Trên tấm rèm trắng lay động, những bóng lá cây chạy đi chạy lại. Bên ngoài rèm, vang lên không dứt tiếng nước róc rách. Đấy là tiếng nước phun ra khắp phía từ những đường ống di chuyển được đặt trên bãi cỏ xanh của vườn cây trong bệnh viện và tiếng nhỏ giọt xuống từ đám lá cây ngô đồng ngay trước cửa sổ.
Senga thiu thiu ngủ trong căn phòng cao, quét vôi trắng, được ánh sáng chiếu qua tấm rèm.
Từ xa vọng lại tiếng ồn ào của Pari. Còn gần đều là tiếng lá cây xào xạc, tiếng chim hót và tiếng nước róc rách đơn điệu.
Thỉnh thoảng, ngay bên cạnh lại vang lên tiếng ô tô gầm rú hoặc tiếng bước chân trong hành lang - Senga lập tức mở mắt ra nhìn chằm chằm đầy lo lắng về phía cửa. Anh không thể nhúc nhích nổi. Cả hai tay anh bị bó chặt thạch cao, ngực và đầu quấn dây băng. Để tự vệ, anh chỉ còn đôi mắt. Và những âm thanh êm dịu từ ngoài vườn vọng vào lại ru anh trong giấc ngủ.
Người nữ y tá thuộc dòng tu Cácmêlita mặc toàn đồ trắng đánh thức anh dậy, đôi tay đầy đặn của cô thận trọng đưa tách nước trà bằng sứ lên môi anh. Khi cô ta bước ra, còn vương lại mùi tinh dầu lavanda. [1]
Lại một ngày trôi qua chập chờn giữa giấc ngủ và nỗi lo lắng. Đấy là ngày thứ bảy sau khi người ta tìm thấy Senga nằm bất tỉnh và máu me bê bết trong khu rừng Phôngtenơblô. Anh đã hai lần bị viên dự thẩm lấy lời khai. Anh đã khai như sau:
- Lúc mười hai giờ đêm, tôi bị hai người tiến công. Tôi chống trả bằng gậy và bằng nắm đấm. Tôi bị bắn bốn phát đạn và không nhớ gì nữa.
- Anh có nhìn rõ mặt những kẻ tiến công anh không?
- Chúng bịt mặt che kín nửa khuôn mặt phía dưới.
- Anh cũng tự vệ bằng gậy chứ?
- Đó chỉ là cành khô tôi nhặt được trong rừng.
- Anh đi vào rừng Phôngtenơblô muộn như vậy để làm gì?
- Tôi đi dạo ngắm nhìn lâu đài, lúc trở về theo đường rừng thì bị lạc.
- Anh giải thích thế nào việc tìm thấy những vết xe còn mới gần chỗ anh bị mưu sát.
- Thế có nghĩa là hung thủ đã đi xe đến chỗ ấy.
- Để cướp bóc anh? Hay để giết anh?
- Theo tôi thì chúng không định cướp bóc tôi mà cũng chẳng định giết tôi. Không một ai ở Pari biết tôi hết. Tôi không làm việc trong sứ quán. Tôi chẳng thực hiện một sứ mệnh chính trị nào cả. Tôi đem theo rất ít tiền.
- Có lẽ người mà hung thủ chờ đợi không phải là anh chăng? Có lẽ khi chúng đứng đợi cạnh cây sồi kép trên quãng rừng thưa, một tên hút thuốc, còn tên kia thì đánh rơi cái khuy cài măng sét có đính viên ngọc quí chăng?
Chắc hẳn, đó là những thanh niên thượng lưu bị vét nhẵn túi trong trường đua hoặc trong sòng bạc. Họ tìm cơ hội cứu vãn tình thế. Ở Phôngtenơblô rất có thể gặp những người trong túi chặt căng những tờ nghìn phơrăng.
Trong cuộc lấy lời khai thứ hai, khi viên dự thẩm đưa ra bản sao bức điện gửi đến Béclin cho Khơlưnốp (do cô y tá thuộc dòng tu Cácmêlita chuyển cho ông ta), Senga trả lời:
- Đó là mật mã. Nó có liên quan đến việc truy lùng một tên tội phạm nguy hiểm đã trốn khỏi nước Nga.
- Anh có thể nói rõ hơn với tôi được không?
- Không. Đấy không phải là bí mật của tôi.
Senga trả lời các câu hỏi một cách chính xác, rành mạch, anh nhìn thẳng vào mắt viên dự thẩm với vẻ thành thật và thậm chí còn có vẻ hơi đần nữa. Viên dự thẩm chỉ còn cách tin vào sự chân thành của anh.
Nhưng mối nguy hiểm vẫn chưa qua. Mối nguy hiểm tiềm tàng trong những cột báo đầy ắp các chi tiết về "biến cố khủng khiếp trong khu rừng Phôngtenơblô", mối nguy hiểm lẩn quất bên kia cửa, bên kia tấm rèm trắng bị gió thổi rung rinh, và trong cái tách trà bằng sứ được đôi tay đầy đặn của cô y tá dòng tu Cácmêlita đưa đến tận môi Senga.
Chỉ có một lối thoát: làm sao cởi bỏ được thạch cao và bông băng càng sớm càng tốt. Và Senga liền nằm im, bất động, trong trạng thái nửa mơ nửa tỉnh.
Trong lúc nửa mơ nửa tỉnh, anh nhớ lại câu chuyện đã xảy ra với anh.
Đèn pha tắt. Xe chạy chậm lại... Garin thò đầu ra khỏi xe và thì thào:
- Senga, quành đi. Sắp đến quãng rừng thưa rồi. Ở đấy...
Chiếc xe nặng nề lắc lư trên con đường nhỏ trong rừng, len lỏi giữa các hàng cây, rẽ ngoặt rồi đỗ lại.
Quãng rừng thưa uốn lượn dưới ánh sao. Những khối đá nhấp nhô lờ mờ dưới bóng cây.
Xe tắt máy. Mùi cỏ bốc lên hăng hắc. Con suối mơ màng róc rách chảy, bên trên là màn sương mù như một tấm vải mờ trôi lượn lờ vào sâu trong quãng rừng thưa.
Garin nhảy xuống lớp cỏ ẩm ướt và đưa tay ra. Dôia, mũ chụp sâu vào đầu, bước ra khỏi xe, ngước nhìn các ngôi sao rồi nhún vai.
- Nào, xuống xe đi, - Garin sẵng giọng nói.
Khi ấy, Rôlinh nhô đầu ra trước, bước xuống. Dưới bóng chiếc mũ, hàm răng vàng của y sáng lóe lên.
Nước róc rách giữa các tảng đá. Rôlinh rút tay ra khỏi túi (tay y rõ ràng đã nắm chặt lại từ lâu) và khàn khàn lên tiếng:
- Nếu ở đây sắp sửa thi hành án tử hình thì tôi phản kháng. Tôi phản kháng nhân danh pháp luật. Nhân danh lòng nhân đạo... Tôi phản kháng với tư cách một người Mỹ... một tín đồ Thiên Chúa giáo... Tôi đề nghị bất kỳ một món tiền chuộc nào...
Dôia đứng quay lưng về phía y. Garin ghê tởm nói:
- Nếu định giết ông thì tôi đã có thể làm ngay lúc nãy rồi...
- Ông đồng ý nhận tiền chuộc chứ? - Rôlinh hỏi nhanh.
- Không.
- Hay ông đòi tôi phải tham gia vào... - hai má Rôlinh giật giật, -... vào những công việc lạ lùng của ông?
- Đúng vậy. Ông phải nhớ chứ... Trên đại lộ Mandéc... Tôi đã nói với ông rồi...
- Được, Rôlinh trả lời, - sáng mai tôi sẽ tiếp ông.. Tôi phải suy nghĩ lần nữa về những đề nghị của ông...
Dôia khẽ nói:
- Rôlinh, ông đừng nói những câu ngu ngốc nữa.
- Thưa bà!... - Rôlinh chồm dậy, chiếc mũ chụp xuống tận mũi y, - Thưa bà... Bà càn rỡ quá lắm. Bà là quân phản bội... là tòng phạm những vụ giết người...
Dôia đáp, vẫn khẽ như trước:
- Quỷ tha ma bắt ông đi. Ông hãy nói chuyện với ông Garin ấy.
Rôlinh và Garin liền đi đến cây sồi kép. Đèn pin bật sáng lên ở đấy. Hai cái đầu cúi xuống. Trong vài giây chỉ nghe tiếng suối chảy róc rách giữa các tảng đá.
- Nhưng chúng ta đâu chỉ có ba người mà có bốn người kia... Ở đây có người chứng kiến, - giọng gay gắt của Rôlinh vang đến tai Senga.
- Ai ở đây? - Senga rùng mình nói trong cơn mê. Hai mắt anh mở to ra.
Trước mặt anh, Khơlưnốp đang ngồi trên chiếc ghế màu trắng, mũ đặt trên đầu gối.
- Tôi không thể dự đoán được diễn biến sự việc... Chẳng có lúc nào mà nghĩ nữa, - Senga kể cho Khơlưnốp. - Tôi đã xử sự thật ngu ngốc.
- Sai lầm của anh là ở chỗ anh đã đưa Rôlinh lên xe, - Khơlưnốp nhận xét.
- Tôi có đưa hắn lên đâu... Khi trong nhà trọ người ta bắt đầu bắn giết nhau thì Rôlinh ngồi thu lu trong xe, giữ chặt hai khẩu côn... Mà tôi thì không có vũ khí. Tôi trèo lên bao lơn và chứng kiến cảnh Garin tiêu diệt lũ cướp kia... Tôi báo cho Rôlinh biết chuyện ấy... Y phát hoảng, rên hừ hừ và dứt khoát không chịu ra khỏi xe... Sau đó, y định bắn Dôia. Nhưng tôi với Garin đã bẻ quặt hai tay y lại... Không còn thì giờ đâu mà trùng trình nữa, tôi nhảy lên xe, nắm lấy tay lái và cho xe chạy luôn...
- Khi anh đã đến quãng rừng thưa và chúng thương lượng với nhau cạnh cây sồi, chẳng lẽ anh không hiểu ư?
- Tôi hiểu là tôi lâm vào thế bí rồi. Nhưng biết làm thế nào được? Chạy trốn ư? Anh biết đấy, tôi là nhà thể thao kia mà... Trong kế hoạch của tôi đã đâu vào đó cả... Trong túi tôi là tấm hộ chiếu giả cho Garin với chín dấu thị thực... Bộ máy của hắn lại trong tầm tay, ngay trong xe... Trong hoàn cảnh như vậy, liệu tôi có quyền nghĩ nhiều đến tính mạng của mình không?
- Thôi được... Chúng đã cấu kết với nhau.
- Rolinh ký một tờ giấy gì đó dưới gốc cây - tôi thấy rõ như vậy. Sau đó, tôi nghe thấy hắn nói về nhân chứng thứ tư, tức là về tôi. Tôi liền khẽ bảo Dôia: "Bà Dôia ạ, vừa rồi, khi xe chúng ta chạy trước mặt viên cảnh sát, y đã nhận ra được số xe. Nếu bây giờ tôi bị giết thì đến sáng các người sẽ bị cùm tay hết". Anh có biết mụ ta trả lời tôi thế nào không? Mụ ta gớm thật đấy. Mụ ta không nhìn tôi, nói qua vai "Được, tôi sẽ lưu ý đến việc đó". Thế đấy. Rồi Garin và Rôlinh trở lại xe. Tôi thản nhiên như không có gì xảy ra hết. Người đầu tiên bước lên xe là Dôia. Mụ ta thò đầu ra, nói một câu gì đó bằng tiếng Anh. Garin bảo tôi: "Đồng chí Senga, bây giờ đồng chí hãy cho xe phóng hết tốc lực theo đường cái về phía Tây". Tôi ngồi xuống trước bộ tản nhiệt... Sai lầm của tôi là ở đây. Chúng chỉ đợi có giây phút này. Nếu xe đang chạy thì chắc chắn chúng sẽ không dám làm gì tôi, sẽ e ngại... Được, tôi cho xe nổ máy... Đột nhiên tôi bị giáng vào đầu, vào giữa đỉnh đầu - tôi cảm thấy dường như cả một ngôi nhà đổ sụp xuống đầu tôi, xương kêu răng rắc, người như bốc cháy, tôi ngã sấp mặt xuống... Tôi chỉ nhìn thấy một thứ, đó là bộ mặt méo xệch đi của Rôlinh chợt thoáng qua. Đồ khốn kiếp! Hắn nã bốn viên đạn vào đầu tôi... Sau đó, khi tôi mở mắt ra thì thấy căn phòng này.
Senga mệt mỏi vì kể chuyện. Họ im lặng hồi lâu. Khơlưnốp hỏi:
- Hiện nay Rôlinh có thể ở đâu được?
- Còn ở đâu được nữa. Dĩ nhiên là ở Pari rồi. Hắn đang thao túng báo chí. Hắn đang mở cuộc tiến công lớn trên mặt trận hóa học. Tiền chảy như suối vào túi hắn. Tôi rất lo ngại vì bất cứ lúc nào cũng có thể nhận một phát đạn từ cửa sổ bắn vào hoặc uống phải chất độc trong tách nước trà. Nhất định hắn sẽ tìm cách thủ tiêu tôi.
- Vậy tại sao anh lại im lặng?... Phải báo ngay cho giám đốc cảnh sát chứ.
- Anh Khơlưnốp thân mến, anh điên rồi! Sở dĩ tôi còn sống sót cho tới nay chính là vì tôi im lặng đấy.
- Senga, vậy là anh tận mắt trông thấy hoạt động của bộ máy phải không?
- Đúng thế, và bây giờ tôi hiểu rằng đại bác, hơi độc, máy bay đều chỉ là trò chơi của trẻ con. Anh đừng quên rằng trong chuyện này chỉ có một mình Garin... Garin và Rôlinh. Một bộ máy gieo chết chóc và hàng tỷ đôla. Cái gì cũng có thể xảy ra hết.
Khơlưnốp nâng rèm lên, đứng hồi lâu bên cửa sổ, nhìn cây cối xanh tươi, nhìn người làm công già đang vất vả kéo những ống dẫn nước bằng kim loại vào mé vườn rợp bóng mát, nhìn lũ sáo đen đang bận bịu nhảy nhót dưới bụi mã tiên thảo để kiếm giun đất. Bầu trời xanh thẫm tuyệt đẹp, toát ra vẻ thanh bình vĩnh viễn trên khu vườn.
- Nếu để cho Rôlinh và Garin mặc sức hành động thì kết cục chẳng mấy chốc sẽ đến - Khơlưnốp nói. - Thế giới này sẽ không tránh khỏi diệt vong... Ở đây chỉ có lũ sáo kia là sống khôn ngoan mà thôi. - Khơlưnốp quay người, rời khỏi cửa sổ. - Con người thuộc thế kỷ đồ đá hiển nhiên là đáng giá hơn... Họ vẽ đầy các hang không phải vì tiền mà chỉ do nhu cầu nội tâm, họ ngồi bên đống lửa suy nghĩ về những con ma mút, về những cơn dông tố, về sự xoay vần lạ lùng của cái sống và cái chết, về bản thân họ. Chà, tất cả những cái đó mới đáng kính làm sao!... Óc còn nhỏ, xương sọ còn dày, nhưng nghị lực tinh thần tỏa ra như ánh chớp từ đầu họ... Còn những con người kia, những con người ngày nay thì thật không hiểu họ cần đến máy bay làm quái gì? Nếu như nhốt một gã công tử bột rong chơi ngoài phố vào hang, đặt gã ngồi trước mặt một người thuộc đời đồ đá cũ thì chắc hẳn các ông bác lông lá kia sẽ hỏi gã: "Anh hãy kể xem anh đã nghĩ được điều gì trong suốt mười vạn năm qua?" - Chà, thưa cụ (hay thưa kỵ gì đấy), - gã sẽ loay hoay cựa quậy, - cháu chẳng nghĩ ngợi gì nhiều, mà chủ yếu là hưởng thụ những thành quả của nền văn minh. Nếu như không có nguy cơ về việc bọn dân đen nổi lên làm cách mạng thì thế giới của chúng cháu sẽ thật sự tuyệt vời. Nhưng khổ một nỗi là các cuộc khủng hoảng và các cuộc cách mạng cứ thường xuyên nổ ra, thật mệt mỏi quá..." - "À ra thế, - con người tiền sử kia chắc hẳn sẽ vừa đáp lại vừa nhìn xoáy cặp mắt nóng bỏng vào gã công tử bột, - Còn ta, ta lại ưa suy nghĩ kia, đấy, ta hiện đang ngồi suy nghĩ đây và kính trọng bộ óc thiên tài của ta... Ta muốn dùng nó để xuyên thấu vũ trụ..."
Khơlưnốp yên lặng. Anh vừa nhếch miệng cười vừa như nhìn sâu vào bóng tối của hang động thời tiền sử. Rồi anh lắc đầu:
- Garin và Rôlinh tìm cách đạt được cái gì? Sự buồn nhột. Dù chúng có gọi cảm giác buồn nhột ấy là quyền lực đối với thế giới thì đó vẫn chỉ là sự buồn nhột cứ không hơn. Trong cuộc chiến tranh vừa qua[2], có ba mươi triệu người bị chết. Chúng sẽ cố tìm cách giết được ba trăm triệu. Nghị lực tinh thần đang trong trạng thái mê man. Giáo sư Râykhe chỉ ăn bữa trưa vào các ngày chủ nhật, còn vào các ngày khác thì ông ăn hai khoanh bánh mì phết mứt cho bữa sáng và khoai tây ninh muối cho bữa trưa. Tiền công trả cho lao động trí óc là như vậy đó... Và sẽ còn như thế cho tới khi chúng ta phá tan toàn bộ nền "văn minh" của chúng, nhốt Garin vào nhà thương điên và đưa Rôlinh đi làm trưởng phòng quản trị hành chính tại một nơi nào đó trên đảo Vranghen... Anh nói đúng, cần phải chiến đấu... Tôi đã sẵn sàng rồi. Bộ máy của Garin phải nằm trong tay Liên Xô.
- Bộ máy ấy sẽ thuộc về chúng ta, - Senga nhắm mắt, lên tiếng.
- Bắt đầu công việc từ đâu đấy?
- Từ công tác trinh sát, theo đúng lệ thường.
- Nhắm hướng nào?
- Hiện nay chắc chắn là Garin đang ráo riết chế tạo bộ máy. Ở Vinlơ Đavrê, y chỉ có máy mẫu thôi. Nếu y kịp chế tạo một bộ máy thật sự thì khó mà chiếm đoạt nổi. Việc đầu tiên là phải tìm hiểu xem y chế tạo bộ máy ở đâu.
- Sẽ cần có tiền đấy.
- Ngay hôm nay, anh sẽ đến phố Grơnen, trao đổi với đại sứ nước ta, tôi đã thông báo cho đồng chí ấy ít nhiều rồi. Chúng ta sẽ có tiền. Việc thứ hai là phải tìm ra được Dôia. Điều này rất quan trọng. Đó là một mụ phụ nữ thông minh, nguy hiểm, giàu trí tưởng tượng. Chính mụ ta đã gắn liền Garin và Rôlinh lại cho đến chết. Mụ ta là kẻ chủ đạo trong mưu mô của chúng.
- Xin lỗi anh, nhưng tôi không ưa chiến đấu với phụ nữ.
- Anh Khơlưnốp ạ, mụ ta mạnh hơn tôi với anh... Mụ ta sẽ còn làm đổ nhiều máu nữa.
Dôia mặc áo cắt theo kiểu lính thủy, màu trắng, đính cúc vàng và mặc váy trắng, bước lên boong trên, nơi bữa ăn sáng đã dọn sẵn trên chiếc bàn thấp đan bằng mây, đặt trong bóng râm.
Ả ngồi vào bàn, bẻ một mẩu bánh mì rồi ngắm nhìn quang cảnh xung quanh. Chiếc du thuyền gắn máy, thân hẹp, trắng toát, đang lướt trên mặt nước phẳng như gương; biển xanh dịu, sẫm hơn một chút so với bầu trời không gợn mây. Boong thuyền cọ rửa sạch sẽ tỏa lên làn hơi mát mẻ. Làn gió ấm nhè nhẹ thổi mơn man đôi má.
Trên boong thuyền hơi uốn cong, ghép bằng những ván gỗ hẹp như bọc da hươu, có kê một dãy ghế bành mây dọc theo hai mạn thuyền, ở giữa là một tấm thảm óng ánh bạc với những chiếc gối gấm vứt rải rác. Một lớp mái che bằng lụa xanh, viền riềm và tua ngù, kéo căng từ cầu chỉ huy đến mũi thuyền.
Dôia thở dài rồi bắt đầu ăn sáng.
Thuyền trưởng Gianxen, người Na Uy, vừa mỉm cười vừa nhẹ nhàng bước lại gần. Ông ta cạo râu nhẵn nhụi, mặt đỏ hồng, trông giống như một đứa bé cao lớn. Ông ta ung dung đưa hai ngón tay lên vành chiếc mũ đội lệch hẳn về một phía.
- Chào bà Lamôlơ, chúc bà một buổi sáng tốt lành. (Ả lấy tên là Lamôlơ trong khi lênh đênh trên chiếc du thuyền treo cờ Pháp).
Viên thuyền trưởng mặc bộ đồ trắng tinh được là cẩn thận; trông ông phong nhã một cách vụng về, theo kiểu thủy thủ. Dôia nhìn khắp người ông ta, từ mấy chiếc lá sồi thêu bằng chỉ vàng trên lưỡi trai mũ cho đến đôi giày trắng có đế bằng dây bện. Ả hài lòng:
- Chào ông Gianxen.
- Tôi được hân hạnh báo cáo với bà là du thuyền chúng ta đang đi theo hướng Tây - Tây Bắc, kinh độ và vĩ độ (ông ta nêu những số liệu cụ thể), và ở chân trời là ngọn núi lửa Vêduyvơ[3] đang tỏa khói. Khoảng gần một giờ nữa sẽ trông thấy thành phố Naplơ[4]
- Mời ông ngồi, ông Gianxen.
Ả đưa tay ra hiệu mời Gianxen cùng ăn sáng. Ông ta ngồi xuống, chiếc ghế mây kêu ken két lên dưới thân hình lực lưỡng. Ông ta từ chối lời mời vì đã ăn sáng vào lúc chín giờ rồi. Nhưng ông ta vẫn lịch sự cầm tách cà phê.
Dôia chăm chú nhìn khuôn mặt rám nắng với hai hàng mi nhạt màu của ông ta. Ông ta hơi đỏ mặt lên, tuy chưa uống hết nhưng vẫn đặt tách cà phê xuống bàn.
- Phải thay nước lã và lấy xăng cho động cơ, - Ông ta nói, không ngước mắt lên.
- Sao kia, phải rẽ vào Naplơ à? Thật chán quá đi mất! Nếu ông cần nước và xăng đến như vậy thì ta cho thuyền đậu ở vũng ngoài.
- Xin tuân lệnh, - Gianxen khẽ đáp.
- Ông Gianxen này, tổ tiên ông là cướp biển phải không?
- Thưa bà, vâng.
- Làm cướp biển mới thú làm sao! Nào những chuyến phiêu lưu, nào những cơn nguy hiểm, nào những bữa chè chén say sưa, nào những vụ bắt cóc các phụ nữ xinh đẹp... Ông có lấy làm tiếc vì ông không phải cướp biển không?
Gianxen im lặng. Hàng mi nhạt màu của ông ta hấp háy. Trán nhăn lại.
- Thế nào?
- Thưa bà, tôi được giáo dục tử tế.
- Tôi tin là như vậy.
- Chẳng lẽ trong con người tôi có một nét gì đó khiến bà nghĩ rằng tôi có thể làm những hành động phạm pháp và vô lễ hay sao?
- Chán cho ông quá, - Dôia nói, - Một người khỏe mạnh, can đảm, tài giỏi, con cháu của dân cướp biển, vậy mà lại chịu lái thuyền cho một mụ đàn bà bẳn tính trong cái vũng nước ấm chán ngán này sao?
- Nhưng thưa bà...
- Ông hãy bày một trò ngu ngốc gì đi, Gianxen. Tôi chán lắm rồi...
- Xin tuân lệnh.
- Khi nào có một trận bão khủng khiếp, ông hãy đưa du thuyền lao vào một tảng đá đi.
- Xin tuân lệnh.
- Ông có thực sự định làm việc đó không?
- Nếu bà ra lệnh...
Gianxen nhìn Dôia. Cặp mắt ông ta lộ vẻ bực bội và nỗi khâm phục cố nén lại. Dôia vươn người, đặt tay lên tay áo trắng tinh của Gianxen:
- Tôi không nói đùa với ông đâu. Tuy tôi biết ông có ba tuần lễ, nhưng tôi cảm thấy ông thuộc loại người có thể trung thành với tôi (hàm Gianxen nghiến chặt). Tôi cảm thấy ông có khả năng làm những hành động vượt ra ngoài khuôn khổ pháp luật nếu như những hành động ấy tạo ra chất men say cuộc sống...
Đúng lúc ấy, trên cầu thang bóng loáng ánh đồng từ cầu chỉ huy dẫn xuống, xuất hiện hai chân của một người đang chạy xuống. Gianxen vội nói:
- Đã đến giờ, thưa bà...
Người thuyền phó đã xuống đến nơi, giơ tay chào:
- Thưa bà Lamôlơ, đã mười hai giờ kém ba phút. Sắp đến giờ liên lạc vô tuyến.
[1] Một loại cây ở vùng Địa Trung Hải, thuộc họ hoa môi, từ xưa người ta đã trồng để lấy tinh dầu - N. D
[2] Chiến tranh thế giới lần thứ nhất - N. D.
[3] Xem chú thích kế
[4] Núi lửa Vêduyvơ ở gần thành phố Naplơ (Ý) là núi lửa duy nhất còn hoạt động ở châu Âu. Đây là nơi thu hút nhiều khách du lịch. - ND