cắt thứ hai:
"... Do những cuộc thao diễn lớn sắp tới của Hạm đội Mỹ ở Thái Bình Dương, Bộ Quốc phòng bị chất vấn là có hay biết gì không về bộ máy có sức phá hoại khủng khiếp đang được chế tạo ở Nga Xô".
Pítkêvích nhún vai: "Nhảm nhí", rổi lấy mảnh báo cắt thứ ba trong tay Senga:
"... Ông vua hóa học kiêm tỷ phú Rôlinh đã lên đường sang châu Âu. Chuyến đi của ông gắn liền với một tổ chức liên hiệp xí nghiệp chuyên chế những sản phẩm của hắc ín và muối ăn. Rôlinh đã trả lời phỏng vấn ở Pari và tỏ ý tin chắc rằng tổ hợp hóa học khủng khiếp của ông sẽ đem lại an toàn cho các nước Cựu thế giới hiện đang bị các lực lượng Cách mạng làm rung chuyển. Đặc biệt, Rôlinh tỏ ra hằn học khi nói đến Nga Xô, nơi mà theo lời đồn đại, đang tiến hành những công trình nghiên cứu bí ẩn, nhằm truyền nhiệt năng đi xa".
Pítkêvích chăm chú đọc. Ngẫm nghĩ. Rồi cau mày nói:
- Phải. Rất có thể vụ giết hại Garin có liên quan gì đó đến bài báo này.
- Anh là vận động viên phải không? - Senga đột nhiên hỏi rồi nắm tay Pítkêvích và ngửa bàn tay lên. - Tôi mê thể thao lắm.
- Đồng chí Senga, anh muốn xem tôi có chai tay không vì chèo thuyền chứ gì... Anh thấy đấy, chỉ có hai chỗ phồng rộp thôi. Điều đó chứng tỏ tôi chèo thuyền rất kém và hai ngày trước đây quả thật là tôi có chèo thuyền gần tiếng rưỡi liền để chở Garin đến đảo Crextốpxki... Anh hài lòng với những tin tức ấy chứ?
Senga buông tay Pítkêvích và cười vang:
- Anh cừ lắm, anh Pítkêvích ạ, giá mà được làm việc thật sự với anh thì hẳn là thú vị đấy.
- Tôi không bao giờ chối từ cuộc chiến đấu thật sự cả.
- Anh Pítkêvích này, trước đây anh có biết gã Ba Lan bốn ngón ấy không?
- Anh muốn biết là tại sao tôi lại sửng sốt khi trông thấy bàn tay bốn ngón của gã chứ gì? Anh có óc quan sát thật đấy, anh Senga ạ. Đúng, tôi quả có sửng sốt... hơn nữa, tôi hoảng sợ là đằng khác.
- Tại sao?
- Điều đó tôi sẽ không nói cho anh biết đâu.
Senga cắn môi, nhìn dọc theo đại lộ vắng vẻ.
Pítkêvích nói tiếp:
- Không chỉ tay gã bị thương tật đâu, trên người gã còn có một vết sẹo khủng khiếp chạy dài suốt ngực nữa kia. Đó là các vết thương do Garin gây ra vào năm 1919. Tên gã là Xtaxi Tưclinxki...
- Sao kia? - Senga hỏi, - Anh chàng Garin quá cố ấy đã làm gã bị thương tật bằng cái cách mà anh ta đã dùng để cắt đứt những tấm gỗ dày bảy phân hay sao?
Pítkêvích quay phắt đầu về phía Senga và họ nhìn một lát vào mắt nhau: một người thì thản nhiên và kín đáo, người kia thì vui vẻ và cởi mở.
- Dù sao anh vẫn định bắt tôi, phải không anh Senga?
- Không... Bắt anh thì lúc nào mà chẳng kịp.
- Anh nói đúng. Tôi biết nhiều chuyện. Nhưng dĩ nhiên, anh không thể dùng bất kỳ biện pháp cưỡng bức nào để buộc tôi phải tiết lộ những điều tôi không muốn nói. Chính anh cũng biết đấy, tôi không tham dự vào tội ác. Anh có muốn chơi bài ngửa không? Điều kiện giao đấu là sau mỗi một đòn đánh hay, chúng ta lại gặp nhau và chuyện trò thành thật với nhau. Sẽ như một ván cờ vậy. Tiện đây xin nói thêm là trong khi chúng ta trò chuyện với nhau, anh đã đứng trước mối nguy hiểm chết người đấy, tôi không đùa đâu, xin đoan chắc với anh như vậy. Nếu như Tưclinxki ngồi ở chỗ anh bây giờ thì tôi sẽ nhìn quanh - xung quanh thật vắng vẻ - và tôi sẽ ung dung đi đến quảng trường Xênátxki, còn gã thì người ta sẽ tìm thấy trên chiếc ghế này lúc đã hồn lìa khỏi xác rồi, với những vết gớm ghiếc trên thân thể. Nhưng tôi xin nhắc lại là tôi sẽ không áp dụng những thủ đoạn ấy với anh đâu. Anh muốn chơi bài ngửa với tôi chứ?
- Đồng ý, - Senga nói, hai mắt sáng long lanh. - Tôi sẽ tiến công trước, được không?
- Dĩ nhiên rồi. Nếu anh bắt tôi ở nhà bưu điện thì chắc chắn tôi sẽ không đề nghị như vậy đâu. Còn về phần gã Ba Lan bốn ngón thì tôi hứa sẽ giúp anh tìm ra gã. Dù tôi có gặp gã ở đâu đi chăng nữa, tôi sẽ thông báo cho anh qua điện thoại hay điện tín.
- Được. Còn bây giờ, Pítkêvích ạ, anh hãy cho tôi xem cái vật mà anh vừa đem ra dọa nạt đi.
Pítkêvích lắc đầu, nhếch mép cười: "Xin theo ý anh - chơi bài ngửa mà lại", và thận trọng rút trong túi ra một hộp nhỏ nhẵn nhụi. Trong hộp có một ống kim loại dày bằng một ngón tay.
- Có thế thôi, chỉ cần ấn một đầu là mảnh thủy tinh nhỏ bên trong sẽ kêu tách một tiếng.
Đến gần Ban Điều tra hình sự, Senga bỗng đứng sững lại như vấp phải cột điện: "Chà! - Anh thốt lên, - chà - và anh giận dữ giậm mạnh chân: - chà, hắn láu cá thật, chà, hắn đóng kịch mới giỏi chứ!"
Senga quả thật bị lừa một vố đau. Anh đứng ngay cạnh tên giết người (bây giờ thì không còn nghi ngờ gì nữa), vậy mà đã không bắt y. Anh vừa trò chuyện với một kẻ chắc chắn biết mọi đầu mối của vụ giết người, vậy mà y khéo léo không nói điều gì thực chất cả. Cái gã Pítkêvích này phải nắm được một điều bí mật gì đó?.. Senga đột nhiên hiểu ra - đấy là một bí mật có ý nghĩa quốc gia, quốc tế nữa... Anh đã nắm được đuôi Pítkêvích, vậy mà "cái thằng khốn kiếp ấy đã tuồn khỏi tay, lẩn thoát mất!"
Senga chạy lên phòng làm việc của mình ở tầng ba. Trên bàn có một gói bọc giấy báo. Ngồi trong hốc tường sâu bên cửa sổ là một người đàn ông to béo, dáng điệu hiền lành, đi đôi ủng đen bóng. Áp chiếc mũ cát- két vào bụng, ông ta cúi chào Senga.
- Tôi là Babisép, - ông ta nói, phả hơi thở sặc sụa mùi rượu, - quản lý ngôi nhà số hai mươi bốn, phố Puscaxkaia thuộc Công ty nhà ở.
- Bác đã đem đến cái gói kia đấy à?
- Vâng. Tôi tìm được trong căn hộ số mười ba đấy... Căn hộ này không nằm trong tòa nhà chính đâu, mà trong dãy nhà phụ. Người ở trong căn hộ ấy đã biệt tăm hai ngày rồi. Hôm nay, chúng tôi đã mời cảnh sát đến, phá cửa ra và lập biên bản theo đúng pháp luật, - người quản lý nhà lấy tay che miệng, hai má ông ta đỏ bừng lên, đôi mắt ươn ướt hơi lồi ra, mùi rượu ngang tràn ngập căn phòng. - Tôi tìm được thêm cái gói này trong bếp lò.
- Tên của người thuê nhà đã bặt tăm là gì?
- Xavêliép Ivan Alếchxêêvích.
Senga mở gói ra. Bên trong có một tấm ảnh Pítkêvích, một chiếc lược, một chiếc kéo, một lọ nhỏ đựng thứ chất nước màu sẫm, thuốc nhuộm tóc.
- Xavêliép làm nghề gì?
- Ông ta làm việc bên khoa học. Khi ống dẫn ở chỗ chúng tôi bị vỡ, ban quản lý nhà có đến nhờ ông ta... Ông ta bảo: "Tôi sẽ rất sung sướng được giúp đỡ các đồng chí, nhưng tôi là nhà hóa học kia".
- Ông ta có thường vắng nhà ban đêm không?
- Vắng nhà vào ban đêm ấy ư? Không. Tôi không nhận thấy. - Viên quản lý nhà lại che miệng. - Cứ mờ sáng là ông ta ra đi, cái đó thì đúng. Nhưng ban đêm mà vắng nhà thì tôi không nhận thấy, cũng không có thấy ông ta say rượu bao giờ.
- Những người quen có đến thăm ông ta không?
- Tôi không thấy.
Senga gọi điện thoại hỏi phòng cảnh sát khu vực Pêtơrôgrátxcaia. Hóa ra ở dãy phụ ngôi nhà số hai mươi bốn phố Puscaxcaia quả có một người tên là Xavêliép, ba mươi sáu tuổi, kỹ sư hóa. Xavêliép dọn đến phố Puscaxcaia vào tháng hai với chứng minh thư do sở cảnh sát Tambốp cấp.
Senga đánh điện hỏi Tambốp và cùng người quản lý nhà đi xe đến Phôntanca, nơi xác kẻ bị giết ở đảo Crextôpxki đang nằm trong hòm lạnh tại Ban điều tra hình sự. Người quản lý nhà nhận ra ngay đấy chính là Xavêliép.
Cũng vào thời gian đó, người đàn ông tự xưng tên là Piancốp Pítkêvích đáp xe ngựa che mui kín đến một bãi đất hoang ở khu vực Pêtơrôgrátxcaia. Sau khi trả tiền, y đi trên hè phố dọc theo bãi hoang. Y mở cửa hàng giậu gỗ, bước qua sân, rồi theo cầu thang hẹp phía cổng hậu leo lên tầng năm. Y dùng hai chìa khóa để mở cửa, treo măngtô và mũ lên chiếc đinh duy nhất ở gian ngoài trống trải, sau đó y bước vào căn phòng mà bốn ô cửa sổ đều trát phấn đến nửa chừng, ngồi xuống chiếc đivăng rách nát và lấy hai tay ôm mặt.
Chỉ nơi đây, trong căn phòng biệt lập này (chất đầy các giá sách và các máy móc vật lý), rốt cuộc y mới có thể đắm mình trong nỗi lo sợ khủng khiếp, gần như tuyệt vọng, đã làm y rụng rời suốt từ ngày hôm qua.
Hai bàn tay ôm lấy mặt của y run rẩy. Y hiểu rằng mối nguy hiểm chết người chưa qua đi. Y đang bị bao vây. Chỉ có vài khả năng nhỏ nhoi là có lợi cho y: trong một trăm thì có chín mươi chín chống lại y. "Mình thật khinh suất quá, chà, thật khinh suất quá đi mất!".
Y phải cố gắng lắm mới chế ngự được nỗi lo sợ. Thọc nắm tay vào chiếc gối bẩn thỉu, y nằm ngửa ra và nhắm mắt lại.
Những ý nghĩ nặng trĩu nỗi căng thẳng ghê gớm nay được thư giãn. Một vài phút nằm bất động khiến y lại tươi tỉnh. Y vùng dậy, rót rượu mađe vào cốc rồi uống một hơi cạn. Khi làn sóng nóng bỏng dâng lên khắp cơ thể, y bắt đầu đi đi lại lại trong phòng, thong thả tìm kiếm một cách có phương pháp những khả năng thoát thân ít ỏi.
Y thận trọng uốn cong lớp giấy bồi cũ còn sót lại ở chân tường, rút từ đấy ra những bản vẽ và cuộn lại thành ống. Y lấy mấy cuốn sách trên giá, xếp chung với các bản vẽ và các bộ phận của các thiết bị vật lý vào va li. Y vừa luôn luôn lắng nghe động tĩnh, vừa xách va li xuống một hầm chứa củi tối tăm rồi giấu nó vào dưới đống rác. Sau đó y lại lên phòng mình, rút trong bàn viết ra một khẩu súng lục, xem xét cẩn thận và đút vào túi sau.
Đã năm giờ kém mười lăm. Y lại nằm xuống, hút hết điếu thuốc này đến điếu thuốc khác và ném đầu thuốc vào góc nhà. "Nhất định chúng không thể tìm ra được!" - y vừa nói như thét lên, vừa tung hai chân xuống sàn và lại rảo bước đi đi lại lại trong phòng.
Lúc sẩm tối, y xỏ ủng, khoác chiếc măng tô bằng vải thô rồi ra khỏi nhà.