Thiên Văn

Chương 8: Cuốn nhật ký

Đó
là chân dung chính diện của một chàng trai trẻ chỉ to bằng ngón tay, nhưng nét
vẽ hết sức sinh động, tóc đen môi đỏ, ngũ quan rõ ràng, biểu cảm sinh động, vừa
hoảng hốt lại vừa hoang mang, nhất là đôi mắt vô cùng sáng và tinh nhanh, giống
như ánh mắt của người thật đang chăm chú nhìn mình.

Thời
điểm tổ chức đám tang cậu, khách từ Thẩm Dương đến viếng rất đông, họ chủ yếu là
giáo viên và bạn học của cậu, trong đó ấn tượng nhất là một ông già tên Từ Vạn
Lý. Lúc ông ta đến tiền hô hậu ủng hết sức rầm rộ, sau đó còn được lãnh đạo
Chính hiệp và Học viện Mỹ thuật thành phố mời đi ăn cơm. Nghe mẹ tôi giới thiệu
qua, ông Từ là cựu giáo sư của Học viện Mỹ thuật Lỗ Tấn, đồng thời là một hoạ
sĩ sơn dầu nổi tiếng Trung Quốc, từng tham gia sáng tác tranh panorama. Hồi đi
học, cậu tôi là học trò của ông, tình cảm thầy trò rất sâu sắc; năm đó cậu tôi
được vào tổ sáng tác tranh panorama cũng là nhờ có ông Từ giới thiệu.

Với
những người nổi tiếng như Từ Vạn Lý thì việc hỏi thăm rất dễ. Sau khi tìm được
địa chỉ, ngay chiều chủ nhật, tôi xách hai túi hoa quả tìm đến nhà ông. Từ Vạn
Lý dáng người gầy gò, tóc bạc trắng, mặc dù tay trống ba-toong nhưng lưng vẫn
còn rất thẳng. Chưa để tôi kịp giới thiệu bản thân, ông đã kéo tay tôi, vui mừng
chào hỏi:

- A
đầu, cháu là cháu gái của Anh Thạch, đúng không, tên là Tiêu… Tiêu Vi, làm cảnh
sát hình sự. Lần trước đến Cẩm Châu không kịp nói chuyện với cháu, cháu đến để
thăm ta sao?

Tôi
khẽ cười rồi gật đầu, nói:

-
Ông Từ, trí nhớ của ông thật tốt, lần này cháu đến Thẩm Dương công tác, tiện thể
đến thăm ông.

Ông
liên mồm nói tốt qua tốt quá rồi bảo tôi vào trong nhà tiếp đón rất nhiệt tình.
Do tai hơi bị nghễnh ngãng nên ông nói chuyện rất to, rất hào sảng.

Vợ
ông Từ là một người phụ nữ hiền lành phúc hậu, bà vừa cười vừa rót hai tách trà
rồi lui về phòng, đề hai chúng tôi ở lại phòng khách nói chuyện.

Sau
khi hỏi thăm, tôi cố tình chuyển đề tài sang cậu tôi, với hi vọng sẽ phát hiện
một vài điều từ miệng ông. Ông Từ tay vuốt chòm râu, lim dim mắt đắm chìm trong
cảm xúc dồn về, lời nói của ông đong đầy cảm giác thương cảm, cô đơn. Ông thao
thao bất tuyệt đủ những chuyện thời cậu còn đi học, chi tiết thời gian đều rất
rõ ràng, đủ để thấy tình cảm của ông về người học trò yêu quý sâu sắc nhường
nào.

Những
câu chuyện ấy gợi cho tôi nhớ về cậu. trong lòng bùi ngùi, tôi day trán, trầm
tư không nói gì.

Ông
Từ nhấp một ngụm trà, sau đó chuyển sang chủ đề khác, ông kể: Tháng Chín năm
1986, Tổng bộ Chính trị quân Giải phóng thành lập tổ sáng tác tranh panorama,
huy động hơn ba mươi hoạ sĩ trên toàn quốc, đều là những học giả và giáo sư đã
thành danh thời bấy giờ. Vốn dĩ không đến lượt một hoạ sĩ vừa mới ra trường như
cậu tôi, nhưng vì luôn đánh giá cậu tôi có năng khiếu bẩm sinh, là hạt giống có
thể ươm mầm, nên ông Từ đã nhiều lần tiến cử, cuối cùng cấp trên cũng đồng ý bổ
sung thêm một suất.

Thời
đó, mọi người rất vô tư trong sáng, trước một nhiệm vụ chính trị quan tọng như
vậy, họ chỉ thấy vinh dự tự hào, tất cả đều cống hiến vô tư, không mảy may nghĩ
đến thù lao, mỗi người tự chia chủ đề sáng tác của mình rồi bắt đầu đi khảo sát
thực địa. Còn nhớ năm đó cậu mới ngoài ba mươi, là chàng trai trẻ tuổi nhất tổ,
ngày ngày chăm chỉ lao đầu vào sáng tác. Cũng chính nhờ có cơ hội ấy, tài năng
hội hoạ của cậu mới được khẳng định, rồi từ đó cứ phát triển dần lên, dành được
nhiều thành tích trong lĩnh vực sáng tác tranh sơn dầu. Về sau, mỗi lần cậu đến
Thẩm Dương thăm ông Từ, đều nói rằng nhờ sự tiến cử của thầy mới có được cậu
ngày hôm nay.

Nói
đến đây, ông Từ dừng lại đôi giây, thở dài đau khổ nói:

- Mới
ngoài năm mươi tuổi, đang trong thời kỳ đỉnh cao sáng tác của người hoạ sĩ,
đáng tiếc, cậu cháu… cậu cháu ra đi sớm quá!

Tôi
khẽ gật đầu, nhưng trong lòng lại hiện lên một suy nghĩ khác: Năm đó cậu tìm ra
tấm Long Bản rồi một mình bí mật cất giữ nó hơn hai mươi năm, lại không có vợ
con để chia sẻ, đây quả là một gánh nặng tâm lý vô cùng nặng nề, chỉ nghĩ đến
cũng đủ thấy đau khổ tột cùng. Nay cậu đã ra đi, đó chẳng phải chính là một sự
giải thoát sao?

Thấy
tôi mãi chẳng nói gì, ông Từ chớp chớp mắt, dường như ông cảm thấy điều gì đó,
liền cười hỏi tôi:

-
Cháu à, cháu từ xa xôi đến đây tìm ta, nếu ta đoán không nhầm chắc phải có chuyện
gì, đúng không?

Tôi
giật mình, nhìn khuôn mặt hiền từ của ông, ông chính là người thân cận nhất của
cậu ngoài tôi và mẹ, những kiêng dè ban đầu bỗng chốc tan biến, tôi quyết định
không giấu giếm nữa, liền kể lại câu chuyện xảy ra sau khi cậu ra đi, nguyên
văn toàn bộ. Để ông cụ khỏi lo lắng, tôi không đề cập đến nhứng sự việc xảy ra
với tôi thời gian qua.

Ông
Từ ngồi dựa hẳn lưng vào chiếc ghế thái sư, hai mắt nheo vào chỉ còn bằng đường
kẻ, tay phải nắm lấy chòm râu, yên lặng lắng nghe. Đợi tôi nói xong, ông khẽ lắc
đầu, con ngươi đảo lia lịa, tay trái liên tục gõ nhịp vào tay vịn ghế tạo thành
những tiếng cạch cạch theo nhịp. Một lúc sau, ông đột nhiên thở dài, chậm rãi
nói:

-
Xem ra anh ta vẫn không trốn được…

Tiếng
ông vọng lại trong phòng khách, không khí bỗng trở nên vô cùng yên ắng.


Tôi
nghe mà chẳng hiểu gì, sao lại trốn với không trốn gì ở đây, đang định mở miệng
hỏi thì ông Từ liền ngồi thẳng người dậy, tay phải nắm lấy cổ tay tôi, nắm rất
chặt. Ông ghé đầu sát lại, mắt nhìn chăm chăm vào tôi, nói cực nhỏ nhưng cũng cực
nhanh:

- Tối
hôm đó, khoảng hơn mười một giờ, sau khi xem hết chương trình truyền hình, ta
đánh răng rửa mặt xong định lên giường đi ngủ thì cậu cháu chạy từ ngoài vào, mặt
trắng bệch rất đáng sợ, như thể gặp ma vậy. Cậu ấy ngồi trước mặt ta, cúi đầu hồi
lâu không nói gì. Mặc cho ta gặng hỏi nhiều lần, cậu ấy cũng không nói, lại còn
kéo ta ra ngoài uống rượu. Ta nói muộn quá rồi, cậu ấy không chịu, nhất định
kéo ta đi, vì vậy… ta đoán… cậu ấy xảy ra chuyện…

Ngón
tay ông bấm chặt cổ tay tôi, bấm rất mạnh, rất mạnh.

Hơn
hai mươi năm trước, cậu cũng dùng lực bấm này để thể hiện nỗi sợ hãi của mình,
còn hôm nay, lực bấm từ ngón tay của ông Từ phút chốc kéo tôi vượt thời gian trờ
về buổi tối hôm đó, cho tôi thấy một cảm giác chân thực đến ngỡ ngàng.

Ông
Từ dần buông lỏng cổ tay toi ra, nghiêng đầu nhìn ra ngoài cửa sổ, trời đã sẩm
tối, ánh mắt ông xa xăm, giọng nói trầm khàn…

Anh
Thạch kéo ông Từ ra khỏi nhà khách quân khu, từ từ băng qua những con phố im
lìm, tĩnh lặng. Đến một quán ăn nhỏ ven đường, cậu gọi vài món xào và một chai
Nhị Oa Đầu. Ông Từ ngồi đối diện với cậu, lòng đầy thắc mắc, Anh Thạch từ trước
đến giờ chưa từng uống ngụm rượu nào, tại sao hôm nay lại phá lệ như thế, xem
ra chắc chắn gặp phải chuyện rắc rối gì rồi, mà chuyện cũng không hề nhỏ.

Khi
đồ ăn và rượu đã được đem ra, Anh Thạch tự rót rượu vào cốc mình, uống ực một
hơi hết sạch, sau đó cậu nghiến răng nghiến lợi, chần chừ hồi lâu, rồi đột
nhiên ghé đầu sang nói nhỏ:

-
Thưa thầy, thầy có biết… có biết không, bọn… bọn họ vẫn còn.

Câu
nói không đầu không cuối, thốt ra bất ngờ hết sức khó hiểu. Ông Từ ngây người,
vội vàng đặt đũa xuống hỏi:

-
Con nói cái gì… ai vẫn còn?

Anh
Thạch như không nghe thấy gì, cứ nhìn chăm chăm ông Từ, ánh mắt hiện lên vẻ hoảng
hốt tột cùng. Đôi mắt cậu khiến ông Từ cảm giác như bị rết bò dọc sống lưng, vừa
lạnh vừa ngứa, vô cùng khó chịu.

Anh
Thạch nhìn chằm chằm vào ông Từ một lúc, môi mấp máy, vừa định mở miệng, chợt
ánh nhìn chuyển hướng qua sau vai ông, nét mặt đột nhiên biến sắc. Cậu há hốc mồm,
yết hầu cứ giật lên giật xuống, phát ra một chuỗi âm thanh ùng ục kỳ lạ, giống
như định thốt lên điều gì.

Ông
Từ thấy lạ liền quay đầu lại nhìn theo hướng ánh mắt của cậu.

Phía
sau lưng ông là cánh cửa sát mặt đường của cửa hàng, có treo một tấm rèm vải
bông màu đen rất dày, trên bức tường ố vàng bên cạnh cửa treo một cái khung
gương to. Mặt gương lồi lõm không đều, không những bám đầy cáu cặn mà còn bị nứt
một đường, bề mặt phủ một lớp hơi nước mỏng khiến cho khuôn mặt của cậu chở nên
biến dạng.


thể do góc nhìn, nên nhìn một lúc lâu ông Từ bỗng sinh ra ảo giác lạ, cứ như thể
Anh Thạch ở trong gương mới là người thật. Hơn nữa đôi mắt của cậu còn nhấp
nháy, dù cho thay đổi góc nhìn nào cũng đều hướng thẳng về phía ông.

Ông
Từ càng nhìn càng cảm thấy rùng mình ớn lạnh, liền quay đầu lại hỏi cậu:

-
Anh Thạch, rốt cuộc con muốn nói gì? Cái gì mà họ vẫn còn, họ rốt cuộc là ai?

Cậu
nuốt ực miếng nước bọt, khoé mép giật giật, miệng há to như muốn nói nhưng rồi
đột nhiên lại lấy hai tay che mặt, cúi đầu xuống, hai vai rung bần bật, khóc nức
nở.

Đêm
đông khuya khoắt giá lạnh, trong quán ăn nhỏ bé tồi tàn, cậu cứ thế khóc rất
lâu, nước mắt giàn giụa, mặc cho ông Từ gặng hỏi kiểu gì cũng không nói.

Sau
đó, cậu lau khô nước mắt, cũng không ăn uống gì, chỉ liên tục uống rượu, thỉnh
thoảng ngẩng đầu lên, hai con mắt đỏ sòng sọc, ngây người nhìn vào chiếc gương
đối diện, vẻ mặt vô cùng ngây dại, miệng thì vẫn không ngừng lẩm bẩm:

- Bọn
họ vẫn còn, bọn họ vẫn còn…

Một
rưỡi sáng, lúc quán ăn đóng cửa thì cậu đã say mềm. Ông Từ gọi xe đưa cậu về
nhà khách, rồi nhờ một nhân viên nhà khách cùng dìu cậu lên phòng, đặt xuống
giường.

Để
cậu ngủ ngon hơn, ông Từ giúp cậu cởi giầy tất quần áo. Lúc đắp chăn, ông vô
tình phát hiện sau chiếc áo may-ô như có hình gì đó mờ mờ.

Nếu
không bởi tính tò mò của ông Từ, thì sự việc sẽ cứ như thế bình lặng trôi qua.
Nhưng lúc đó, ông đã không nén nổi tò mò, đưa tay kéo áo lên, và bất ngờ phát
hiện thấy ở chính giữa lưng cậu có một hình xăm mặt người nho nhỏ.

Đó
là chân dung chính diện của một chàng trai trẻ chỉ to bằng ngón tay, nhưng nét
vẽ hết sức sinh động, tóc đen môi đỏ, ngũ quan rõ ràng, biểu cảm sinh động, vừa
hoảng hốt lại vừa hoang mang, nhất là đôi mắt vô cùng sáng và tinh nhanh, giống
như ánh mắt của người thật đang chăm chú nhìn mình.

Ông
Từ buột miệng kêu lên thảng thốt rồi vội ngồi sụp xuống giường, cúi người xuống
nhìn, nghiên cứu hồi lâu bất chợt ông giật thót mình khi phát hiện hình ảnh ấy
chính là chân dung của cậu.

Sau
phút bàng hoàng ngạc nhiên, ông đưa tay ra chạm vào hình xăm, thấy vùng da nhẵn
bóng ấm áp, không hề có cảm giác sần sùi nào cả, màu sắc ngấm đều vào trong da.

Ông
vuốt vuốt râu, trí tò mò lên đến đỉnh điểm, xem ra đây có lẽ là ảnh mà Anh Thạch
đã nhờ người xăm cho, nhưng sao lại xăm vào sau lưng và chỉ xăm mỗi khuôn mặt
mình bé xíu?

Nghe
thấy tiếng ngáy đều đều của cậu học trò ruột, ông Từ biết chắc không thể hỏi
thêm được điều gì, liền đắp chăn cho cậu, đóng cửa rồi nhẹ nhàng rời khỏi
phòng.

Quay
trở về phòng mình, rửa tay qua loa, ông Từ leo lên giường trằn trọc mãi, cả đêm
không ngủ yên giấc, trong đầu toàn những ý nghĩ kỳ quặc. Cử chỉ của Anh Thạch hết
sức bất thường, rõ ràng là gặp phải chuyện gì đó, nhưng tại sao lại hoảng hốt
thế? Cậu liên tục lẩm bẩm “bọn họ”, vậy “bọn họ” ở đây là ai? Lại còn hình xăm
kỳ lạ nữa, rốt cuộc là chuyện gì đây? Tại sao lại xăm ở sau lưng? Thật không thể
hiểu nổi.

Sáng
hôm sau, khi ông Từ đến nhà ăn sáng thì không nhìn thấy cậu đâu, cảm thấy có
chút bất ổn, ông liền lên phòng tìm. Thấy nhân viên phục vụ đang dọn dẹp, ông hỏi
cô ta thì được biết cậu đã dậy và rời đi từ lúc nào không rõ.

Chín
rưỡi sáng, tổ sáng tác triệu tập cuộc họp thường nhật để báo cáo tiến triển
công việc và nghiên cứu phương án làm việc tiếp theo. Ông Từ vẫn không thấy cậu
đâu, hỏi người phụ trách mới hay sáng sớm Anh Thạch đã xin phép về nhà, nói là
thấy người khó chịu, có lẽ do bệnh loét dạ dày tái phát.

Nửa
tháng sau đó cậu vẫn không hề quay lại tổ sáng tác, cũng chẳng có tin tức gì. Hồi
đó không giống như bây giờ, do không có điện thoại để liên lạc cộng thêm công
việc quá bận rộn, ông Từ cũng không để ý đến chuyện đó nữa.

Nói
đến đây, ông Từ đột nhiên dừng lại, đưa tay cầm lấy cốc trà, mở nắp, gạt những
cánh chè rồi cúi xuống uống.

Trong
phòng vô cùng yên tĩnh, chỉ có tiếng nhấp trà của ông Từ, vọng từng tiếng, từng
tiếng một.

Câu
chuyện của ông Từ không xuất hiện nhân vật khủng bố nào, nhưng không hiểu sao
tôi nghe mà rùng cả mình, vẻ hoảng hốt của cậu hiện rõ trước mắt, giống như
chính tôi được chứng kiến sự việc. Nhất là hình khuôn mặt đó, càng hiện rõ mồn
một, không sao xoá đi được.

Lúc
này, tôi đã hoàn toàn bị hỗn hoặc. Theo như suy đoán trước đây, cậu mãi về sau
mới tìm người xăm hình, mục đích là để ám chỉ nơi cất giấu tấm Long Bản. Nhưng
thật không ngờ, hình xăm đã có từ khi cậu tham gia vào tổ sáng tác tranh, điều
đó chứng tỏ những suy đoán của tôi là sai. Hơn nữa người chiến sĩ trên da người
rõ ràng mặc quân phục, tại sao ông Từ lại chỉ nhìn thấy mối khuôn mặt, chẳng lẽ
cậu đã xăm thành hai lần? Nhưng cậu làm như vậy với mục đích gì chứ?

Đầu
tôi rối như tơ vò, thái dương bắt đầu đau nhức, giống như bên trong có một vật
sắc nhọn muốn xuyên thủng đầu.

Tôi
bê tách trà, uống ừng ực cốc trà đã nguội ngắt từ lâu, hi vọng những suy nghĩ
đang chồng chất trong đầu dần dịu lại.

Năm
1986, năm 1986… Năm đó tôi vừa tròn năm tuổi, bắt đầu biết chuyện rồi, và cũng
còn lưu giữ chút ký ức mơ hồ. Hình như tôi có nghe mẹ nói, từ sau khi cậu tham
gia tổ sáng tác, trong ba năm đó cậu không trở về nhà, vì thế chắc chắn cậu đã
nói dối ông Từ. Tại sao cậu lại nói dối là bị ốm, tự động rời khỏi tổ sáng tác
nửa tháng, rốt cuộc cậu đã đi đâu, có phải là đi tìm “bọn họ” mà cậu luôn mồm
nhắc tới không?

Bao
nhiêu hoài nghi từ đâu cứ cuộn lên trong đầu, chúng tạo thành một mớ hỗn độn lớn,
và tôi ngoài cách xoáy theo một cách bị động thì không còn biết làm gì hơn.

Không
biết từ khi nào bên ngoài bắt đầu đổ tuyết lớn, bầu trời tối sầm lại, căn phòng
cũng trở nên tối và lạnh hơn. Gió bấc gầm rít, quất mạnh vào cửa sổ, đập vào
kính ầm ầm.

Tôi
thở dài một tiếng, rũ bỏ những suy đoán không lối thoát trong đầu, ngẩng lên
nhìn chiếc đồng hồ treo tường, đã bốn rưỡi chiều. Ông Từ vỗ đùi một cái, tự kêu
mình lẩm cẩm rồi đứng lên bật đèn phòng khách, mở điều hoà và gọi bà Từ phòng
trong ra, bảo bà mau xuống bếp nấu cơm, nói là muốn giữ tôi ở lại ăn tối.

Rót
hai tách trà mới, ông Từ bê tách trà lên, cúi xuống uống vài ngụm, nói tiếp: Nửa
tháng sau, cậu lại đột nhiên quay trở lại tổ sáng tác, trông gầy đi thấy rõ, lại
còn đen sạm đi, nhưng tinh thần đã tốt hơn rất nhiều. Khi ông Từ hỏi, cậu nói
là đi chữa bệnh dạ dày, còn về hình xăm mặt người sau lưng thì cậu một mực nói
ông Từ đã hoa mắt nhìn nhầm, thậm chí câu chuyện uống rượu tối hôm đó cũng nhất
quyết không thừa nhận.

Ông
Từ tức giận chỉ thẳng vào mặt cậu, mắng:

-
Anh đừng có nói lung tung, ta vẫn chưa lẩn thẩn đến thế đâu, cũng không đến mức
uống nhiều quá mà nói năng bừa bãi. Đêm đó anh rất lạ, chắc chắn có chuyện gì xảy
ra rồi. Nếu anh vẫn coi ta là thầy giáo thì đừng có giấu ta.

Cậu
bĩu môi, cười sằng sặc, vội xua tay, thanh minh:

-
Thầy ơi, chắc chắn thầy đã nhớ nhầm rồi, con không biết uống rượu, điều này
không phải là thầy cũng biết sao?

Cuối
cùng, hai người mỗi người một ý, chẳng ai chịu ai, khiến cho không khí hết sức
căng thẳng. Cậu liếc mắt nhìn ông Từ, khẽ mỉm cười, rồi nghiêm túc nói:

- Nếu
thầy không tin, con sẽ chứng minh cho thầy xem!

Nói
rồi cậu liền cởi luôn áo trước mặt ông Từ để kiểm chứng. Sau lưng nhẵn thín, chẳng
những không thấy hình mặt người mà đến một vết sẹo cũng chẳng thấy đâu cả.

Nói
đến đây, ông Từ thở dài một tiếng, ngập ngừng nói:

- Tối
hôm đó, rõ ràng ta nhìn thấy, rõ ràng có… có một hình mặt người, giống hệt… Anh
Thạch, nhưng tại sao… tại sao lại không thấy đâu nữa…?

Ông
Từ trầm ngâm một lúc, đôi mày chau lại đầy khó hiểu, vuốt râu liên tục, rồi lại
lắc đầu quầy quậy. Nhìn điệu bộ của ông, có vẻ đến tận hôm nay ông vẫn hoài
nghi về sự việc xảy ra ngày hôm đó.

Tôi
không nói gì, cũng không biết phải nói gì, chỉ ngồi lặng yên, cảm giác đầu óc
không thể dung nạp được những thông tin đột ngột này. Rốt cuộc đúng là ông Từ
già rồi hoa mắt hay là cậu trong thời gian bỏ đi ấy đã tìm người xoá vết xăm?

Tôi
nghĩ kỹ lại. Không đúng! Không đúng! Nếu theo suy đoán trên, chắc chắn sau đó cậu
đã xăm lại, mà lần này xăm cả hình người chiến sĩ. Cứ xăm đi xăm lại như vậy,
chưa cần nói đến chuyện phiền phức nhiễu sự, mà động cơ của việc làm đó là gì
chứ?

Bỗng
nhiên tôi nhớ ra một chuyện, vội lấy máy ảnh trong túi xách ra, tìm bức ảnh người
chiến sĩ bằng da người của cậu, đặt trước mặt ông Từ, khẩn khoản:

-
Ông Từ, ông xem thử xem, có phải là khuôn mặt này không?

Ông
Từ vừa nhìn đã giật thót mình, tay chỉ vào màn hình, run rẩy đáp:

-
Đúng… đúng… chính là khuôn mặt này, cho dù có di chuyển đến góc độ nào thì ánh
mắt vẫn hướng về phía mình, chắc chắn ta nhớ không nhầm… nhưng… nhưng lúc đó hình
ảnh ta nhìn thấy không có thân người.

Nói
đoạn, ông chống ba-toong đứng dậy, vòng ra phía sau ngón tay khẽ chạm vào lưng
tôi, rồi ghé sát vào tai tôi, nói rất nhỏ bằng một giọng điệu lạ lùng:

- Ở
đây, là ở đây, khuôn mặt đó… chính là ở chỗ này…

Hơi
nóng từ miệng ông phả thẳng vào tai tôi, khiến tôi cảm thấy buồn buồn nhưng lại
không dám động đậy. Mặc dù cách một lớp áo dày, nhưng cảm giác sau lưng vẫn rất
rõ ràng, ngón tay ông Từ gõ từng nhát một, lực gõ mỗi lúc một mạnh, vị trí
không hề xê dịch, như muốn khẳng định với tôi, đây chính là vị trí mà cậu đã
lóc da.

Tôi
ngồi thẳng lưng, lắc mạnh đầu, cố tập trung tinh thần phân tích: Xem ra trước mắt
chỉ có một khả năng, đầu tiên đúng là cậu có xăm hình mặt người, nhưng sau đó
đã xoá đi xăm lại toàn thân người chiến sĩ, và khuôn mặt giữ nguyên không đổi,
vẫn là khuôn mặt cậu. Tất nhiên cũng có một khả năng nữa, đó là bên dưới hình mặt
người cậu đã xăm thêm hình vào. Thế nhưng vẫn tồn tại một vấn đề trước đó, tại
sao cậu phải làm thế, điều này quả thực khó hiểu.

Sau
khi quay lại chỗ ngồi, chúng tôi không ai nói gì, không hẹn mà gặp cùng nhìn
vào bức ảnh. “Cậu” cũng đang hoảng hốt nhìn chúng tôi, miệng hơi nhếch lên, như
muốn nói cho chúng tôi biết điều gì đó.

Bên
ngoài gió bấc gào thét, nhưng trong phòng lại vô cùng tĩnh mịch, chỉ có tiếng
xoong nồi va vào nhau ở dưới bếp.

Tôi
nhìn ông Từ, ông cũng nhìn tôi, hai người cứ thế nhìn nhau mười mấy giây, sau
đó cùng lắc đầu cười gượng.

Đột
nhiên, ông Từ à lên một tiếng rồi vỗ mạnh vào thành ghế như chợt nhớ ra đièu gì
đó. Ông nói nhỏ một câu:

-
Đi theo ta! – Rồi đứng lên túm lấy tay tôi, chống gậy ba-toong bước nhanh vào
thư phòng.

Gian
thư phòng diện tích không lớn, chỉ khoảng năm sáu mét vuông, bức tường phía
đông đặt một giá sách gỗ rất lớn, chạm sát trần nhà và gần như che kín bức tường,
trên bốn tầng xếp đầy những cuốn sách đủ loại, nhét chật cứng. Ba bức tường còn
lại treo bức tranh thuỷ mặc. Ông Từ đứng trước giá sách, đưa ba-toong cho tôi rồi
từ từ cúi người xuống đưa tay kéo cánh tủ ở tầng cuối cùng, lấy ra một chồng những
cuốn sách nhỏ và mỏng, sau đó quay người nhẹ nhàng đặt lên bàn làm việc.

Tôi
liếc nhìn, nhận ra đó là những cuốn nhật ký thông thường bọc bìa ni-lông xanh đỏ,
bụi phủ đầy. Các hình hoa lá và hình người đều là những hình ảnh hết sức cũ kỹ
trên bìa sổ của những năm 80 thế kỷ XX. Các trang bên trong đã quăn mép ố vàng,
không biết nó đã có từ bao năm rồi.

Ông
Từ rút ra một cuốn ở dưới cùng, lấy tay áo lau sạch bụi, ngồi trên ghế, tay nhấm
nước bọt, từ từ lật giở từng trang ra xem. Thỉnh thoảng ông dừng lại trầm tư,
đôi mày chau lại, ánh mắt nhìn vô định, giống như đang hồi tưởng lại chuyện cũ
năm xưa.

Tôi
đứng bên cạnh, lặng lẽ ngắm nhìn, không hiểu dụng ý của ông là gì.

Mãi
lâu sau, ông Từ thẳng vai lại, có vẻ như đột ngột rời khỏi cơn trầm tư, vội
vàng đứng dậy đóng cửa, quay lại bàn chỉ vào cuốn nhật ký đó, giọng nhát gừng:

- Mấy
hôm sau, tổ sáng tác được đi khảo sát ở Liên Xô, Anh Thạch và ta ở chung một
phòng, ta… ta đã ghi lại những câu nói mớ của cậu ấy hằng đêm….

-
Nói mớ? Nói mớ gì cơ? – Tôi bắt đầu nghi ngờ, vốn dĩ tưởng là bí mật ghê gớm
nào, sao giờ lại liên quan đến nói mớ, chẳng lẽ trong mơ cậu đã tiết lộ điều gì
đó?


Ánh
mắt ông Từ đột nhiên trở nên sâu thẳm, ông khẽ gật đầu, đẩy cuốn nhật ký vào
tay tôi, nói:

-
Đây là toàn bộ lời nói mớ của Anh Thạch mấy tối đó, ta không dám để lọt một từ
nào, cháu xem cẩn thận nhé.

Tôi
cầm cuốn nhật lý, thấy ngoài bìa hơi nước đang dần bốc hơi, đó chính là mồ hôi
tay của ông Từ. Họng tôi khô khốc, vội nuốt khan miếng nước bọt, một cảm giác hồi
hộp chưa từng có, như thể chỉ cần mở cuốn nhật ký ra thì sẽ tìm ra lời giải đáp
cho mọi thắc mắc đang chất chứa trong lòng.

Tôi
cố định thần lại, mở cuốn nhật ký ra theo chỉ dẫn của ông Từ rồi vội lật giở
qua những trang đầu, bởi vì những trang đó đều là những ghi chép bình thường,
không theo lô-gic trật tự, tôi cứ thế lật thẳng đến trang ghi chép ngày đến
Liên Xô.

Theo
yêu cầu của Tổng bộ Chính trị quân Giải phóng, tổ sáng tác năm đó đã đến hai
thành phố của Liên Xô cũ là Matxcova và Volgograd khảo sát một tháng, phần nhật
ký vừa tròn ba mươi bài, trong đó có hơn mười ba bài ghi lại những lời nói mớ của
cậu.

Nhật
ký được ghi bằng loại bút mực màu xanh đậm, lâu ngày đã bị phai màu, nét chữ
thì cẩu thả, thậm chí còn lên xuống rất khó đọc. Ông Từ nói nhỏ với tôi, do viết
vào ban đêm nên chữ có hơi khó đọc. Nghe đến việc ông nửa đêm khuya khoắt còn
viết nhật ký, tôi ý thức được rằng những nội dung được ghi trong nhật ký chắc
chắn không phải nội dung bình thường, hai tay chợt run lên, khiến cuốn nhật ký
cũng rung lên bần bật. Tôi hít sâu một hơi, cố bình tĩnh lại, tập trung vào đọc.

Những
chữ viết trong cuốn sổ rời rạc lộn xộn, không theo một lô-gic nào cả, cả trang
toàn là “bọn họ vẫn còn…”, “bọn họ đang nhìn…”, “bọn họ sao lại” v.v…
chỉ có chủ ngữ, không có vị ngữ, không biết rốt cuộc cậu định nói gì.

Đọc
tiếp, tôi chợt phát hiện thấy trong mỗi trang nhật ký đều xuất hiện một từ
“vàng”.

Trong
cuốn nhật ký của hơn hai mươi năm trước, đều là những câu chữ khó hiểu, nếu đó
là lời trong cơn mơ của cậu thì tại sao lại xuất hiện nhiều từ “vàng” đến thế?
Tôi thống kê sơ lược, trong mười ba bài nhật ký xuất hiện tới bốn mươi hai từ
“vàng”, phải chăng đây chính là điều kỳ lạ trong cuốn nhật ký?

Nghe
tôi hỏi, ông Từ mắt sáng lên, gật đầu tán thành rồi khẽ nói với tôi, lúc đó ông
cũng tưởng mình nghe nhầm nên đã lắng nghe cẩn thận, nhưng đúng là “vàng” thật.
Hơn nữa liên tục trong mười ba đêm, chắc chắn không thể nghe nhầm được. Mà mỗi
lần nhắc đến từ này, giọng cậu bỗng trở nên the thé chói tai, toàn thân run bần
bật, thậm chí còn khóc lóc nghẹn ngào giống như gặp phải chuyện gì đáng sợ. Thế
nhưng…

Nói
đến đây, ông Từ đột nhiên dừng lại, môi khẽ mấp máy, bàn tay ông nắm rồi thả thả
rồi nắm, cứ lặp đi lặp lại rất nhiều lần, đốt ngón tay kêu răng rắc, hơi thở
cũng gấp gáp hơn.

-
Thế nhưng làm sao ạ? – Thấy thái độ khác thường của ông Từ, tim tôi thót lại, vội
hỏi một câu.

Ông
Từ ngập ngừng một lúc, ngón tay lật giở lại những trang nhật ký, đến bài số mười
ba, ông di chuyển ngón tay xuống đoạn cuối:

-
Thế nhưng ở đây cậu cháu lại nói những câu tương đối hoàn chỉnh.

Tôi
vội cúi xuống nhìn, quả nhiên, đoạn kết của bài nhật ký viết rõ ràng: “Bọn
họ nhất định sẽ đi ra, nhất định sẽ đi ra…”

Tôi
chau mày:

-
Ông Từ, câu nói này có nghĩa gì, cái gì sẽ đi ra?

Ông
Từ lắc đầu nói:

-
Không biết, đây là lần cuối cùng ta nghe Anh Thạch nói mơ, sau đó không nghe thấy
thêm lần nào nữa.

Đi
ra, bọn họ sẽ từ đâu đi ra? Trong đầu tôi đặt ra một câu hỏi như vậy!

Đọc
xong mười ba bài nhật ký thì cũng gần một tiếng đồng hồ trôi qua, mùi thơm hấp
dẫn của thức ăn lọt qua khe cửa gọi mời. Tôi chậm rãi gấp cuốn nhật lý lại, mãi
lâu không nói được lời nào, đầu óc quay cuồng.

Một
vài câu nói của cậu trong mơ khiến tôi nghĩ ra điều gì đó. Kết hợp với những điều
tra ban đầu, có thể trong thời gian cậu đi khảo sát ở Cẩm Châu đã phát hiện ra
một bí mật nào đó trong Cổ Tháp hoặc trong chùa Đại Quảng Tế, và nó có liên
quan đến vàng. “Bọn họ” được nhắc đến ở đây, có thể là một số người biết chuyện
khác. Nhưng tại sao lại là “Bọn họ nhất định sẽ đi ra”, điều này thì thật khó phán
đoán, lẽ nào những người đó vẫn ở trong Cổ Tháp?

Nghĩ
vậy, tôi chợt thấy lạnh toát sống lưng, toàn thân run bắn, bên trong toà tháp cổ
nghìn năm chẳng lẽ có giam giữ một số người?

Không
thể nào! Tôi véo mạnh một cái vào đùi, cố ngăn ý nghĩ quái dị đó. Nhưng đồng thời,
tôi lại cảm thấy rất khó hiểu, cậu từ đầu đến cuối không hề đề cập đến tấm Long
Bản và hình xăm, tại sao lại thế?

Tạm
thời gạt bỏ những ý nghĩ hoang đường đó, tôi lại hỏi ông Từ, năm đó những hoạ
sĩ Thẩm Dương tham gia tổ sáng tác tranh panorama còn có những ai?

Ông
vuốt vuốt râu, hai mắt sáng lên nhìn lên trần nhà suy nghĩ một lát, rồi chậm
rãi kể cho tôi, gồm cả ông thì có tất cả mười bốn người, đều là cựu giáo sư Học
viện Mỹ thuật Lỗ Tấn. Thế nhưng hơn hai mươi năm trôi qua, đa số đều đã mất, chỉ
còn có hai người ra nước ngoài đã mất liên lạc từ lâu, chắc cũng đã sớm ra đi rồi.
Bản thân ông có thể sống đến ngày hôm nay cũng coi như được trời thương.

Nghe
ông nói vậy, tôi tiêu tan hết hi vọng, trong lòng nặng trĩu, xem ra manh mối
này coi như đứt đoạn.

Ăn
tối tại nhà ông Từ xong, tôi và ông còn trò chuyện rất lâu, nhưng vẫn không ra
được manh mối nào có giá trị. Thấy ông cụ dáng vẻ mệt mỏi, có vẻ không tiếp tục
cuộc nói chuyện được nữa, tôi dặn ông giữ gìn sức khoẻ rồi cáo từ ra về.