Thiên Văn

Chương 6: Hồng mộc nghìn năm tuổi

Tiểu
Đường đưa tay phải ra, ngón tay thon dài trắng nõn, gạt nhanh giữa rừng kim giống
như đánh đàn piano, thoáng chốc trên ngón tay đã xuất hiện cây kim dài chưa đến
ba cen-ti-mét. Động tác dù không quá nhanh, nhưng tôi vẫn không thể nhìn rõ
cách làm cụ thể của cô gái.

Tiểu
Đường khéo léo giữ chân kim, nhúng vào lọ sứ màu lục ngoáy tròn, khi rút cây
kim ra, đầu kim đã chuyển màu xanh lam đậm sáng bóng.

Sáng
sớm hôm sau, sau khi ăn sáng qua loa, tôi nhét tấm gỗ vào túi xách rồi đi ra khỏi
nhà.

Vừa
rời khỏi khu chung cư được vài bước, tôi bỗng thấy lợm giọng buồn nôn, liền ngồi
sụp xuống bên cạnh bồn hoa ven đường và nôn thốc nôn tháo. Gần đây triệu chứng ốm
nghén ngày càng xuất hiện rõ rệt, xem ra cần sớm đi giải quyết cái thai.

Tôi
cố kìm những đợt ợ chua đang cuộn lên trong dạ dày, bắt xe đến bệnh viện phụ sản
thành phố, nhờ người quen tiến hành làm xét nghiệm chọc dò ối, kết quả xét nghiệm
cho thấy cái thai trong bụng là con trai.

Cầm
tờ kết quả xét nghiệm trên tay, tim tôi đập loạn xạ, vừa buồn chán vừa đau khổ,
tôi hỏi dò bác sĩ xem bao lâu thì uống được thuốc sổ thai. Bác sĩ vốn là chị
dâu của cô bạn thân thời trung học của tôi, chị ta nhìn tôi dò xét hồi lâu mới
ngập ngừng cho biết, trong ba tháng đầu có thể dùng thuốc, chỉ có điều rất nguy
hiểm, sức khoẻ rất khó hồi phục, còn có khả năng dẫn đến vô sinh vĩnh viễn. Chị
còn hỏi tôi thai nhi rõ ràng là con trai, sao lại muốn bỏ, tôi bây giờ đã ba
mươi, đã thuộc trường hợp sản phụ cao tuổi, nếu không may bị vô sinh thì chữa
trị sẽ không kịp nữa.

Tôi
ngây người, mãi lâu sau mới gật đầu, nói rằng tiện muốn hỏi cho biết, sau đó cảm
ơn bác sĩ rồi chầm chậm rời khỏi bệnh viện.

Bên
ngoài mặt trời gay gắt chiếu thẳng vào đầu vào mặt khiến tôi choáng váng, mắt
mũi hoa lên. Tôi bước chậm rãi, sắc mặt vẫn thản nhiên như không, nhưng trong
lòng thì đang dày vò ghê gớm. Tôi nắm chặt tay, gào lên không thành tiếng: Viễn
Chinh, em xin lỗi! Con trai, mẹ xin lỗi…

Việc
làm tiếp theo quả là vô cùng đau khổ, tôi thực sự không muốn nhớ lại. Qua bạn
bè, tôi âm thầm mua thuốc sổ thai để từ bỏ đứa con trai mà tôi chưa thấy mặt,
cũng chính vì thế tôi đã phải chịu nỗi đau mà người khác thật khó có thể hình
dung, và rồi cam chịu cả đời mất đi khả năng làm mẹ. Tôi chỉ nhớ rằng, giây
phút nuốt thứ thuốc đó vào bụng, nước mắt tôi đầm đìa, tim như bị hàng ngàn
hàng vạn mũi kim châm. Con yêu của tôi, con yêu của tôi…

Sau
đó, tôi cắn răng chịu đựng những phản ứng do thuốc sổ gây ra, hàng ngày vẫn xuất
hiện bình thường trước mặt người thân bạn bè, cố không tỏ ra điều gì bất thường,
nhưng trong bụng thì ngày đêm nhẩm tính ngày tính tháng, mỗi ngày lại phải quấn
thêm một lượt khăn quanh bụng, còn phải cố làm ra dáng của bà bầu.

Rất
đơn giản, tôi cần tận dụng cơ hội là một bà bầu để làm tê liệt những đôi mắt vô
hình kia. Tranh thủ thời gian khẩn trương kết thúc mọi hành động tại Cẩm Châu.
Ngày tháng cứ thế trôi qua lặng lẽ như dòng nước, bụng tôi cũng càng ngày càng
“to”. Mặc dù tôi hiểu rõ, mọi lúc mọi nơi đều bị giám sát, nhưng tôi cảm nhận
được rõ rệt những đôi mắt đó đã không dính chặt theo nữa, có thể chúng nghĩ rằng
tôi đã từ bỏ hoàn toàn ý định điều tra, chuyên tâm làm một bà mẹ đợi ngày sinh.

Thầy
liệm trang Mã Trấn Quốc vẫn không rõ sống chết ra sao, vụ sát hại La Viễn Chinh
và Phùng Siêu vẫn chẳng có tiến triển gì; tay tài xế xe bán tải, tài xế xe
Accord và gã lùn vẫn như bốc hơi khỏi trần gian… Có thể nói là hết cách.

Lâu
dần, tôi bắt đầu sinh nghi. Tôi không tin phía cảnh sát lại vô dụng như vậy,
tình tiết vụ án sờ sờ trước mắt, tại sao lâu như vậy vẫn chưa điều tra ra manh
mối gì. Nhưng nghĩ lại, có lẽ Mã Vân Vĩ cố ý giấu giếm vì không muốn tôi tiếp tục
mạo hiểm nữa.

Từ
bỏ hết hi vọng nơi cảnh sát, tôi bắt đầu tự lên kế hoạch hành động. Bức tranh
sao chép đó được vẽ sau khi hoàn thành bức tranh panorama vào tháng Mười năm
1989, vậy tấm gỗ hồng mộc chắc chắn phải có trước thời gian này. Và việc cậu lấy
sáng tác tranh làm ám hiệu, chứng tỏ ý tưởng đó được nảy sinh trong thời gian
tham gia sáng tác bức tranh panorama.

Để
khẳng định giả thiết này, tôi vùi đầu vào thư viện thành phố, tìm đọc một loạt
những tài liệu lịch sử liên quan đến bức tranh panorama Cẩm Châu, lấy máy ảnh
chụp lại, rồi lại lên mạng tìm tài liệu liên quan, in ra từng trang một.

Tài
liệu nhiều vô kể, tôi kiên trì bỏ ra ba ngày sắp xếp tổng hợp tài liệu, tìm ra
những thứ thực sự giúp ích cho tôi. Bức tranh panorama Cuộc tiến công Cẩm
Châu trong nhà tưởng niệm chiến dịch Liêu Thẩm được sáng tác sau khi
nhận được sự phê chuẩn của Tổng cục Chính trị Quân uỷ Trung ương, đơn vị thực
hiện là Quân khu Thẩm Dương và chính quyền thành phố Cẩm Châu. Đây được coi là
nhiệm vụ chính trị đặc biệt quan trọng, mục đích là tái hiện hình ảnh chiến
tranh khốc kiệt hồi đó, kết hợp hoàn hảo tính chân thực và tính nghệ thuật.
Quân khu Thẩm Dương đã mời rất nhiều hoạ sĩ, học giả nổi tiếng của Học viện Mỹ
thuật Trung ương, Học viện Nghệ thuật Giải phóng quân và Học viện Mỹ thuật Lỗ Tấn
Thẩm Dương cùng hoạ sĩ Tôn Anh Thạch của Cẩm Châu lập thành tổ sáng tác, ngoài
ra họ còn mời đến không ít những lãnh đạo, chiến sĩ đã từng tham gia chiến dịch
Liêu Thẩm làm cố vấn lịch sử.

Tổ
sáng tác làm việc theo nguyên tắc khách quan cẩn trọng, đã nhiều lần tiến hành
điều tra thực địa khắp thành phố Cẩm Châu. Quân khu Thẩm Dương còn cử hai máy
bay chuyên dụng đưa các hoạ sĩ bay vòng quanh Cẩm Châu ở tầm thấp quan sát nhiều
lần, chụp lại rất nhiều ảnh và ghi hình tư liệu. Sau đó, tổ sáng tác còn đến
hai thành phó của Liên Xô là Matxcova và Volgograd, khảo sát tỉ mỉ về hội hoạ,
kiến trúc của phòng tranh panorama, cố gắng để bức tranh đạt đến trình độ hoàn
hảo.

Về
quá trình sáng tác cụ thể thì qua rất nhiều công đoạn vô cùng phức tạp, đầu
tiên là vẽ phác thảo và phủ màu thủ công hàng vạn mảnh tranh; sau đó khi được Tổng
cục Chính trị thẩm duyệt đồng ý mới bắt đầu sáng tác chính thức. Trong thời
gian sáng tác, còn phải sửa lại nhiều lần, hao tốn tâm huyết biết bao người,
huy động biết bao nhân lực vật lực, sau ba năm trời mới hoàn thành bức tranh.

Bức
tranh có tổng chiều dài 122,22 mét, cao 16,1 mét, treo quanh vòm tường phòng
tranh, tổng diện tích lên đến 1968 mét vuông, trọng lượng 4 tấn. Giữa bức tranh
và đài quan sát còn đặt những mô hình về địa hình, công việc, vũ khí… được thu
nhỏ theo tỉ lệ nhất định; đồng thời còn phối hợp với các loại âm thanh, ánh
sáng tiên tiến đem đến cho người xem cảm giác như được nhìn tận mắt. Theo thống
kê, hiện nay trên thế giới mới chỉ có bốn mươi tám bức tranh panorama, tranh cỡ
lớn thì càng hiếm. Bức tranh panorama Cuộc tiến công Cẩm Châu có
thể coi là bức tranh số một không chỉ ở Trung Quốc mà còn trên thế giới.

Sau
khi nắm được những tài liệu này, tôi phân tích thêm những giả thiết trước đó:
Giả sử tên hung thủ giấu mặt đúng là đến từ Thẩm Dương, vậy chắc chắn hắn phải
là người biết rõ tình hình năm đó, rất có thể là một hoặc một số người nào đó
trong nội bộ tổ sáng tác, hơn nữa thế lực cũng phải rất mạnh, tổ chức chặt chẽ,
nếu không chúng không thể thực hiện vụ án lớn đến vậy.


Cậu
tôi là một thành viên trong tổ sáng tác, đã từng tham gia thực địa ở Cẩm Châu
và đi khảo sát tại Liên Xô, nguồn gốc tấm gỗ hồng mộc chắc chỉ từ một trong hai
nơi này. Thế nhưng, khả năng được lấy từ Liên Xô gần như bằng không, bởi vì
Liên Xô không thể tạo ra một vật mang thần vận phương Đông như vậy. Nhất là
hình chạm rồng, theo như quan sát và khảo chứng của tôi, đó chính là loại rồng
vàng ba ngón bốn vuốt đặc trưng của Trung Quốc, rất thịnh vào thời Tống, Liêu,
Kim, Nguyên. Liên tưởng đến việc chùa Đại Quảng Tế được khởi công xây dựng vào
đời Liêu, nơi cậu đặt người chiến sĩ ở vị trí tương ứng trong bức tranh, tôi
dám khẳng định rằng, cậu đã có được tấm gỗ hồng mộc nhờ một cơ duyên nào đó khi
đang khảo sát tại đây.

Tổng
hợp hai điểm trên, tôi có thể đưa ra kết luận sơ bộ như thế này: Cậu và một số
người nào đó trong tổ sáng tác đã có được tấm gỗ trong chùa Đại Quảng Tế hoặc
trong Cổ Tháp. Không ai biết họ đã phát hiện ra bí mật gì trong đó, chỉ biết họ
đã không hề báo cáo lên cấp trên mà âm thầm cất giấu. Theo lô-gic thông thường,
trong tay những người kia chắc cũng phải có một thứ tương tự, hơn nữa đôi bên
đã có thề ước nào đó nên tất cả đều giấu kín trong lòng, chưa bao giờ tiết lộ
ra bên ngoài.


thể đó là bí mật động trời mà cậu đã luôn cất giấu trong lòng, vì thế đầu tiên
là giấu tấm gỗ vào trong vách tường nhà, sau đó để lại manh mối ở hai bức tranh
lớn nhỏ, trước khi ra đi, trong lòng cậu vô cùng mâu thuẫn nên đã yêu cầu người
nhà đốt hết tất cả. Lúc này, lời thề năm đó đã mất hiệu lực, đàm người kia chắc
do nóng lòng muốn có được tấm gỗ hồng mộc trong tay cậu nên đã ra tay bằng mọi
giá.

Sau
khi đưa ra kết luận, tôi tiến hành chứng minh bằng các luận chứng, và thấy rằng
đây là kết luận duy nhất hợp lý có được sau hàng loạt điều tra từ những dấu vết
sót lại. Vậy tiếp theo tôi sẽ có hai lựa chọn: Một là tìm đến các hoạ sĩ cũng
tham gia sáng tác tranh hồi đó để làm rõ chân tướng, tìm ra hung thủ; hai là đi
dò la những nghệ nhân dân gian nhờ họ giải mã giúp bí ẩn giấu trong tấm gỗ hồng
mộc.

Nghĩ
vậy, tôi nghĩ thầm, chịu đựng bao ngày, xem ra đã đến lúc rời khỏi Cẩm Châu rồi.

Thời
điểm đó đã gần cuối năm, thời tiết ngày một lạnh nên phải mặc nhiều áo đơn hơn,
cơ thể trông nặng nề đồ sộ, có chút ra dáng bà bầu. Nghĩ đến thiên thời địa lợi
nhân hoà, thời cơ đã chín muồi, tôi định sẵn ngày rời đi là vào dịp tết Nguyên
đán, để đám người kia trở tay không kịp. Tôi không tin bọn chúng không muốn
đoàn tụ với gia đình.

Buổi
tối trước hôm lên đường, tôi bắt chiếc xe taxi đến bệnh viện quân đội 205 thăm
mẹ.

Ba
ngày trước mẹ tôi mới làm phẫu thuật mổ hộp sọ, lấy ra một lượng máu đông cực lớn
trong não, hiện tại vẫn chưa ổn định, vẫn đang trong trạng thái hôn mê sâu. Tôi
ngồi chếch bên giường, nắm đôi tay lạnh ngắt, nhìn thẳng vào khuôn mặt trắng bệch
của mẹ, vừa đau lòng vừa lo lắng. Cứ nghĩ đến ngày mai sẽ lên đường đi xa, con
đường phía trước nguy hiểm khó lường, nước mắt tôi cứ thế trào ra không ngăn nổi.

Bố
tôi kéo ghế ra ngồi sát bên tôi, liên tục thở dài. Bởi mãi chẳng có thông tin
gì sáng sủa, bố ngày càng tiều tụy, lưng còng đi trông thấy, chỉ mấy ngày không
gặp như già đi mấy chục tuổi.

Nói
chuyện với bố vài câu, tôi đưa cho ông cái tấm thẻ ngân hàng trong đó có số dư
tiền bán nhà cậu, ấp a ấp úng nói:

- Bố!
Mẹ bệnh nặng, bố không thể rời mẹ lúc này được. Con đã liên hệ với một người bạn
ở tỉnh ngoài, định đến đó sinh con, nhân tiện cũng muốn thư giãn một chút.

Nghe
tôi nói vậy, bố ngẩng đầu lên, ngạc nhiên nhìn tôi và nói:

-
Vi Vi, con… con… thế… thế làm sao được?

Tôi
không dám nói thêm điều gì, cố gượng cười, gật mạnh đầu thể hiện quyết tâm của
bản thân.

Bố
nhìn tôi hồi lâu, trong mắt tràn đầy vẻ đau khổ. Ông khẽ thở dài, nhận lấy tấm
thẻ ngân hàng, nhét vào trong túi áo ngực. Một lát sau, ông đột nhiên kéo tay
tôi nói:

-
Thôi được, Vi Vi, nếu con đã quyết định như vậy, bố cũng không ngăn cản, nhưng…
con nhất định phải chăm sóc tốt bản thân, tuyệt đối đừng làm điều gì dại dột.

Người
ta nói bố vẫn luôn hiểu con gái, bố tôi quả nhiên đoán được ý đồ của tôi, câu
nói đó của ông càng khiến tôi thấy thêm tội lỗi, nếu không phải do phút bốc đồng
thiếu suy nghĩ của tôi thì đâu đến nỗi rơi vào cảnh nhà tan cửa nát hôm nay.
Càng nghĩ tôi càng thấy đau buồn, không thể kìm nén được lòng mình, tôi ôm chặt
lấy bố khóc tức tưởi.

Bố
vỗ nhẹ lưng dịu dàng an ủi tôi. Đợi khi tôi nín khóc, bố khẽ đẩy tôi ra, lấy từ
trong túi áo ngực ra một chiếc đồng hồ, nhét vào trong tay tôi và nói:

-
Cái này cho con.

Mặt
đồng hồ làm bằng thép trắng, dây đeo bằng da màu nâu, kiểu dáng đã cũ, vỏ ngoài
chằng chịt vết xước,mặt kính còn bị nứt một đường, kim cũng ngừng quay; nhìn có
vẻ quen quen nhưng nhất thời không nhớ ra được đã nhìn thấy nó ở đâu.

Bố
thở dài, trầm lạng nói tiếp:

- Cậu
con suốt thời gian đổ bệnh có tỉnh táo lại một lúc, đưa chiếc đồng hồ Enicar
này cho mẹ con, còn dặn đi dặn lại nhất định phải để cho con. Sau đó bố nghe mẹ
con nói, chiếc đồng hồ này do một vị thủ trưởng cũ trong quân đội tặng cho cậu
năm cậu tham gia sáng tác bức tranh panorama, là loại đồng hồ Enicar Thuỵ Sĩ rất
phổ biến thời đó. Con hãy nhận lấy, đừng phụ lòng kỳ vọng của cậu.

Tôi
chợt thấy nhói lòng, hoá ra cậu vẫn luôn nhớ đến tôi. Tôi liền tháo chiếc
Longines ra cẩn thận đeo chiếc Enicar vào tay, nghẹn ngào nói:

- Bố,
con biết rồi, bố yên tâm đi.

Bố
mỉm cười, nhìn tôi âu yếm, mãi lâu sau mới lên tiếng:

-
Con đi đi, đừng lo nghĩ đến mẹ con, ở nhà đã có bố. Một mình con ở ngoài, phải
hết sức cẩn thận, chăm sóc tốt cho bản thân con nhé!

Tôi
lau nước mắt, gật đầu lia lịa, chào tạm biệt bố, rồi vừa bước đi vừa ngoái đầu
lại cho đến lúc ra khỏi phòng bệnh.

Quay
trở về nhà, tôi đặt báo thức trong điện thoại, cắm dây sạc pin, rồi chẳng buồn
thay quần áo lao luôn lên giường, nắm chặt chiếc đồng hồ trên tay, nước mắt ướt
nhoà, nhìn lên trần nhà khóc không thành tiếng.

Cả
đêm đó tôi mất ngủ, trong đầu rối như mớ bòng bong, cũng chẳng hiểu mình nghĩ
gì, mãi đến khi trời tảng sáng, không chống cự lại được cơn buồn ngủ, tôi mới
mơ màng chợp mắt được nửa tiếng.

Buổi
sáng, tôi lục lấy chiếc áo jacket ngắn bằng da màu đen mà bình thường ít khi mặc,
bọc gọn tấm gỗ hồng mộc, nhét vào giữa đống vải quấn bụng, đem theo toàn bộ giấy
tờ tuỳ thân và tiền bạc, bắt taxi đến bệnh viện phụ sản thành phố.

Khi
đẩy cánh cửa lớn ở sảnh bệnh viện, nhờ hình ảnh phản chiếu trong tấm kính, tôi
nhìn thấy rất rõ trong sân có hai người đàn ông mặc áo bông màu xám đang vờ hút
thuốc, mắt không ngừng liếc theo tôi.

Tôi
hắng giọng lạnh lùng, thầm nói bye bye rồi nặng nề bước vào sảnh lớn, xếp hàng
lấy số, sau đó hai tay chống hông, từ từ bước vào nhà vệ sinh nữ tầng hai. Cho
dù chúng có gan to cỡ nào thì cũng không dám theo vào đến tận nhà vệ sinh nữ.

Tôi
vào một phòng, chốt cửa lại, áp tai vào cửa lắng nghe đọng tĩnh bên ngoài.
Trong nhà vệ sinh im phăng phắc, chỉ có tiếng nước nhỏ tách tách từ bồn nước bị
rò trên đầu. Khi xác định chắc chắn không có ai, tôi thở phào vội vàng cởi cúc
áo, tháo những thứ buộc quấn quanh bụng ra, rồi chẳng quan tâm đến sạch bẩn,
tôi vạch đám giấy trong thùng rác ra nhét hết vào, sau đó khoác chiếc áo jacket
da, cài tấm gỗ vào sau lưng.

Tôi
rút điện thoại ra nhìn đồng hồ, 9 giờ rưỡi, vừa kịp lúc. Tôi chuyển điện thoại
sang chế độ yên lặng, bỏ vào chiếc túi ni lông, buộc chặt miệng túi, mở nắp bồn
nước rồi từ từ xối nước dìm xuống. Tối qua tôi đã sạc đầy pin, ít nhất có thể đủ
dùng trong năm sáu ngày tới, đến khi cảnh sát phát hiện ra tôi bỏ trốn, muốn định
vị bằng sóng điện thoại thì cứ tha hồ đến bệnh viện mà tìm.

Thấy
mọi việc đã sắp xếp ổn thoả, tôi lấy tay vỗ vỗ ngực để giữ bình tĩnh, bước ra
khỏi phòng vệ sinh, mở cửa sổ, gác chân nhảy lên bệ cửa, lách người trèo ra
ngoài, ôm lấy ống thoát nước dọc trên tường, từ từ tụt xuống bãi đỗ xe phía sau
toà nhà.

Liên
tục mấy tháng trời ngụy trang và quan sát cẩn thận đã giúp tôi nhận ra những kẻ
theo dõi đã buông lỏng hơn nhiều, không những giảm số người theo dõi mà chúng
còn không nghĩ đến việc phái sẵn người theo dõi phía sau bệnh viện.

Tôi
đứng yên tại chỗ, nhìn ngó xung quanh, nhận thấy không có gì bất thường, liền
chầm chậm rời khỏi bãi đỗ xe trước con mắt ngơ ngác của mấy người lấy xe, sau
đó chui vào một chiếc taxi đang chờ khách ven đường, đi thẳng đến nhà ga.

Trước
đó, tôi đã lên mạng tra lịch trình chạy tàu, biết sắp có chuyến tàu K7341 chạy
từ ga Sơn Hải Quan, đi qua Cẩm Châu đến Thẩm Dương. Sở dĩ tôi không lựa chọn bỏ
trốn bằng ô-tô là do ô-tô đông người, nếu tôi vẫn bị bám theo, thậm chí có thể
xảy ra ẩu đả thì sẽ không tiện thoát thân.

Từ
trên taxi bước xuống, chiếc đồng hồ lớn trên nóc toà nhà chính ở nhà ga vừa chỉ
đúng 10 giờ 15 phút, loa phát thanh đang phát thông báo, nhắc nhở hành khách đi
chuyến tàu K7341 bắt đầu vào ga soát vé, đoàn tàu cách giờ khởi hành chưa đến
mười phút.

Tôi
băng qua đường, xong vào sảnh bán vé, mua một vé rồi vội vàng chạy vào phòng chờ
tàu, hoà lẫn giữa đám đông hành khách, cố giữ bình tĩnh, chầm chậm bước vào sân
ga, leo lên tàu.

Ít
phút sau, tiếng còi tàu hú vang, đoàn tàu rung mình lắc mạnh một cái rồi từ từ
chuyển bánh. Trong lòng tôi dâng lên cảm giác xót xa, nhớ đến bố mẹ, nhớ đến cậu,
nhớ đến La Viễn Chinh và Phùng Siêu, chẳng biết bao giờ tôi mới được về nhà, thậm
chí còn có thể về nhà được nữa hay không.

Tôi
thở dài lắc đầu, nhìn ra ngoài cửa sổ, từng giọt nước mắt lăn dài trên gò má.

Đoàn
tàu lao nhanh khỏi sân ga, những tia nắng chiếu qua cửa sổ rọi thẳng vào mặt
tôi, tuy ấm áp nhưng có cảm giác chói mắt. Tôi nheo mắt lại, nhìn thành phố Cẩm
Châu mỗi lúc một xa, mờ dần trong những giọt nước mắt, nỗi đau dâng lên trong
lòng.

Do
tâm trạng vô cùng buồn chán, tôi chỉ ngồi khoanh tay dựa lưng vào thân tàu, nhắm
mắt tĩnh tâm. Dưới chân là tiếng bánh xe va vào đường sắt tạo ra nhịp lắc đều đều,
bên tai là tiếng người ầm ĩ trong toa tàu, tôi cảm thấy trong đầu như có cây
lim đâm vào từng dây thần kinh đau nhói. Sau hơn hai tiếng đòng hồ, đoàn tàu chạy
chậm dần, cuối cùng tiến vào sân ga Thẩm Dương. Nghe theo thông báo, tôi mới bừng
tỉnh, vội xuống tàu, theo dòng người đông đúc ra khỏi sân ga.

Đứng
một mình giữa quảng trường nhà ga Thẩm Dương, từng đoàn hành khách vội vã lướt
qua tôi. Nhìn khung cảnh lạ lẫm xung quanh, tôi cắn chặt răng, nhủ thầm trong bụng:
Ta đã đến, ta nhất định sẽ tìm ra các người! Sau đó, tôi gọi chiếc taxi đi thẳng
đến chợ điện tử trên phố Tam Hảo khu Hoà Bình, mua một chiếc điện thoại mới và
một thẻ sim Thần Châu trả trước.

Thẩm
Dương là thành phố trực thuộc tỉnh, phồn hoa hơn Cẩm Châu rất nhiều, khắp nơi đều
thấy những toà nhà chọc trời, trên đường xe cộ nườm nượp, người người đi lại
như mắc cửi. Ở đây tôi không thông thuộc địa hình, đường phố cũng không nhớ
tên, nếu đơn độc chiến đấu chắc chắn sẽ thua thiệt, cần phải tìm một người dân
bản địa hướng dẫn, hỗ trợ mới được. Tôi có một vài bạn học hồi còn ở trường cảnh
sát, quan hệ cũng rất tốt, nhưng lúc này tôi đang chịu án, lại đang bỏ trốn,
sao dám đi tìm ai chứ?

Tôi
ngồi trên ghế đá ven đường, sàng lọc trong đầu từng người quen. Chợt tôi nhớ đến
một người, nếu không có gì bất trắc thì đây chắc chắn là lựa chọn tốt nhất.

Tôi
hào hứng rút điện thoại ra, thử gọi cho cô bạn học Tang Giai Tuệ, cũng là người
bạn tốt nhất của tôi trên đời này, hiện đang công tác tại tổng đội trinh sát
hình sự Sở Công an tỉnh.

Thật đen đủi, điện thoại của Tang Giai Tuệ lại tắt máy. Tôi thấy thất vọng,
bởi lẽ trong nghề cảnh sát hình sự của chúng tôi, sợ nhất là khi xảy ra
án mà không liên lạc được, vì thế đã có một quy ước ngầm đó là phải mở
máy 24/24 giờ. Nếu không có chuyện gì đặc biệt thì nhất thiết không được tắt máy, để đề phòng máy hết pin, bình thường còn phải đem theo pin dự
phòng nữa.

Tôi suy nghĩ hồi lâu, vẫn không can tâm chịu thua, lại gọi tiếp cho
tổng đội trinh sát hình sự, nói dối là người nhà của Tang Giai Tuệ, bảo ở nhà có việc gấp nhưng không liên hệ được với cô ấy. Người nhận điện
thoại thông báo cho tôi biết mấy ngày trước Tang Giai Tuệ đã đi ngoại
tỉnh phá án, hiện vẫn chưa về, hẹn tôi hôm khác gọi lại.

Cúp điện thoại xong, tôi thở dài thườn thượt, thầm trách phận đen đủi, tình hình này thì đành dựa vào chính mình thôi.

Tôi đứng dậy, quay đầu nhìn quanh tứ phía, trên đường dòng người đi
lại nườm nượp, tuy không ai nhìn tôi, nhưng hình như tất cả đều đang
giám sát tôi. Tôi chột dạ, vòng tay ra sau chạm vào tấm gỗ hồng mộc dắt
sau thắt lưng, quyết định trước tiên cần tìm một nơi an toàn để cất giấu đã, nếu lúc nào cũng đem theo bên người, cho dù không đánh mất thì cũng gây bất tiện cho hành động của tôi.

Tôi nghĩ tốt nhất nên mua một ngăn bảo hiểm ở ngân hàng, bèn kéo tay
một người đi đường hỏi thăm. Người đó cho biết gần đây có ngân hàng Kiến Thiết, ở chếch phía đối diện với Học viện Mỹ thuật Lỗ Tấn, sát ngay chợ đồ cổ Lỗ Viên.

Nghe thấy Học viện Mỹ thuật Lỗ Tấn ở ngay gần đó, tôi ngẩn người, tim đập loạn xạ, cảm xúc dâng trào. Học viện Mỹ thuật Lỗ Tấn không chỉ là
trường cũ của cậu tôi, mà hồi sáng tác tranh panorama, rất nhiều học giả và hoạ sĩ nội tiếng của ngôi trường này cũng tham gia. Một trong những
mục đích chuyến đi lần này của tôi chính là tìm gặp họ để điều tra.

Cảm ơn người đi đường xong, theo chỉ dẫn của anh ta, tôi băng qua các ngõ phố, đi đến học viện Mỹ thuật Lỗ Tấn. Trông thấy có bảo vệ ở cổng,
xuất phát từ tinh thần cảnh giác cao độ, tôi không dám xông vào trong,
chỉ đứng dưới gốc cây đối diện, lặng lẽ quan sát, tính xem làm thế nào
để trà trộn vào.

Cổng trường liên tục có sinh viên ra ra vào vào, khuôn mặt các em đều rất trẻ trung tươi tắn, khiến tôi nhớ lại cậu tôi hồi trẻ. Mải nhìn,
chợt tôi bất giác thấy hoảng hốt, ánh mắt mờ hẳn đi, hình như tôi vừa
nhìn thấy một người con trai, cắp tấm ván vẽ dưới nách, mỉm cười bước
nhanh về phía tôi. Dáng vẻ đó, cách ăn mặc đó giống hệt như cậu tôi thời trẻ, lại có vẻ giống như người chiến sĩ trong bức tranh.

Tiến gần thêm, tấm ván vẽ dưới nách cậu ta như hoá thành tấm gỗ hồng mộc, phát ra ánh sáng mờ mờ dưới ánh nắng mặt trời.

Tôi thấy hơi run, căng mắt nhìn kỹ, giữa ban ngày trời sáng, mọi thứ vẫn y nguyên.

Nghĩ lung tung một hồi lâu, cuối cùng tôi cũng từ bỏ ý định vào
trường, lắc đầu thở dài đi đến ngân hàng Kiến Thiết ở chỗ đầu lối rẽ.
Vừa định đẩy cửa bước vào, tôi chợt nhìn thấy chợ đồ cổ Lỗ Viên ở bên
cạnh, tim tôi đập mạnh, tại sao không tìm một người am hiểu giám định
tấm gỗ, xem bên trong nó rốt cuộc ẩn giấu bí mật gì?

Chợ đồ cổ Lỗ Viên là khu chợ đồ cổ lớn nhất vùng Đông Bắc, diện tích
rất rộng, có thể sánh ngang với chợ Phan Gia Viên ở Bắc Kinh, trục chính là một con phố dài, hai bên là các cửa hiệu san sát, cao có thấp có,
cột kèo chạm trổ, hoành phi bắt mắt, tất thảy đều mô phỏng theo kiến
trúc Minh Thanh. Tuy hôm đó không phải cuối tuần, nhưng người đến chợ
vẫn đông nghịt, vô cùng nhộn nhịp.

Tôi đi dọc con phố đi bộ, nhìn quanh ngó quất tìm kiếm rất lâu, cuối
cùng chọn được một cửa hàng phía ngoài trông cổ kính nhất có tên Hội Bảo Trai và đẩy cửa bước vào.

Thấy có người vào, chủ cửa hàng liền tươi cười đi ra, nhiệt tình chào hỏi. Đó là một ông già hơn bảy mươi tuổi, bộ râu trắng muốt, mặc một bộ áo dài bông màu xanh thẫm, tay cầm ấm trà đất, trông rất giống dáng vẻ
của một ông tiên.

Lúc đó cửa hàng không có khách, tôi nhận thấy đây là cơ hội hiếm có,
liền rút tấm gỗ hồng mộc ra, nói dối là của tổ tiên để lại, nay cần tiền gấp, muốn nhờ ông ta giám định giúp, sau đó rút luôn hai trăm tệ để gửi tiền công.

Ông lão đặt ấm trà xuống, vuốt vuốt chòm râu, gật đầu cười ha ha, ông gạt tay tôi, nói đây chỉ là chuyện nhỏ. Sau đó ông đeo cặp kính lão
vào, nhấc tấm gỗ lên, nheo mắt tỉ mẩn ngắm nhìn. Ngắm nghía khoảng chừng năm sáu phút, ông lão ngẩng đẩu lên, ánh mắt sáng ngời, liên mồm nói
đây là vật báu hiếm có, lưu luyến ngắm vuốt một lúc lâu mới chậm rãi bảo tôi: Đây là loại gỗ hồng mộc cực hiếm ở dãy núi Stanovoy[1]. Theo kinh nghiệm của ông, có lẽ nó đã có lịch sử không dưới nghìn năm.
Hình chạm rồng trên bề mặt đúng là được chạm khắc bằng kim, nhưng gỗ
hồng mộc vốn rất cứng, không thua kém gì gang hay đá, thực sự không thể
tưởng tượng được người ta đã chạm khắc nó như thế nào. Màu đỏ thẫm xung
quanh lỗ kim là loại sơn dầu có tính thẩm thấu cao, ngấm sâu vào thân
gỗ. Hiện vẫn chưa nhận ra tấm gỗ có ý nghĩa gì, nhưng căn cứ vào độ tinh xảo, rất có thể nó được lấy ra từ thứ đồ trang trí thời cổ nào đó, chắc chắn có giá trị lưu giữ rất cao. Nghe ông lão nói vậy, đầu óc tôi chợt
trở nên u mê, tấm gỗ nghìn năm lịch sử hiếm gặp xuất hiện trên đời, bên
trên còn chạm khắc hình rồng kỳ quái, một cảm giác thay đổi quá lớn, nó
cách quá xa so với hiện thực, sự việc có vẻ ngày càng trở nên phức tạp
rồi.

[1] Dãy núi Stanovoy hay còn gọi là Ngoại Hưng An Lĩnh là mốc biên giới tự nhiên giữa Nga và Trung Quốc.

Thấy tôi mãi không mở lời, ông cụ cứ tưởng tôi đang suy nghĩ, hỏi lại có đồng ý bán hay không, còn nói sẵn sàng trả giá cao để mua lại. Tôi
lắc đầu bịa ra một lý do để từ chối, sau đó cầm tấm gỗ đi rời khỏi cửa
hàng.

Tôi đút hai tay vào túi áo, bước đi vô định trên phố, trong bụng thầm nghĩ: Nếu tấm gỗ thật sự cách hiện tại cả nghìn năm lịch sử, hơn nữa
lại được lấy từ núi Stanovoy, như vậy nó đúng là vào thời nhà Liêu Trung Quốc rồi. Theo những gì tôi đã khảo chứng trước đó, nhà Liêu khởi nguồn từ Đông Bắc, đã từng hưng thịnh một thời, hoàng cung và gia đình quý
tộc sùng bái đạo Phật, chùa Đại Quảng Tự và Cổ Tháp Cẩm Châu đều do
người Liêu xây dựng, xem ra tấm gỗ này rất có thể của người Liêu để lại. Nhưng điều khiến tôi không thể lý giả được là cậu phát hiện ra nó như
thế nào? Có lẽ cậu đã tìm ra nó bên trong Cổ Tháp ở lần khảo sát thực
địa năm đó?

Đang suy nghĩ, bỗng nhiên từng đám mây đen nặng trĩu bay ngang trên
đầu, mặt trời bị các tầng mây che khuất, bầu trời dần tối sầm lại, trên
không trung lất phất những hạt tuyết theo gió bấc luồn lạo xạo vào trong cổ áo, rồi nhanh chóng hoá thành nước chảy xuống, lạnh đến run người.

Tôi lắc mạnh đầu, hai tay túm chặt cổ áo, ngập ngừng nhưng rồi cũng
quyết định gửi tấm gỗ vào ngân hàng, sau đó đi tìm nhà nghỉ để ở lại.
Quay người rảo bước đến đầu phố, đang định đưa tay ra vẫy xe, chợt một
cửa hiệu nhỏ đã thu hút ánh nhìn của tôi. Thực ra bề ngoài cửa hiệu
trông rất bình thường, không hề nổi bật so với các cửa hiệu khác, nhưng
hai bên cửa chính lại treo đôi câu đối “ Hoạ long hoạ hổ nan hoạ cốt. Tri nhân tri diện bất tri tâm”, câu đối này khiến tôi vô cùng tò mò.

Tôi dừng bước dưới bậc thềm, khoanh tay ngắm nhìn hàng giờ, bỗng
nhiên nhớ đến bức thư pháp treo trong phòng khách nhà cậu, chẳng phải
chính là vế đầu câu đối này hay sao? Ngẩng đầu ngắm kỹ tên cửa hiệu, là
bốn chữ Khải to, màu đen, được khắc trên tấm biển gỗ màu nâu: Hiệu xăm Tiểu Đường.

Nhớ ra bức tranh da người của cậu, tôi liền dứt khoát bước lên bậc thềm, đẩy cửa bước vào.

Luồng khí nóng trong phòng ập tới ấm áp tựa mùa xuân, cùng một mùi
hương phảng phất hơi giống mùi đàn hương, mang lại cảm giác khoan khoái
lan toả khắp người. Nhìn quanh thăm dò, tôi thấy diện tích tổng thể
không lớn lắm, chỉ khoảng hơn mười mét vuông, tất cả đồ gia dụng đều làm bằng gỗ trắc chạm khắc tinh tế, tạo hình sang trọng, đậm đà phong thái
cổ kính. Phía trong có một chiếc bàn bát tiên, bên cạnh bàn có hai người đang quay lại nhìn tôi.

Trong đó, một người là một gã trạc ba mươi tuổi, dáng người vạm vỡ,
đầu cạo trọc lốc, mặt mũi dữ tợn, mày trơn mắt nhỏ, trông bộ dạng vô
cùng hung dữ. Chiếc áo bông của gã vắt trên vai, tay áo sơ-mi xắn cao để lộ ra cánh tay phải cơ bắp cuồn cuộn.

Bên cạnh đó là một cô gái nhiều nhất cũng chỉ hai mươi tuổi, mặc
chiếc áo len cao cổ màu hồng nhạt và chiếc quần bò màu xanh, eo thon, da trắng, cằm nhọn, nét mặt dịu dàng, trông đầy vẻ thanh tú. Nhất là đôi
mắt phượng đen láy tinh nhanh, trông rất có hồn.

Nhìn thấy vậy, tôi đoán ngay ra cô gái chính là chủ cửa hiệu, còn gã
thanh niên là khách hàng đang chuẩn bị xăm mình. Không dám làm phiền,
tôi chào một câu, sau đó ra hiệu cho cô gái cứ tiếp tục công việc, sau
đó ngồi lên chiếc ghế gỗ đỏ bên cạnh. Tôi chỉ thấy cô gái cầm một hòn đá nhỏ màu hồng hạt, xoa vài đường lên bắp tay của gã thanh niên, trên da
liền xuất hiện một lớp bột màu đỏ nhạt, sau đó cô gái lấy chiếc lọ sứ
màu lục nhạt, rút nút bấc, rót ra một ít chất dịch dính như keo màu nâu
vàng, lấy ngón trỏ chấm vào rồi bôi từng tí một lên tay gã thanh niên.

Cô gái lấy một tấm vải trắng lau sạch những giọt dung dịch chảy ra ngoài, lạnh lùng nói:

- Hơi đau một chút, nhưng sẽ hết ngay.

Gã thanh niên ngẩng đầu nhìn cô gái, mặt đầy vẻ cung kính, giọng nịnh nọt:

- Tiểu Đường, em cứ việc xăm thoải mái đi!

Nói đoạn, gã ta rút từ trong túi ra bao thuốc lá Trung Hoa mềm, gỡ
lấy một điếu thuốc ngậm vào miệng, lấy bật lửa chuẩn bị châm hút.

Bỗng cô gái tên Tiểu Đường mặt biến sắc, đưa tay giật lấy điếu thuốc ném mạnh xuống dưới chân, giọng nghiêm nghị nói:

- Không được hút thuốc!

Gã trai nghệt mặt, nhếch mép cười gượng, không hề tỏ ra tức giận,
trái lại còn ngoan ngoãn cất bao thuốc và chiếc bật lửa vào túi.

Tôi hơi ngạc nhiên, nghĩ bụng cô gái này tuổi còn trẻ nhưng tính khí
quả không vừa, gã thanh niên kia rõ ràng là một tay giang hồ thế mà lại
ngoan ngoãn nghe lời như vậy.

Trên chiếc bàn bát tiên bày khá nhiều thứ, nào bình nào lọ đủ mọi màu sắc, phải tới mấy chục loại, trông thì có vẻ như bày biện lộn xộn,
nhưng hình như chúng được sắp xếp theo quy luật đặc biệt nào đó. Trong
đó có một khối gỗ màu vàng nhạt, diềm ngoài khắc hình sóng cuộn cao
khoảng hơn nửa phân, rộng bằng chừng nắm tay, trông giống như cái chặn
giấy, bề mặt cắm chi chít các loại kim màu trắng bạc, to có nhỏ có, dài
có ngắn có.

Tiểu Đường đưa tay phải ra, ngón tay thon dài trắng nõn, gạt nhanh
giữa rừng kim giống như đánh đàn piano, thoáng chốc trên ngón tay đã
xuất hiện cây kim dài chưa đến ba cen-ti-mét. Động tác dù không quá
nhanh, nhưng tôi vẫn không thể nhìn rõ cách làm cụ thể của cô gái.


Tiểu Đường khéo léo giữ chân kim, nhúng vào lọ sứ màu lục ngoáy tròn, khi rút cây kim ra, đầu kim đã chuyển màu xanh lam đậm sáng bóng.

Tôi thấy khá thú vị, liền nhoài người ra phía trước, mở to mắt, muốn nhìn thật rõ xem xăm hình rốt cuộc được làm như thế nào.

Tiểu Đường dùng ngón cái và ngón trỏ kẹp chặt chân kim, giơ thẳng
trước mắt, lông mày hơi chau lại, chăm chú ngắm nhìn một lúc, miệng lẩm
nhẩm vài câu, sau đó không cần nhìn, cô gái bất chợt đâm thẳng vào bắp
thịt trên cánh tay của gã thanh niên, rồi lại nhanh chóng rút ra, sát
ngay lỗ kim đầu tiên đâm tiếp mũi thứ hai…

Vết kim châm trên da nhìn rất rõ, màu sắc tươi tắn, nhưng tuyệt nhiên không chảy một chút máu nào.

Cô gái cứ thế đưa kim nhanh thoăn thoắt, cây kim như lướt nhẹ trên
mặt da. Tôi nhẩm tính ít nhất trong một giây cũng châm được năm sáu mũi
kim, cứ thế dán mắt vào quan sát. Khi mũi kim hơi nhạt màu, Tiểu Đường
lại xoay tay cắm kim vào lọ sứ để chấm thêm mực rồi tiếp tục châm.

Tiểu Đường làm việc hết sức nghiêm túc, tay như múa, chỉ sau năm ba
phút một cái đầu hổ sống động như thật, to bằng nắm tay, màu xanh đậm đã xuất hiện trên bắp tay của gã thanh niên.

Tiểu Đường lùi lại nửa bước, nghiêng đầu nheo mắt nhìn, miệng hơi nở
nụ cười, có vẻ rất hài lòng. Cô lại đổ thêm một ít dung dịch màu vàng
nâu vẩy lên hình xăm đầu hổ, xé một tấm màng băng lại, xoa hai tay vào
nhau nhẹ nhàng nói:

- Nhớ phải kiêng nước kiêng gió trong ba ngày, cũng không được ăn thịt gia cầm và hải sản đâu đấy.

Gã trai đứng dậy, cười không ngậm nổi miệng, như thể nhận được món
hời, gật đầu lia lịa cảm ơn Tiểu Đường, rút tiền thanh toán, mặc áo vào
rồi đẩy cửa đi ra. Nhìn số tiền trên bàn chắc cũng phải hơn ba nghìn tệ. Tôi hít một hơi, nghĩ bụng nghề này dễ kiếm tiền thật.

Tiểu Đường không thèm đếm lại, kéo ngăn kéo ra, vứt tiền vào, rồi lấy khăn mùi soa lau sạch cây kim, cắm luôn vào cục gỗ màu vàng nhạt.

Tôi để ý cô gái hầu như không cần nhìn mà vẫn cắm trúng phóc, ngay
ngắn, đúng chỗ khe hở trong rừng kim. Cây kim bạc đứng thẳng, không hề
vướng vào những cây kim khác, cắm sâu quá nửa. Quả thực không rõ là do
lực tay cô gái mạnh hay do thân gỗ mềm.

Đang mải suy nghĩ, Tiểu Đường bước đến trước mặt tôi, lạnh lùng hỏi:

- Chào chị, chị đến xăm mình phải không?

Bị hỏi bất ngờ, tôi buột miệng nói:

- À… tôi… tôi rảnh rỗi đến xem một tí thôi. – Vừa nói dứt lời, tôi
mới thấy mình nói liều, đây chẳng phải cửa hàng siêu thị gì, rõ ràng là
bị thần kinh rồi.

Tiểu Đường nhìn tôi chằm chằm, mím môi mỉm cười nói:

- Vậy à, thế chị cứ thong thả xem nhé.

Nói rồi cô không thèm để ý đến tôi, đi ra dọn dẹp đồ trên bàn, rồi lấy chiếc khăn mặt trắng ra lau tay.

Tranh thủ lúc cô gái quay người treo khăn mặt, tôi bước nhanh đến
trước bàn bát tiên, dùng ngón cái ấn mạnh vào cục gỗ vàng nhạt, chỉ thấy cứng ngắc như đá, không hề lưu lại dấu vết gì.

Tôi bắt đầu nghi ngờ, thật khó tưởng tượng nổi một cô gái mảnh mai
thế này mà bàn tay lại có sức mạnh ghê gớm đến thế. Trong thoáng chốc,
đầu tôi nảy ra một suy nghĩ táo bạo, nếu Tiểu Đường huy động hết sức
lực, liệu có thể chọc thủng tấm gỗ hồng mộc hay không?

Tôi quay ra cửa nhìn, nghĩ ngợi một lúc liền quyết định vòng tay ra
sau lưng rút tấm gỗ hồng mộc, nhẹ nhàng đặt lên bàn, khẽ nói:

- Em gái à, em… em xem cái này…

Tiểu Đường vừa liếc nhìn qua đã gật gật đầu, lãnh đạm lên tiếng:

- Tuyệt đấy, châm pháp tốt, đúng kiểu “lưu thuỷ miên diên, nhập mộc tam phân” (mềm mại như nước chảy, mà sâu vào gỗ đến ba phân).

Tuy cô gái nói hết sức thản nhiên, nhưng tôi nghe như sấm nổ bên tai, không ngờ hình rồng trên tấm gỗ đúng là được khắc bằng kim, có vẻ như
Tiểu Đường cũng biết một chút về gốc rễ vấn đề. Xem ra đúng là “đi mòn
gót giày tìm chẳng thấy, đến khi tìm thấy chẳng tốn công”, lần này vô
tình tìm đến đây lại hoá ra tìm đúng chỗ.

Nghĩ vậy, tôi liền đi vòng qua bàn, đứng trước mặt Tiểu Đường, vội hỏi:

- Em gái à, em… em nói những hoa văn này được khắc bằng kim đúng không?

Tiểu Đường nghiêng đầu nhìn tôi, chớp chớp mắt rồi đột nhiên lấy tay che miệng cười sằng sặc:

- Dạo này thú vị thật đấy, đầu tiên là có người đem đến chiếc khay
sứ, bây giờ đến lượt chị lại đem đến một tấm gỗ hồng mộc, mà lại đều là… - Ngừng một lát, cô gái lại mỉm cười hỏi. – Chị à, chị không phải cũng
là cảnh sát đấy chứ?

Cô gái vừa cười vừa nói như vậy, không thấy đâu vẻ lạnh lùng khi nãy
mà chỉ giống như một cô bé mới lớn chưa hiểu sự đời. Tuy nhiên mấy câu
nói ấy khiến tôi rối trí, gì mà khay sứ bát sứ chứ, trên trán tôi cũng
chẳng khắc chữ nào, sao cô ta lại đoán ra thân phận của tôi? Nhưng đến
khi tôi hỏi lại thì Tiểu Đường lại chẳng nói gì, chỉ cười cười đưa mắt
nhìn tôi thăm dò.

Tôi gặng hỏi hồi lâu, thậm chí còn móc tiền ra nhưng Tiểu Đường vẫn chỉ mỉm cười không nói. Tôi đành nhặt tấm gỗ lên, rồi ra về.

Tôi mua một ngăn két tại ngân hàng Kiến Thiết gần đó, cất cẩn thận
tấm gỗ rồi tìm một nhà nghỉ nhỏ không cần đặt chứng minh thư, tạm thời
nghỉ lại.

Đêm đến, tôi nằm trên giường, hai tay gối đầu, nhìn chăm chăm lên
trần nhà suy nghĩ. Tường nhà nghỉ cách âm không tốt, bên ngoài khá ồn,
thỉnh thoảng lại có ánh đèn xe rọi qua cửa sổ, hắt bóng lên trần nhà
thành những hình thù biến dạng nhảy nhót giống như bức tranh kỳ quặc.

Tôi không thấy buồn ngủ, trong bụng cứ đoán già đoán non, cô gái tên
Tiểu Đường quả là có gì đó rất đặc biệt, rõ ràng cô ta nhận ra điều gì
đó từ tấm gỗ, thậm chí còn đoán được cả thân phận của tôi, nhưng tại sao lại không nói cho tôi bí mật ẩn chứa trong tấm gỗ? Mặc dù không đoán ra được, nhưng tôi nhất quyết sẽ không bỏ qua manh mối đã có trong tay,
ngày mai tôi sẽ lại đi tìm cô ta, bất luận thế nào, dù có phải chặn
đường đón ngõ, tôi cũng phải hỏi cho ra vấn đề.

Sáng sớm hôm sau, tôi dậy từ rất sớm, bắt taxi quay lại chợ đồ cổ Lỗ
Viên, nhưng cửa hiệu xăm Tiểu Đường cửa đóng im ỉm, còn chắn cả bức rào
sắt nữa.

Tưởng mình đến sớm quá, cửa hiệu chưa mở cửa, tôi liền đi dạo quanh
chợ đồ cổ, thỉnh thoảng lại quay trở lại để xem thử thế nào, nhưng đợi
mãi đến tận khi trời tối, vẫn không thấy cửa hiệu mở cửa, tôi đành buồn
bã trở về.

Chờ đợi ngoài cửa hiệu ba ngày liền, vẫn không hề thấy bóng dáng Tiểu Đường, tôi đâm sinh nghi, bất giác nghĩ liệu có phải hung thủ giấu mặt
kia phát hiện thấy tôi đã đến cửa hiệu xăm, tưởng là Tiểu Đường có quen
biết tôi nên đã giết người diệt khẩu.

Nghĩ vậy, tôi thấy vô cùng áy náy vì mình lại phạm phải sai lầm lớn,
hung thủ giấu mặt sau khi phát hiện ra tôi mất tích, kiểu gì cũng đoán
ra tôi sẽ đến Thẩm Dương, không biết chừng đã theo dõi tôi từ trước. Thế nhưng tại sao chúng không ra tay trực tiếp với tôi mà cứ liên tục làm
gián đoạn quá trình điều tra, điều này thật sự khó hiểu.

Cứ nghĩ đến Tiểu Đường, tôi lại day dứt, một cô gái tài năng như thê, nếu quả thực bị hạ độc thủ chỉ vì trót gặp gỡ tôi thì thật đáng tiếc.
Trong thâm tâm tôi thầm cầu nguyện cho cô gái ấy bình an vô sự. Nhưng
một mặt, tôi lại thấy mình thế lực đơn độc, nay lại bị theo dõi, cứ thế
này thì không những vô cùng nguy hiểm mà còn không thể triển khai được
các hướng điều tra, nhất định phải tìm cho được một người trợ giúp.

Ôm ấp hi vọng, tôi lại nhấc máy gọi thử cho Tang Giai Tuệ, lần này cô bạn đã bắt máy.

Nghe thấy giọng nói của tôi, Tang Giai Tuệ vô cùng ngạc nhiên, hỏi
tôi sao lại dùng đầu số của Thẩm Dương, có phải đến đây phá án không,
lại còn trêu rằng, vụ án nhất định phải rất lớn, nếu không sẽ chẳng mất
công đích thân phó đội trưởng của chúng ta xuất mã.

Tôi cười gượng gạo, nghĩ thầm chính tôi mới sắp bị sử thì có, liền kể sơ qua cho Tang Giai Tuệ nghe một loạt những gì xảy ra gần đây và tình
cảnh hiện nay, hi vọng cô ấy có thể giúp đỡ.

Đầu dây bên kia, Tang Giai Tuệ im lặng một hồi lâu, mãi sau mới lẩm bẩm nói:

- Sự việc kỳ quặc quá, hoá ra là cậu, tại sao lại xuất hiện… - Ngừng
một lát, Giai Tuệ đột nhiên nói. – Nói qua điện thoại không tiện, Tiêu
Vi, cậu đến ngay nhà tớ nhé, có thể có thứ khiến cho cậu thấy hứng thú
đấy.

Lúc đó tôi ngàn lần không thể ngờ tới, cái thứ mà tôi thấy hứng thú
ấy không những liên quan mật thiết đến Tiểu Đường mà hơn nữa sự thực ẩn
chứa đằng sau nó càng thần bí phức tạp gấp ngàn lần, số phận tương lai
của tôi từ đây cũng gắn chung số phận với đội Tang Giai Tuệ. Tất nhiên,
tất cả đều là chuyện sau này.