Thiên Long bát bộ (bản mới)

Hồi 27(b)

Thiên quân vạn mã vào ra,

Trước là cứu chúa, sau là cứu thân.

Cuộc đời như giấc mộng lành,

Hôm nay khất cái mai thành đại vương.

°

° °

Sở Vương mắt tinh tay lẹ, roi ngựa vung ra gạt mũi tên. Thuật dùng

roi gạt tên vốn dĩ là bản lãnh của Sở Vương, nhưng có ngờ đâu người

bắn tên không những sức cánh tay đã mạnh, lại thêm nội kình đưa vào

đầu tên, roi ngựa tuy đánh trúng đuôi nhưng chỉ làm cho đầu tên lệch đi

một chút, nghe soẹt một tiếng đã cắm ngay vào vai y. Sở Vương kêu lên

“Chao ôi!” một tiếng, đau đến gục xuống yên ngựa.

Vũ tiễn của Tiêu Phong lại tiếp theo, lần này khoảng cách thật gần,

mũi tên trúng vào hông, xuyên thẳng qua ngực. Sở Vương chỉ dãy được

một cái, từ trên ngựa ngã xuống ngay.

Tiêu Phong vừa ra tay đã thành công, nghĩ thầm: “Sao mình không

thừa cơ bắn chết luôn Hoàng thái thúc”.

Sở Vương trúng tên ngã ngựa, quân địch ai nấy kêu la, mấy trăm

mũi tên nhắm ngay Tiêu Phong mà bắn, chỉ nháy mắt con ngựa đã trúng

đầy tên thật chẳng khác gì một con nhím. Tiêu Phong lăn dưới đất mấy

vòng, lòn ngay dưới bụng ngựa một tên quân, thi triển công phu tiểu xảo,

cứ lăn một vòng lại luồn từ bụng con ngựa này sang bụng con ngựa khác.

Quan binh không sao bắn tên được, lập tức dùng trường mâu mà chọc.

Tiêu Phong lẻn qua trái, lách qua phải, toàn là ẩn dưới bụng ngựa. Quân

địch loạn cả lên, mấy nghìn quân người nọ xô người kia tưởng chừng như

dẫm phải nhau nhưng không làm sao đâm trúng ông được.

Tiêu Phong sử dụng chẳng qua chỉ là địa đường công phu thật tầm

thường của võ lâm Trung Nguyên. Dù là địa đường quyền, địa đường

đao, hay địa đường kiếm cũng đều là lăn lộn dưới đất, tấn công vào hạ

bàn bên địch. Bây giờ ông dùng vào trong chiến trận, mắt sáng tay

nhanh, tránh khỏi không bị ngựa giày. Ông nhắm kỹ nơi Hoàng thái thúc

đang đứng, lăn về hướng đó, nhắm thẳng vào y vút vút vút bắn ra ba mũi

tên.

Vệ sĩ của Hoàng thái thúc đã nhìn thấy Sở Vương bị trúng tên rồi

nên đã phòng bị, hơn ba chục người cùng giơ mộc lên chặn trước Hoàng

thái thúc kín mít, nghe keng keng keng ba mũi tên đều đụng phải thuẫn

bài rơi xuống đất. Mười mũi tên Tiêu Phong đem theo đã bắn hết bảy

mũi rồi, chỉ còn lại ba, thấy ba chục tên quân dùng thuẫn bảo vệ chủ, ba

mũi tên bắn chết ba tên vệ sĩ đã khó, huống hồ lại bắn được Hoàng thái

thúc.

Lúc này Tiêu Phong đã vào sâu trong trận của địch, phía sau mấy

nghìn người cầm mâu đuổi tới, trước mặt là thiên quân vạn mã quả đúng

là rơi vào tuyệt cảnh. Hôm xưa ông một mình chống lại quần hùng Trung

Nguyên đối phương chẳng qua chỉ vài trăm người, cũng đã cực kỳ hung

hiểm, may có người khác cứu còn hôm nay bi mấy vạn người vây khốn

làm sao chạy thoát được đây?

Trong tình hình nguy ngập đó, ông hú lên thật to, tung mình nhảy

lên, nghe vù một tiếng đã nhảy vọt qua ba chục người cầm thuẫn, rơi

xuống ngay trước đầu ngựa Hoàng thái thúc. Hoàng thái thúc hoảng hốt,

giơ roi ngựa lên đánh luôn vào mặt ông. Tiêu Phong nghiêng người rơi

xuống đúng ngay yên ngựa Hoàng thái thúc đang cưỡi, giơ tay chộp luôn

sau lưng y, giơ lên cao kêu lớn:

- Ngươi muốn sống hay muốn chết? Mau mau bảo mọi người bỏ

binh khí xuống.

Hoàng thái thúc sợ đến cứng đơ người, những gì ông nói y không

nghe thấy gì cả. Lúc đó tiếng xôn xao của loạn quân inh ỏi điếc cả tai,

hàng nghìn vạn người ai cũng lắp tên giương cung nhắm ngay Tiêu

Phong nhưng Hoàng thái thúc bị ông bắt giữ rồi ai mà dám vọng động

khinh suất?

Tiêu Phong vận khí vào đan điền kêu lớn:

- Hoàng thái thúc có lệnh, ba quân mau bỏ binh khí xuống để nghe

tuyên đọc thánh chỉ. Hoàng đế khoan hồng đại lượng, xá tội cho tất cả

quan binh, không truy cứu bất cứ ai.

Mấy câu đó át hết tất cả tiếng người đang ồn ào, qua đến mấy dặm

còn nghe thấy, đến quá nửa trong số mấy chục vạn người trước núi sau

núi nghe được rõ ràng. Tiêu Phong đã trải qua kinh nghiệm người trong

Cái Bang nổi loạn chống lại mình, biết rõ tâm tư loạn quân, sau khi thoát

khỏi nghịch cảnh rồi, việc đáng quan tâm nhất là làm sao được miễn tội,

nếu như được bảo đảm không truy cứu lỗi lầm thì ý chí chiến đấu lập tức

tiêu tan. Hiện giờ phản quân thế mạnh, bên cạnh Gia Luật Hồng Cơ

chẳng qua chỉ bảy tám vạn người, bên ít bên nhiều làm sao địch lại,

trong lúc cục diện khẩn cấp không kịp thỉnh thị ý kiến Hồng Cơ nên nói

liều mấy câu cho bên phản loạn yên tâm.

Mấy câu đó vang vang truyền ra, bao nhiêu tiếng huyên náo của

quân phản loạn liền lắng xuống, người nọ nhìn người kia, không ai định

được chủ ý ra thế nào. Tiêu Phong biết rằng tình thế hiện nay cực kỳ

nguy hiểm, trong đám quân địch chỉ cần một người kêu lên không phục,

mấy chục vạn quân như rắn mất đầu kia sẽ đại biến, thành thử không thể

diên trì một giờ khắc nào, lại lớn tiếng nói:

- Hoàng thượng có chỉ dụ, trong đám phản quân bất luận quan chức

lớn bé thế nào chăng nữa, tất cả đều vô tội, hoàng đế khai ân quyết

không truy cứu. Quan quân binh lính ai giữ nguyên chức ấy, tất cả hãy

mau mau bỏ binh khí xuống.

Tất cả lặng như tờ, đột nhiên loảng xoảng, loảng xoảng, có mấy

người liệng bỏ trường mâu. Tiếng vứt bỏ binh khí kia dường như lây qua

người khác, chỉ trong giây lát, loảng xoảng vang dậy, có đến một nửa số

người vứt binh khí, phần còn lại trù trừ chưa quyết định.

Tiêu Phong tay trái cầm Hoàng thái thúc giơ lên cao, giục ngựa

chạy lên núi, quân phản loạn nào ai dám ngăn trở, ngựa ông đến đâu lập

tức tránh ra nhường đường đến đó. Tiêu Phong cưỡi ngựa đến lưng chừng

núi rồi, hai toán ngự doanh quân liền chạy xuống nghinh tiếp, trên núi

trống chiêng đồng thời nổi lên. Tiêu Phong nói:

- Hoàng thái thúc, ông mau mau ra lệnh, bảo bộ thuộc bỏ binh khí

xuống đầu hàng thì sẽ được tha mạng.

Hoàng thái thúc run run hỏi lại:

- Ngươi đảm bảo tha mạng cho ta chứ?

Tiêu Phong nhìn xuống chân núi, thấy vô số phản quân vẫn còn

cung tên trường mâu trong tay, lòng quân chưa định, nguy hiểm chưa hết

nghĩ thầm: “Bây giờ an lòng quân là việc quan trọng nhất. Hoàng thái

thúc một người sống chết có đáng gì đâu, chỉ cần cho người canh gác kỹ

càng, để từ rày y không còn làm điều càn rỡ được nữa”. Ông liền nói:

- Đây là cơ hội duy nhất để ông đái tội lập công. Bệ hạ biết rằng

chỉ tại con ông tệ hại, nhất định sẽ tha chết cho ông.

Hoàng thái thúc vốn không có lòng tranh đoạt ngôi vua, chỉ vì con

ông ta Sở Vương có dã tâm mà gây họa, lúc này rơi vào tay người ta rồi,

chỉ mong sao khỏi chết bèn đáp:

- Được, ta sẽ làm theo lời ngươi.

Tiêu Phong để ông ta an tọa trên yên ngựa rồi mới sang sảng nói:

- Ba quân nghe đây, Hoàng thái thúc có lời nhắn nhủ.

Hoàng thái thúc lớn tiếng nói:

- Sở Vương gây nên họa loạn hiện đã đền tội rồi. Hoàng thượng

khoan hồng đại lượng tha cho tất cả mọi người. Các ngươi mau mau bỏ

binh khí xuống, quay về phía hoàng thượng mà cầu xin.

Hoàng thái thúc đã nói như thế, đám loạn quân trở thành như rắn

mất đầu, tuy cũng có kẻ hung hăng ngoan cố nhưng không người nào

dám chống lại, lập tức nghe thấy loảng xoảng liên hồi, bao nhiêu loạn

quân đều vứt binh khí xuống đất.

Tiêu Phong áp giải Hoàng thái thúc lên tới khu núi trống trải, Gia

Luật Hồng Cơ mừng không để đâu cho hết, chẳng khác gì đang nằm mơ,

tiến đến bên cạnh Tiêu Phong cầm hai tay ông nói:

- Huynh đệ, huynh đệ, giang sơn này của ca ca từ nay cùng ngươi

chung hưởng.

Ông nói đến đây tâm thần khích động, tự nhiên nước mắt ròng ròng.

Hoàng thái thúc quì gục dưới đất nói:

- Kẻ loạn thần này cầu xin bệ hạ thứ tội, xin bề trên nhủ lòng

thương xót.

Gia Luật Hồng Cơ trong lòng hết sức vui sướng quay sang hỏi Tiêu

Phong:

- Huynh đệ nghĩ mình phải làm sao đây?

Tiêu Phong đáp:

- Phản quân người nhiều thế mạnh đang cần an định quân tâm, cầu

xin bệ hạ tha tội chết cho Hoàng thái thúc để cho mọi người yên lòng.

Gia Luật Hồng Cơ cười nói:

- Hay lắm! Hay lắm! Ngươi nói sao thì làm vậy!

Ông quay lại nói với Bắc Viện Đại Vương:

- Ngươi truyền thánh chỉ, phong Tiêu Phong làm Sở Vương, giữ

chức Nam Viện Đại Vương đốc suất phản quân trở về Thượng Kinh.5

Tiêu Phong hoảng hốt, ông giết Sở Vương, bắt Hoàng thái thúc

chẳng qua chỉ mong cứu mạng nghĩa huynh đâu phải có lòng ham muốn

tước lộc, Gia Luật Hồng Cơ phong cho chức quan lớn như thế khiến cho

chân tay luống cuống, sững sờ không biết phải nói sao. Bắc Viện Đại

Vương quay sang chắp tay chào Tiêu Phong:

- Chúc mừng! Chúc mừng! Tước vị Sở Vương xưa nay không phong

cho người ngoài hoàng tộc, Tiêu đại vương mau mau tạ ơn hoàng thượng

đi.

Tiêu Phong nói với Gia Luật Hồng Cơ:

- Mọi việc hôm nay toàn nhờ hồng phúc của ca ca, lòng quân hướng

về bệ hạ nên bình định được quân phản loạn, tiểu đệ chỉ bỏ chút hơi sức

nhỏ nhoi, đâu có gì gọi là công lao. Huống chi tiểu đệ không biết làm

quan, lại cũng chẳng muốn làm quan, xin ca ca thu hồi thành mệnh.

Gia Luật Hồng Cơ cười vang, giơ tay nắm vai Tiêu Phong nói:

- Chức Sở Vương, Nam Viện Đại Vương ở nước Liêu ta là tước lộc

cao quí nhất rồi, nếu như huynh đệ hiềm là chưa đủ không chịu thần

phục thì người anh này ngoài việc nhường ngôi cho ngươi không còn

cách nào khác nữa.

Tiêu Phong lại càng kinh hãi, nghĩ thầm: “Ca ca vui quá, nói năng

chẳng giữ gìn gì nữa, xem ra có chiều lung tung, mọi việc lúc này cần

quả quyết gấp rút, không thể chần chờ gì nữa để khỏi sinh họa”. Ông

đành quì xuống nói:

- Thần Tiêu Phong lãnh chỉ, đa tạ ân điển vạn tuế.

Gia Luật Hồng Cơ vui vẻ đưa tay đỡ dậy. Tiêu Phong nói:

- Thần không dám vi chỉ nên phải lãnh nhận quan tước. Có điều là

kẻ thô bỉ thảo dã, không hiểu pháp độ triều đình, nếu có điều gì sai sẩy

xin bệ hạ rộng lòng tha thứ.

Gia Luật Hồng Cơ giơ tay vỗ lên vai ông mấy cái cười nói:

- Quyết không sao cả.

Ông quay sang nói với Tả quân tướng quân Gia Luật Mạc Ca:

- Gia Luật Mạc Ca, ta phong ngươi làm Nam Viện Khu Mật Sứ, phò

tá Tiêu đại vương trông coi quân quốc trọng sự.

Gia Luật Mạc Ca mừng rỡ vội vàng quì xuống tạ ơn, sau đó quay

sang Tiêu Phong tham bái nói:

- Tham kiến đại vương!

Hồng Cơ nói:

- Mạc Ca, ngươi theo lệnh Tiêu đại vương, đốc suất quân phản loạn

quay trở về Thượng Kinh. Chúng ta đi thăm Hoàng thái hậu nào.

Trên núi liền chiêng trống nổi lên, Gia Luật Hồng Cơ cùng đoàn

người đi xuống. Lãnh binh tướng quân phe phản loạn lập tức mời Hoàng

thái hậu, Hoàng hậu các người ra, cung kính an trí trong doanh. Gia Luật

Hồng Cơ vào trong trướng rồi, mẹ con vợ chồng gặp nhau, quả là chết đi

sống lại, tưởng chừng như từ một kiếp khác quay về, ai nấy tấm tắc khen

ngợi công lao vĩ đại của Tiêu Phong.

Gia Luật Mạc Ca lại đưa Tiêu Phong đi gặp tất cả các bộ thuộc

Nam Viện. Mới đây Tiêu Phong trong chốn thiên quân vạn mã vào ra,

thần dũng không ai địch nổi, ai nấy đã thấy cả rồi. Các quan quân Nam

Viện tuy đều là cựu bộ thuộc của Sở Vương nhưng một là Tiêu Phong

thần uy lẫm lẫm, mọi người sợ ông là kẻ anh hùng không dám không

phục, thứ nữa Sở Vương bình thời tính tình nóng nảy, không có ân huệ gì

với kẻ dưới, thứ ba mình là kẻ làm loạn phạm thượng, trong bụng đang

nơm nớp lo lắng thành thử Tiêu Phong vừa đến ai ai cũng nhất tề nghe

lệnh của ông.

Tiêu Phong nói:

- Hoàng thượng đã tha tội theo kẻ nghịch mưu phản cho các ngươi,

từ nay tất cả phải ăn năn sám hối, không người nào được có dạ phản

trắc.

Một viên tướng đầu râu tóc bạc tiến lên bẩm:

- Bẩm cáo đại vương, Hoàng thái thúc và thế tử bắt giữ gia quyến

chúng tôi, ép chúng tôi phải theo, nếu như chống lại, thế tử sẽ chém đầu

tất cả, thành thử không biết làm sao, xin đại vương tâu cho vạn tuế rõ.

Tiêu Phong gật đầu:

- Nếu thế, những chuyện đã qua từ nay không nhắc đến nữa.

Ông quay lại nói với Gia Luật Mạc Ca:

- Cho ba quân ai đâu ở đó, nghỉ ngơi ăn uống xong thì nhổ trại hồi

kinh.

Sau đó các quan chức Nam Viện từ lớn xuống nhỏ tiến lên tham

kiến. Tiêu Phong tuy chưa làm quan bao giờ nhưng đã từng là bang chủ

Cái Bang lâu năm, thống lãnh quần hào nên cũng có uy. Thống lãnh hào

kiệt Cái Bang với chỉ huy quân Khất Đan không khác nhau nhiều lắm,

nhưng Liêu binh có qui củ riêng mà Tiêu Phong phải để ý còn ngoài ra

mọi sự do Gia Luật Mạc Ca điều động giải quyết cho nên cũng đâu vào

đấy.

Tiêu Phong dẫn đại quân xuất phát chưa bao lâu thì Hoàng thái hậu

và Hoàng hậu đã sai sứ tới trung quân ban tặng áo đai vàng bạc. Tiêu

Phong tạ ơn xong, Thất Lý cũng đưa A Tử đến. Nàng mặc áo gấm ngồi

trên tuấn mã, nói là những thứ đó đều do Hoàng thái hậu ban cho. Tiêu

Phong thấy thân hình mảnh mai của nàng lọt thỏm vào trong cẩm bào

rộng thùng thình, khuôn mặt thon thon dường như bị cổ áo che khuất đến

một nửa không khỏi tức cười.

A Tử không chính mắt trông thấy Tiêu Phong bắn chết Sở Vương,

bắt sống Hoàng thái thúc chỉ nghe Thất Lý kể lại mà thôi. Hễ ai kể lại

chuyện gì, không khỏi thêm mắm thêm muối nên công lao của Tiêu

Phong lại càng tăng thêm vài phần thần bí.

A Tử vừa gặp ông đã cằn nhằn:

- Tỉ phu lập đại công như thế, sao không nói trước để tiểu muội

đứng ở sườn núi xem đại ca xông ra rồi lại trở về có phải vui không?

Làm em lo ơi là lo.

Tiêu Phong đáp:

- Cái đó là nhờ may mà lập được chút công lao chứ ta nào có định

trước đâu? Cô nói nghe thật trẻ con quá.

A Tử nói:

- Tỉ phu qua đây.

Tiêu Phong đi đến bên cạnh nàng, thấy khuôn mặt xanh xao của

nàng hơi ửng hồng ra chiều phấn khởi, súng sính trong bộ áo váy hoa

gấm kia, trông thật chẳng khác gì một con rối nhỏ, vừa kháu khỉnh lại

vừa dễ thương, khiến ông bật cười ha hả.

A Tử vẻ mặt phụng phịu nói dỗi:

- Em nói chuyện đứng đắn sao anh lại cười, có gì khôi hài đâu?

Tiêu Phong đáp:

- Ta thấy cô mặc y phục này, trông thật chẳng khác gì một hình

nhân, thú vị quá.

A Tử bực bội đáp:

- Anh lúc nào cũng chỉ coi em là một đứa trẻ con, cứ trêu em hoài.

Tiêu Phong vẫn cười:

- Đâu có phải vậy! A Tử ơi, lần này ta tưởng hai anh em mình chắc

chết mười mươi, ai ngờ chết đi sống lại nên mới vui đùa một chút đấy

thôi. Chứ còn cái gì Nam Viện Đại Vương, Sở Vương những tước vị đó ta

nào có ham gì, được khỏi chết là mừng lắm rồi.

A Tử nói:

- Tỉ phu cũng sợ chết sao?

Tiêu Phong chưng hửng rồi gật đầu:

- Gặp lúc hiểm nguy ai mà chẳng sợ chết.

A Tử nói:

- Em lại tưởng anh là anh hùng hảo hán, không sợ chết chứ. Nếu

quả là anh sợ chết, sao trong đám phản quân hàng nghìn hàng vạn lại

dám xông vào?

Tiêu Phong đáp:

- Cái đó gọi là vào chỗ chết để tìm đường sống. Nếu ta không xông

vào thì cầm chắc cái chết, thành thử chẳng có gì là dũng cảm hay không

dũng cảm mà là vào nước đường cùng. Nếu mình vây một con gấu hay

một con cọp, nó chạy không được thể nào cũng liều mạng quay đầu lại

cắn thôi.

A Tử bật cười:

- Anh so sánh mình với loài súc vật.

Lúc đó hai người đang ngồi trên lưng ngựa đi song hàng, đưa mắt

nhìn ra thấy cả một vùng thảo nguyên cờ sí rợp trời, những đội ngũ dài

như rắn bò tới tận cuối trời không biết đâu mới hết, trước sau trái phải

chỗ nào cũng là vệ sĩ bộ thuộc.

A Tử hết sức vui lòng nói:

- Hôm trước anh giúp em đoạt được chức truyền nhân của phái Tinh

Tú, em nghĩ bũng trong phái Tinh Tú từ nhị đại đệ tử, tam đại đệ tử tất

cả mấy trăm người, ngoài sư phụ ra thì em là lớn nhất, đã hết sức đắc ý.

Thế nhưng so với anh chỉ huy thiên quân vạn mã thật chẳng thấm gì. Tỉ

phu ơi, bọn Cái Bang không chịu để anh làm bang chủ, hứ, một cái bang

hội nhỏ xíu, có làm cái quái gì đâu? Anh đem binh mã tới giết sạch bọn

chúng cho được việc.

Tiêu Phong liên tiếp lắc đầu nói:

- Chỉ trẻ con thôi! Ta là người Khất Đan, Cái Bang không chịu cho

ta làm bang chủ là phải rồi. Trong Cái Bang toàn là cựu bộ thuộc, bạn

bè ta, sao lại giết họ?

A Tử đáp:

- Bọn chúng trục xuất anh ra khỏi bang rồi, đối xử tệ bạc nên giết

chúng đi là phải. Tỉ phu, không lẽ giờ này mà họ còn là bằng hữu của

anh nữa hay sao?

Tiêu Phong không biết trả lời thế nào, chỉ lắc đầu, nghĩ đến việc

mình đoạn nghĩa tuyệt giao với bạn bè cũ nơi Tụ Hiền Trang, bao nhiêu

hào khí đều tiêu ma. A Tử lại hỏi tiếp:

- Nếu như bọn chúng nghe tin anh làm Nam Viện Đại Vương nước

Liêu đâm ra hối hận, lại mời anh về làm bang chủ Cái Bang, anh về hay

không về?

Tiêu Phong mủm mỉm cười:

- Trên đời này làm gì có chuyện đó bao giờ? Anh hùng hảo hán

nước Đại Tống coi người Khất Đan là gian đồ chuyện ác gì cũng chẳng

từ, ta ở nước Liêu làm quan càng lớn thì họ lại càng hận ta.

A Tử nói:

- Hứ, thế thì đã sao? Bọn chúng ghét mình thì mình cũng ghét lại.

Tiêu Phong đưa mắt nhìn về hướng nam thấy nơi đất trời giao tiếp ở

xa xa núi non trùng điệp nghĩ bụng: “Qua khỏi dãy núi kia là Trung

Nguyên”. Ông tuy là người Khất Đan nhưng từ nhỏ lớn lên tại phương

nam, trong lòng quả là yêu Đại Tống rất nhiều mà yêu Đại Liêu chẳng

bao nhiêu, nếu như Cái Bang cho ông làm một bang chúng vô danh

không chức phận, không túi nào, e rằng còn sung sướng hơn là chức Nam

Viện Đại Vương.

A Tử nói tiếp:

- Tỉ phu, em thấy hoàng thượng thật là thông minh nên mới phong

anh làm Nam Viện Đại Vương. Từ nay về sau mỗi khi nước Liêu đánh

với nước nào, anh đem quân xuất chinh thì thể nào cũng bách chiến bách

thắng. Chỉ cần anh xông vào quân địch, đánh chết nguyên soái bên kia,

đại đa số quân địch sẽ vứt đao thương, quì xuống đầu hàng, thế là mình

chẳng thắng thì là gì?

Tiêu Phong mỉm cười nói:

- Bộ hạ của Hoàng thái thúc đều là quan binh người Liêu, xưa nay

quen nghe lệnh hoàng thượng rồi thành thử một khi Sở Vương chết đi,

Hoàng thái thúc bị bắt tất cả mới đầu hàng. Còn như hai nước giao tranh

thì chuyện lại khác hẳn. Giết được nguyên soái thì có phó nguyên soái,

giết được tướng này thì còn tướng kia, ai nấy hết sức tử chiến. Ta đơn

thương độc mã xông vào chẳng đi đến đâu.

A Tử gật đầu nói:

- Ồ, thì ra là thế! Tỉ phu ơi, anh bảo là xông vào bên địch, bắn chết

Sở Vương, bắt sống Hoàng thái thúc cũng chưa phải là dũng cảm, thế thì

trong đời anh việc gì mới gọi là dũng cảm thực sự? Nói cho em nghe có

được không?

Tiêu Phong xưa nay không thích kể lại cho người ta nghe những sự

tích võ dũng của mình. Khi xưa còn ở trong Cái Bang ra tay tiêu diệt đại

gian đại ác, dù cho kịch chiến ác đấu cỡ nào, quay trở về bang cũng chỉ

nói gọn một câu: “Đã giết được những ai những ai...” còn như bao nhiêu

gian hiểm từng trải qua, dù cho người khác vặn hỏi thế nào chăng nữa

ông cũng không chịu nói. Lúc này nghe A Tử hỏi thế, nghĩ mình trong

đởi trải qua hàng trăm trận, khi lâm địch chẳng lúc nào tính chuyện tháo

lui, chuyện dũng cảm quả là chẳng cần nhắc nữa, bèn nói:

- Ta phải đấu với người phần lớn là bị người ta ép, không đấu không

được chứ chẳng có gì gọi là dũng cảm.

A Tử nói:

- Thôi em biết rồi, trong đời anh dũng cảm nhất là trận ác đấu tại

Tụ Hiền Trang.

Tiêu Phong ngạc nhiên hỏi lại:

- Làm sao cô biết?

A Tử đáp:

- Hôm trước nơi bờ hồ Tiểu Kính, anh đi một lúc rồi, cha em, mẹ

em cùng các thủ hạ của cha em nói chuyện về anh, ai cũng bội phục võ

công ghê gớm, một thân một mình dám đến đại hội ở Tụ Hiền Trang độc

đấu quần hùng, chỉ cốt để trị thương cho một thiếu nữ. Thiếu nữ đó dĩ

nhiên là chị em rồi. Lúc đó mọi người chưa biết A Châu chính là con

ruột của cha mẹ em, nói anh đối với nghĩa phụ, nghĩa mẫu và thụ nghiệp

ân sư cực kỳ tàn độc nhưng với đàn bà lại một mối tình trường; vong ân

phụ nghĩa, tàn nhẫn hiếu sắc quả là một kẻ tệ hại xấu xa bất cận nhân

tình.

Nói tới đây cô gái bật cười khanh khách. Tiêu Phong lẩm bẩm nhắc

lại:

- Ôi, “vong ân phụ nghĩa, tàn nhẫn hiếu sắc”, anh hùng hảo hán

Trung Nguyên đã bình phẩm Tiêu Phong này tám chữ đó sao?

A Tử an ủi ông:

- Tỉ phu đừng tức tối làm chi. Riêng mẹ em hết lời ca tụng anh, nói

là đàn ông miễn sao si tình đã đủ tốt rồi, còn ngoài ra không có gì quan

trọng cả. Mẹ em bảo cha em cũng là loại “vong ân phụ nghĩa, tàn nhẫn

hiếu sắc”, nhưng đối với tình nhân thì lại cũng “phụ nghĩa hiếu sắc”, đối

với con cái thì “tàn nhẫn vô tình” chẳng sao bì kịp với đại ca. Tiểu muội

đứng một bên vỗ tay tán thành.

Tiêu Phong gượng gạo cười lắc đầu.

Đại quân đi mấy ngày thì đến Thượng Kinh. Bách quan và dân

chúng đã nghe tin rồi, đi ra tận xa nghinh tiếp. Lá cờ soái của Tiêu

Phong đến đâu, bách tính thắp hương lạy phục xuống, ca tụng không

ngớt lời. Ông ra tay bình được đại biến loạn khiến cho vô số quân sĩ

nước Liêu bảo toàn tính mạng, tại Thượng Kinh gần nửa dân số là gia

quyến của ngự doanh quân nên đối với ông xiết bao cảm kích. Ngựa

Tiêu Phong đến đâu dân chúng tung hô đến đấy:

- Đa tạ Nam Viện Đại Vương cứu mạng.

- Cầu trời phù hộ cho Nam Viện Đại Vương sống lâu trăm tuổi, đại

phú đại quí!

Tiêu Phong nghe những lời chúc tụng đó thấy dân chúng người nào

người nấy mắt rưng rưng, quả thực thành tâm thành ý nghĩ thầm: “Kẻ ở

trên ngôi cao, nhất cử nhất động đều liên quan đến họa phúc của muôn

vạn người. Khi ta bắn chết Sở Vương, chẳng qua chỉ là sính cái dũng

nhất thời, trước là cứu nghĩa huynh, sau là cứu mình, có ngờ đâu đối với

bách tính lại tốt lành đến thế. Ôi, ở Trung Nguyên ta hết sức làm điều

tốt, vậy mà người ta lại thù oán sàm báng biết bao nhiêu, thành kẻ đệ

nhất đại gian đại ác trên giang hồ. Qua đến Bắc quốc, vô ý lại thành cứu

tinh của muôn dân. Thị phi thiện ác quả là khó nói”.

Ông lại nghĩ: “Nơi đây là đất nước cha mẹ ta, năm xưa cha mẹ chắc

thường qua lại con đường này. Ôi, ta nào có biết hình dáng tướng mạo

cha mẹ ta ra sao, hai ông bà cưỡi ngựa cùng nhau rong ruổi thế nào lại

càng khó tưởng ra nổi”.

Thượng Kinh là kinh đô của nước Liêu. Khi đó Liêu quốc là nước

lớn nhất trong thiên hạ, so với Đại Tống cường thịnh hơn nhiều. Thế

nhưng người Khất Đan du mục là chính, sống rày đây mai đó, tại Thượng

Kinh dân cư, quán xá thật giản lậu thô sơ, so với Trung Nguyên còn kém

xa.

Quan chức thuộc Nam Viện liền ra nghinh đón Tiêu Phong vào Sở

Vương phủ, phủ đệ to lớn, bên trong trần thiết cực kỳ hoa lệ giàu sang.

Tiêu Phong một đời nghèo khổ đã từng ở nơi sang trọng như thế bao giờ?

Ông vào đi rảo một hồi bỗng thấy không quen liền sai quân sĩ thiết lập

hai tòa doanh trướng ở ngay trong quân, ông và A Tử mỗi người ở một

cái, sống thật giản phác chẳng khác gì khi trước.

Đến ngày thứ ba, Gia Luật Hồng Cơ và Hoàng thái hậu, Hoàng hậu,

tần phi, công chúa mọi người mới về đến Thượng Kinh, Tiêu Phong tất

lãnh bách quan tiếp giá. Trong triều liên tiếp bận rộn luôn mấy ngày.

Đầu tiên là lễ mừng bình được đại nạn, luận công thăng thưởng, phủ tuất

các gia đình Bắc Viện Khu Mật Sứ và quan binh mới tử trận. Hoàng thái

thúc tự thấy mình không còn mặt mũi nào nên trên đường về tự tử chết

rồi.

Hồng Cơ tuy vậy vẫn giữ lời, đối với quan binh phản nghịch không

hề truy cứu, chỉ tru sát hai mươi tên thuộc hạ của Sở Vương đầu sỏ mưu

việc phản loạn. Trong hoàng cung mở tiệc khao thưởng công lao binh sĩ,

đại yến liên tiếp ba ngày. Tiêu Phong trở nên anh hùng đệ nhất nơi bàn

tiệc. Các món thưởng của Gia Luật Hồng Cơ, Hoàng thái hậu, hoàng

hậu, các phi tần, công chúa kể cả tặng phẩm của văn võ bách quan, quả

thật chất cao như núi.

Khao thưởng xong rồi, Tiêu Phong mới đến Nam Viện xem xét

công việc. Mấy chục tộc trưởng trong các bộ tộc nước Liêu đều đến

tham kiến, nào là Ô Ngỗi, Bá Đức, Bắc Khắc, Nam Khắc, Thất Vi, Mai

Cổ Tất, Ngũ Quốc, Ô Cổ Lạp... nhất thời không nhớ hết được. Sau đó là

quan quân bì thất đại trướng của hoàng đế, san quân thuộc hoàng hậu,

rồi các cấp Hoằng Ninh Cung, Trường Ninh Cung, Vĩnh Hưng Cung, Tích

Khánh Cung, Diên Xương Cung lần lượt đến chào. Thuộc quốc của nước

Liêu tổng cộng năm mươi chín nước, bao gồm Thổ Cốc Hỗn, Đột Quyết,

Đảng Hạng, Sa Đà, Ba Tư, Đại Lương, Hồi Cốt, Thổ Phồn, Cao Xương,

Cao Ly, Vu Khuých, Đôn Hoàng... Những nước đó đều có sứ thần tại

Thượng Kinh, nghe tin Tiêu Phong nắm giữ quân quốc trọng quyền, đều

đến tặng những món quí giá lạ lùng để lấy lòng làm quen.

Tiêu Phong ngày ngày khi thì tiếp khách, khi gặp bộ thuộc, mắt

thấy toàn là vàng bạc châu báu, tai nghe những điều xưng tụng tán

dương, không khỏi chán chường. Cứ như thế đến hơn một tháng Gia Luật

Hồng Cơ mới vời vào điện, bảo:

- Huynh đệ, chức phận ngươi là Nam Viện Đại Vương nên tọa trấn

Nam Kinh6, chờ thời tiến đánh Trung Nguyên. Người anh này tuy không

muốn xa cách ngươi, nhưng để lập kỳ công thiên thu vạn thế, ngươi mau

sớm đem binh xuống phía nam.

Tiêu Phong nghe hoàng thượng sai mình đem quân nam chinh, trong

bụng kinh hoảng nói:

- Tâu bệ hạ, nam chinh là chuyện đại sự, cực kỳ quan trọng, thần

Tiêu Phong chỉ là một võ dũng thất phu, quân lược quả không phải là sở

trường.

Gia Luật Hồng Cơ cười nói:

- Nước ta vừa trải qua một cơn họa loạn, cần cho sĩ tốt nghỉ ngơi. Ở

Đại Tống hiện nay Thái hậu đang nắm quyền, trọng dụng Tư Mã Quang,

cải cách triều chính không có sơ hở nào để khai thác, chúng ta chưa thể

tính chuyện nam chinh được. Này huynh đệ, ngươi đến Nam Kinh, trong

đầu lúc nào cũng phải nghĩ đến việc thôn tính Nam triều. Chúng ta cần

phải lựa gió phất cờ, hễ Nam triều có nội biến là lập tức đưa binh xuống

phương nam. Còn như nội bộ họ tốt lành không có gì, nước Liêu đem

binh đến đánh có phải là dùng sức nhiều mà thành công ít hay sao?

Tiêu Phong đáp:

- Vâng! Quả là như thế!

Hồng Cơ nói:

- Thế nhưng sao ta lại biết được Nam triều nội chính khéo léo, trăm

họ nhân tâm qui phục?

Tiêu Phong đáp:

- Thần mong được bệ hạ chỉ điểm.

Hồng Cơ cười sằng sặc nói:

- Từ xưa đến nay cũng đều thế cả, cốt sao đem nhiều tiền bạc tài

bạch mua kẻ gian tế gián điệp. Người nam tham tiền, bọn hèn hạ xấu xa

đông lắm, ngươi hãy ra lệnh cho Nam Bộ Khu Mật Sứ đừng tiếc tài bảo,

cố mua được càng nhiều càng tốt.

Tiêu Phong vâng lệnh từ biệt ra về, trong lòng buồn bã. Ông xưa

nay chỉ kết giao anh hùng hào kiệt, tuy những chuyện lén hãm hại nhau,

mai phục hạ độc chứng kiến đã nhiều, nhưng toàn là những việc giết

người đốt nhà một cách sảng khoái chứ chưa từng đem tiền bạc đi mua

chuộc người ngoài bao giờ. Hơn nữa tuy ông là người Liêu nhưng từ nhỏ

lớn lên ở Nam triều, hoàng đế sai ông tính toán tiêu diệt nhà Đại Tống,

trong lòng quả hết sức miễn cưỡng nghĩ thầm: “Ca ca có lòng tốt phong

ta làm Nam Viện Đại Vương, nếu ta chỉ vì chuyện này từ quan, không

khỏi phụ thịnh tình của anh ta, thương tổn nghĩa khí huynh đệ. Đợi ta

xuống Nam Kinh, làm quan sáu tháng một năm, hãy xin từ chức cũng

kịp. Khi đó nếu nghĩa huynh không chịu thì ta mới treo áo, buộc ấn bỏ đi

anh ta không trách gì được”. Nghĩ thế ông tất lãnh bộ thuộc, dắt A Tử

xuống Nam Kinh.

Nam Kinh thời nhà Liêu tức là Bắc Kinh ngày nay, khi đó gọi là

Yên Kinh, còn gọi là U Đô, là kinh đô của U Châu. Thạch Kính Đường

nhà Hậu Tấn tự lập xưng đế được nước Liêu hết sức phù trì nên cắt Yên

Vân mười sáu châu để đền ơn. Yên Vân mười sáu châu bao gồm U, Kế,

Trác, Thuận, Đàn, Doanh, Mạc, Tân, Quy, Nho, Võ, Úy, Vân, Ứng,

Hoàn, Sóc đều là những nơi quan trọng ở Ký Bắc, Tấn Bắc.

Từ khi cắt đất cho nước Liêu rồi, các đời Hậu Tấn, Hậu Chu, Đại

Tống ba triều đại nhiều năm tranh đoạt nhưng vẫn không sao lấy lại

được. Mười sáu châu Yên Vân địa thế hiểm yếu, nước Liêu trú đóng

trọng binh, mỗi lần đem binh xuống đánh phương nam chạy thẳng một

mạch, toàn là bình nguyên khiến Đại Tống không có cách gì thủ ngự.

Tống Liêu giao binh hơn trăm năm qua, nhà Tống không thắng trận nào,

dĩ nhiên chủ yếu là vì binh giáp không bằng nhưng người Liêu từ cao

đánh xuống khống chế được chiến trường quả là đã chiếm được tiện nghi

thật lớn.

Tiêu Phong vào thành rồi, thấy đường sá ở Nam Kinh rộng rãi, thị tứ

phồn hoa hơn xa Thượng Kinh, người qua kẻ lại đều là dân chúng Nam

triều, nghe toàn là tiếng nói Trung Nguyên, thật chẳng khác gì đã quay

về Trung Thổ. Tiêu Phong và A Tử đều rất vui mừng, hôm sau liền ăn

mặc giản dị, đi du ngoạn khắp các nơi.

Thành Yên Kinh vuông vức ba mươi sáu dặm, bao gồm tám cửa.

Phía đông là cửa An Đông, cửa Nghinh Xuân; phía nam là cửa Khai

Dương, cửa Đan Phượng; phía tây là cửa Hiển Tây, cửa Thanh Tấn; còn

phía bắc là cửa Thông Thiên, cửa Củng Thần. Hai cửa phía bắc sở dĩ gọi

là Thông Thiên, Củng Thần7 ý nói thần phục, tuân theo thánh chỉ của

hoàng đế. Vương phủ của Nam Viện Đại Vương ở phía tây nam. Tiêu

Phong và A Tử du ngoạn hồi lâu, thấy phố chợ, công thự, chùa chiền,

đạo quan san sát khắp nơi đi xem một lúc không hết được.

Khi đó Tiêu Phong giữ chức Nam Viện Đại Vương, Yên Vân mười

sáu châu đều dưới quyền ông cai quản, cả phủ Đại Đồng ở Tây Kinh,

phủ Đại Định ở Trung Kinh cũng đều phải nghe hiệu lệnh. Uy vọng lớn

như thế không thể nào ở một chỗ doanh trướng bé nhỏ nên đành phải

dọn vào vương phủ.

Ông coi việc mấy ngày đầu váng mắt hoa, thật là khổ sở thấy Nam

Viện Khu Mật Sứ Gia Luật Mạc Ca tinh minh mẫn cán, quen thuộc chính

vụ nên bao nhiêu việc giao cho y cả.

Thế nhưng làm quan to cũng có chỗ hay, trong vương phủ những

dược phẩm quí giá nhiều không biết bao nhiêu mà kể, A Tử dùng làm

thức ăn hàng ngày. Nhờ bổ dưỡng như thế, nội thương của nàng mỗi

ngày một đỡ, đến đầu mùa đông đã có thể đi lại một mình. Nàng du

ngoạn trong thành Yên Kinh đã nhiều, về sau lại bảo Thất Lý theo hầu,

đưa đi chơi khắp các nơi chung quanh thành mười dặm.

Hôm đó tuyết đổ vừa ráo hạt, A Tử mặc điêu cừu, đến Tuyên Giáo

Điện nơi Tiêu Phong cư ngụ nói:

- Tỉ phu ơi, em ở trong thành này chán muốn chết, anh đưa em đi

săn nhé.

Tiêu Phong ở trong cung điện đã lâu, cũng thấy phiền muộn, nghe

nàng nói thế, trong bụng cũng mừng bèn sai thuộc hạ chuẩn bị ngựa để

ra ngoài săn bắn. Ông không muốn rềnh rang, chỉ đem theo vài tùy tòng

phục thị A Tử, lại ngại bách tính dòm ngó nên thay áo lông cừu quân sĩ

thường mặc, đem theo một cánh cung, một túi tên, nhảy lên ngựa cùng A

Tử đi ra cửa Thanh Tấn ở phía tây.

Đoàn người ra khỏi thành hơn chục dặm, chỉ săn được vài con thỏ.

Tiêu Phong nói:

- Bọn mình đến biên giới phía nam xem thế nào.

Ông chuyển đầu ngựa, quay sang hướng nam, lại đi hơn hai chục

dặm, thấy một con cheo8 từ trong bụi chạy ra. A Tử cầm mũi tên trên tay

để vào dây, ngờ đâu cánh tay hoàn toàn không có chút hơi sức nào, cánh

cung không giương lên được. Tiêu Phong đưa cánh tay trái từ phía sau

nàng thò qua nắm thân cung, tay phải cầm tay nàng kéo dây, buông tay

nghe vút một tiếng, vũ tiễn phóng ra, con cheo liền ngã ngay xuống.

Những người đi theo reo ầm cả lên.

Tiêu Phong bỏ tay ra nhìn A Tử mỉm cười, thấy nàng mắt rưng rưng,

lạ lùng hỏi:

- Sao thế? Không thích ta giúp em bắn dã thú ư?

A Tử nước mắt chảy dài xuống má thổn thức:

- Em... em thành phế nhân rồi, đến giương cung... mà cũng chẳng

xong.

Tiêu Phong dỗ dành:

- Đừng có nóng ruột, từ từ rồi sẽ hồi phục lực khí. Nếu như quả là

tương lai không khỏi, ta sẽ truyền cho cô cách tập nội công, thể nào cũng

tăng gia sức khỏe.

A Tử đang khóc bật cười nói:

- Tỉ phu đã nói thế thì phải giữ lời, thể nào cũng dạy em nội công

đấy nhé.

Tiêu Phong đáp:

- Được mà! Thể nào ta cũng dạy cho cô.

Trong khi đang nói chuyện, bỗng nghe từ phương nam có tiếng chân

ngựa rầm rập, một đại đội nhân mã từ trên mặt tuyết chạy tới. Tiêu

Phong đưa mắt nhìn về phía đó thấy đội này toàn là quan binh người

Liêu nhưng không giương cờ. Bọn quan quân vừa đi vừa nói chuyện xôn

xao, ca hát cực kỳ khoái trá, sau ngựa buộc khá nhiều tù binh, tưởng

chừng như vừa thắng trận trở về. Tiêu Phong nghĩ thầm: “Mình làm gì có

giao chiến với ai, những người này đánh trận ở đâu trở về thế này?”.

Ông thấy đoàn quan binh chuyển qua phía đông trở về thành liền quay

sang nói với kẻ tùy tòng:

- Ngươi ra hỏi xem đội lính kia làm gì về thế?

Gã tùy tòng liền đáp: “Vâng” rồi hỏi:

- Có phải các anh em “đi gặt” về đấy chăng?

Y giục ngựa chạy thẳng đến chỗ bọn kia. Khi tới gần y nói mấy câu,

bọn quan binh nghe thấy có Nam Viện Đại Vương đang ở tại đây liền

lớn tiếng reo hò, lập tức nhảy xuống ngựa, dây cương cầm tay rảo bước

đi tới trước Tiêu Phong, khom lưng hành lễ cùng nói:

- Đại vương thiên tuế!

Tiêu Phong giơ tay chào lại đáp:

- Miễn lễ!

Ông thấy đội binh này chừng hơn tám trăm người, trên lưng ngựa

chất đầy quần áo khí vật, số người bị bắt cũng phải đếm bảy tám trăm,

phần lớn là đàn bà còn trẻ nhưng cũng có một số thanh niên, ăn mặc đều

theo lối người Tống, người nào người nấy khóc khóc mếu mếu.

Gã đội trưởng nói:

- Hôm nay đến lượt đội Hắc Lạp Đốc chúng tôi “đi gặt”, nhờ phúc

đại vương nên thu được cũng kha khá.

Y quay lại quát:

- Các ngươi đem những thiếu nữ xinh đẹp nhất, vàng bạc châu báu

quí giá nhất tất cả dâng lên, xin đại vương thiên tuế thu dụng.

Các quan binh cùng reo lên:

- Tuân lệnh!

Đem ra hơn hai chục cô gái đẩy đến trước đầu ngựa Tiêu Phong, lại

lấy ra rất nhiều kim ngân trang sức bỏ đầy một tấm chăn da. Các quan

binh chăm chú nhìn Tiêu Phong, ánh mắt đầy vẻ sùng kính trọng vọng,

hiển nhiên nếu được Nam Viện Đại Vương thu dụng đám con gái và

những món ngọc ngà này thì quả là vinh hạnh.

Hôm xưa Tiêu Phong ở ngoài Nhạn Môn Quan đã thấy quan binh

nhà Đại Tống bắt người Khất Đan, lần này lại thấy người Khất Đan đi

bắt người Đại Tống, những người bị giải đi ai nấy thê thảm khốn khổ

chẳng khác gì nhau. Ông ở nước Liêu đã lâu, hiểu biết quân tình Liêu

quốc. Triều đình nước Liêu không cấp lương cho lính, cũng chẳng trả

tiền, quan binh cần gì đều phải sang đoạt của bên địch, mỗi ngày sai lính

qua cướp của dân bên Đại Tống, Tây Hạ, Nữ Chân, Cao Ly các nước lân

cận, gọi là “gặt hái”, thực ra so với cường đạo cũng chẳng khác gì. Quan

binh Tống triều cũng lại đi qua “gặt hái” của người Liêu để trả thù.

Thành thử dân chúng ở vùng biên giới khốn khổ vô cùng, ngày nào cũng

nơm nớp, sáng lo chiều lo. Tiêu Phong thấy phương thức đó tàn nhẫn vô

đạo, có điều mình không tính chuyện lâu dài nên định bụng sẽ chỉ vờ vịt

làm việc một thời gian rồi xin từ quan ẩn cư, thành thử các việc quân

quốc đại sự không đưa ra chủ trương gì, bây giờ chính mắt thấy thảm

trạng những người bị bắt, không khỏi chạnh lòng thương hại bèn hỏi gã

đội trưởng:

- Các ngươi ở đâu... “gặt hái” ở đâu về thế?

Gã đội trưởng cung kính đáp:

- Bẩm cáo đại vương, chúng tôi “đi gặt” tại bên ngoài cảnh giới

Trác Châu, phía bên Đại Tống. Từ khi đại vương tới đây, thuộc hạ không

dám đi kiếm lương thực gần quanh bản châu nữa.

Tiêu Phong nghĩ thầm: “Nghe y nói, trước đây bọn họ đi cướp của

người Tống ngay tại bản châu”. Ông dùng tiếng Hán hỏi một thiếu nữ

đang đứng trước đầu ngựa:

- Cô là người ở đâu?

Người con gái kia lập tức quì xuống, khóc nói:

- Tiểu nữ là người ở Trương gia thôn, cầu đại vương khai ân, thả cho

tiểu nữ trở về đoàn tụ với cha mẹ.

Tiêu Phong quay đầu nhìn những người kia. Tất cả mấy trăm người

bị bắt đều quì xuống nhưng trong đám người có một thanh niên đứng

sừng sững không chịu quì.

Thanh niên đó trạc độ mười sáu, mười bảy, mặt dài mà gầy, cằm

nhọn, đôi mắt láo liên bất định. Tiêu Phong liền hỏi:

- Cậu bé kia, nhà ngươi ở đâu?

Thanh niên kia đáp:

- Tiểu nhân có một bí mật đại sự, muốn bẩm riêng lên đại vương.

Tiêu Phong đáp:

- Được, ngươi lại đây!

Thanh niên đó hai tay bị dây thừng trói chặt, nói:

- Xin đại vương đứng xa bộ thuộc, việc này không thể để người

khác nghe thấy được.

Tiêu Phong nổi bụng hiếu kỳ nghĩ thầm: “Một đứa bé thế này làm

gì mà biết được chuyện cơ mật đại sự? Phải rồi, ngươi từ biên giới phía

nam qua đây, chắc là biết chuyện gì về quân tình Đại Tống chăng?”. Y

là người Tống, đem chuyện cơ mật bẩm báo cho người Khất Đan, là loại

Hán gian vô liêm sỉ nên ông đã có bụng khinh khi, nhưng y nói là có

chuyện trọng đại, có nghe cũng không mất mát gì, bèn phóng ngựa ra

cách khoảng chục trượng, giơ tay vẫy:

- Lại đây!

Gã thanh niên kia liền đi theo, giơ hai tay lên nói:

- Xin đại vương cắt dây trói, tiểu nhân có vật để trong túi muốn

trình lên.

Tiêu Phong rút phắt yêu đao, giơ lên chém xuống, thế đao tưởng

chừng chặt y ra làm đôi, nhưng lại thật chuẩn xác, chỉ cắt đúng sợi dây

thừng trói hai tay. Gã thanh niên hoảng hốt, lùi lại hai bước, nhìn Tiêu

Phong xuất thần. Tiêu Phong mỉm cười, tra đao vào vỏ hỏi:

- Ngươi có cái gì?

Gã thanh niên đưa tay vào túi, lấy một vật gì đó ra cầm trên tay nói:

- Đại vương xem thì biết.

Nói xong y đến trước đầu ngựa Tiêu Phong, ông liền đưa tay ra đón

lấy. Đột nhiên, gã thanh niên cầm vật ở trong tay ném thẳng vào mặt

Tiêu Phong, Tiêu Phong liền vung roi lên đánh văng vật đó ra ngoài, thì

ra đó là một cái túi nhỏ. Cái túi đó rơi xuống đất, phấn trắng tung tóe

khắp nơi, là một túi bột vôi sống, nếu trúng mặt vào mắt thì sẽ mù ngay.

Đây là một vật thấp hèn mà bọn giang hồ hạng ba, trộm gà bắt chó

thường dùng.

Tiêu Phong hừ một tiếng, nghĩ thầm: “Thằng bé này lớn mật, thì ra

không phải là Hán gian”. Ông gật đầu hỏi:

- Ngươi tên chi? Cớ sao lại có bụng hại ta?

Thanh niên đó mím chặt môi, không trả lời. Tiêu Phong dịu mặt nói:

- Ngươi mau nói ta nghe, ta sẽ tha mạng cho.

Thanh niên đáp:

- Ta báo thù cho cha mẹ không xong, còn gì để nói nữa.

Tiêu Phong hỏi:

- Cha mẹ ngươi là ai? Không lẽ bị ta giết sao?

Gã thanh niên bước tới hai bước, mặt đầy vẻ bi phẫn, chỉ vào mặt

Tiêu Phong lớn tiếng nói:

- Kiều Phong, ngươi giết chết cha ta, mẹ ta, cả bác ta, ta... ta giận

không được ăn thịt, rút gân lột da, băm vằm ngươi thành vạn mảnh.

Tiêu Phong nghe y gọi cái tên cũ ngày xưa của mình, lại bảo mình

giết cha mẹ và bá phụ, ắt hẳn là kẻ thù ngày trước ở Trung Nguyên, bèn

hỏi:

- Bá phụ ngươi là ai? Phụ thân là ai?

Thanh niên đáp:

- Ta chẳng muốn sống làm gì nên cũng cần cho ngươi biết, nam nhi

họ Du ở Tụ Hiền Trang có phải là phường tham sống sợ chết đâu!

Tiêu Phong “À” lên một tiếng nói:

- Thì ra ngươi là con cháu của Du thị song hùng, lệnh tôn có phải là

Du Câu Du nhị gia không?

Ông ngừng lại một chút nói tiếp:

- Hôm đó ta bị quần hùng Trung Nguyên vây đánh ở quí trang, bắt

buộc phải ứng chiến, không thể làm cách nào khác hơn. Lệnh tôn và

lệnh bá phụ đều tự vẫn mà chết.

Ông nói tới đây lắc đầu tiếp:

- Ôi, tự vẫn hay bị giết thì cũng vậy. Hôm đó ta đoạt binh khí của

bá phụ và gia gia ngươi để đến nỗi ép họ phải tự vẫn. Tên ngươi là gì?

Gã thanh niên ưỡn ngực, lớn tiếng đáp:

- Ta tên là Du Thản Chi. Ta không cần ngươi phải giết, ta học được

cái gương sáng của bá phụ và gia gia rồi.

Nói xong y thò tay vào ống quần, lấy ra một thanh đoản đao, giơ lên

đâm luôn vào ngực. Roi ngựa của Tiêu Phong lại vung ra, cuốn lấy con

dao, đoạt luôn. Du Thản Chi giận dữ, chửi liền:

- Ta muốn tự vẫn cũng không cho hay sao? Tên Liêu cẩu đáng chết

kia, bụng dạ ngươi độc ác thật.

Lúc này A Tử đã giục ngựa chạy đến bên Tiêu Phong, quát lên:

- Thằng tiểu quỉ kia, sao dám mở miệng nhục mạ người khác?

Ngươi muốn chết ư, ha ha, đâu có dễ thế.

Du Thản Chi đột nhiên nhìn thấy một cô gái xinh đẹp thanh tú, ngơ

ngẩn nhìn, không nói ra lời. A Tử hỏi:

- Tiểu quỉ, cái cảnh mù lòa thật thích thú, rồi đây ngươi sẽ được

nếm mùi.

Nàng quay lại nói với Tiêu Phong:

- Tỉ phu, tên tiểu tử này tàn độc quá, dám dùng vôi sống để hại anh,

vậy mình lấy ngay vôi đó phế đôi mắt nó cho biết.

Tiêu Phong lắc đầu, quay sang nói với tên lãnh binh đội trưởng:

- Bọn người Tống đi gặt bắt được hôm nay, giao lại cho ta có được

chăng?

Gã đội trưởng mừng rỡ không để đâu cho hết vội đáp:

- Được đại vương để mắt tới thì còn gì hơn, xin đa tạ ân điển đại

vương.

Tiêu Phong nói:

- Những quan binh nào hiến tù binh bắt được cho ta, trở về nhớ đến

vương phủ lãnh thưởng.

Các quan binh vui vẻ đáp:

- Chúng bộ thuộc thành tâm dâng lên đại vương, không cần phải

thưởng.

Tiêu Phong nói:

- Các ngươi để những kẻ bắt được lại đây, về thành trước đi, nhớ

đến lãnh thưởng.

Bọn quan binh khom lưng tạ ơn. Gã đội trưởng hỏi:

- Nơi đây dã thú không có bao nhiêu, chắc đại vương muốn dùng

bọn Tống chư làm bia sống chứ gì? Trước đây Sở Vương vẫn thích trò

này lắm. Chỉ tiếc hôm nay chúng tôi bắt được phần lớn là đàn bà, chạy

không nhanh. Lần sau chúng tôi sẽ cố bắt những con lợn Tống khỏe

mạnh.

Nói xong hành lễ dẫn binh đi. “Muốn dùng bọn Tống chư làm bia

sống chứ gì”, câu đó lọt vào tai, Tiêu Phong không khỏi rùng mình, trước

mắt như hình dung ra cái cảnh tàn bạo của Sở Vương năm xưa: mấy trăm

người Tống chạy thục mạng trên mặt tuyết chẳng khác gì dã thú, trong

khi quí nhân người Khất Đan cười sằng sặc, giương cung lắp tên bắn chết

từng người một. Nếu như có người Tống nào chạy được xa, người Khất

Đan cưỡi ngựa rượt theo, chẳng khác gì săn nai, đuổi chồn, rồi thì ai ai

cũng chết cả. Cái thảm cảnh đó, người Khất Đan thuận mồm nói ra,

chẳng có gì là lạ, hẳn là trước đây đã quen. Ông đưa mắt nhìn qua bọn

người bị bắt, thấy ai nấy mặt tái mét, run lẩy bẩy trong gió lạnh. Những

người dân nơi biên tái này có kẻ biết tiếng Khất Đan, đã từng nghe

chuyện “bắn bia sống”, bây giờ sợ đến mất vía.

Tiêu Phong thở dài nhìn xuống núi non trùng điệp ở phương Nam

nghĩ thầm: “Nếu như không có người tiết lộ thân thế thì đến giờ này ta

vẫn nghĩ mình là dân Đại Tống. Ta cùng bọn người này nói chung một

thứ tiếng, ăn cùng một thứ cơm, có khác gì đâu? Vì sao ai cũng là người,

lại phải gượng gạo chia ra nào là Khất Đan, Đại Tống, Nữ Chân, Cao Ly

làm chi? Ngươi sang đất ta ngươi “gặt lúa”, ta sang đất ngươi ta đốt nhà?

Ngươi chủi ta là chó Liêu, ta mắng ngươi là lợn Tống?”. Trong nhất thời,

lòng ông cảm khái dạt dào như sóng biển.

Ông nhìn lại thấy đám quan binh đi kiếm lương kia đã khuất nẻo

không còn đâu nữa bèn quay qua nói với đám nạn dân:

- Hôm nay ta thả các ngươi về, mau mau chạy đi thôi.

Bọn người bị bắt vẫn tưởng Tiêu Phong thả cho họ chạy, sau đó sẽ

bắn chết nên vẫn chần chờ không chịu đi. Tiêu Phong lại tiếp:

- Các ngươi về rồi, tốt nhất rời xa biên giới, để khỏi bị người ta đi

“gặt lúa” bắt lần nữa. Ta chỉ cứu các ngươi được một lần, không cứu

được lần thứ hai đâu.

Những nạn nhân bây giờ mới tin là thật, vui mừng reo hò, tất cả

cùng quì xuống khấu đầu nói:

- Đại vương ân đức tày non, tiểu dân về nhà khấn vái cầu cho đại

vương sống lâu giầu bền, ngôi cao mãi mãi.

Bọn họ sớm biết người dân Tống bị bọn Liêu binh “gặt lúa” bắt

được rồi, trừ người thật giàu có có tiền bạc gấm vóc đem ra chuộc mạng,

còn không đều bỏ thân xứ người đến nắm xương cũng không mang được

về nhà. Tống Liêu hai bên giao tranh lâu năm, người có tiền sớm chạy

vào sâu nội địa rồi, còn lại sống nơi biên cảnh chỉ toàn là dân nghèo

khổ, làm gì có ai giàu có mà đem tiền chuộc mạng? Ai cũng biết mình

thật không bằng con cừu con ngựa, được vị đại vương nước Liêu tha cho

về thật mừng rỡ không đâu kể xiết.

Tiêu Phong thấy những nạn dân mặt tươi rói, người nọ dìu người kia

đi về hướng nam nghĩ thầm: “Người Khất Đan ta bắt họ tới đây, rồi lại

thả cho về, trên đường đi kinh hoàng một phen, lại chịu biết bao khổ sở,

ta nào có gì gọi là ân đức đối với họ?”.

Ông thấy những người khốn khổ kia đi đã xa, còn Du Thản Chi vẫn

đứng sừng sững tại chỗ, bèn nói:

- Sao ngươi không chạy đi? Ngươi trở về Trung Nguyên có tiền bạc

gì không?

Ông vừa nói vừa thò tay vào túi, định cho y ít kim ngân, nhưng trong

mình không mang theo tiền tài, mò vào chỉ thấy một cái bao giấy dầu

nhỏ. Ông trong lòng chua xót, trong chiếc bao chỉ có một bộ Dịch Cân

Kinh viết bằng chữ Phạn mà hôm trước A Châu ăn trộm được ở chùa

Thiếu Lâm, ép mình phải cầm lấy, mà nay người mất kinh còn, làm sao

không buồn bã? Ông tiện tay bỏ chiếc bao trở lại vào túi nói:

- Ta hôm nay đi săn, không mang theo tiền, nếu ngươi không có gì

tiêu thì theo ta vào thành mà lấy.

Du Thản Chi lớn tiếng nói:

- Họ Kiều kia, ngươi muốn giết thì cứ giết, muốn lóc da xẻ thịt thì

cứ việc chứ đừng dùng ngụy kế làm nhục ta? Họ Du này dù có chết đói

cũng không thèm nhận một văn tiền của ngươi đâu!

Tiêu Phong nghĩ lại y nói không sai, mình là kẻ thù giết cha, mối

thâm cừu bất cộng đái thiên kia làm sao hóa giải, có nói thêm cũng vô

ích bèn bảo:

- Ta không giết ngươi đâu! Ngươi muốn báo thù thì lúc nào đến

kiếm ta cũng được.

A Tử vội nói:

- Tỉ phu, thả y không được. Tên tiểu tử này báo thù không dùng

cách thức đàng hoàng chân chính, chỉ dùng thủ đoạn hạ lưu hèn hạ. Chi

bằng nhổ cỏ nhổ tận rễ để khỏi di họa về sau.

Tiêu Phong lắc đầu:

- Trên giang hồ đâu đâu cũng đầy chông gai, chỗ nào cũng toàn

hung hiểm, ta đều đi qua cả rồi. Cỡ người như y không làm gì nổi ta đâu.

Hôm xưa ta khiến cho bá phụ và cha y phải tự vẫn, quả thực không phải

chủ mưu, nhưng món nợ máu đó ta thiếu đã lâu rồi, việc gì phải giết cả

con cháu Du thị song hùng nữa làm chi?

Ông nói tới đây, thấy lòng nguội lạnh bèn bảo:

- Thôi mình đi về, hôm nay chẳng có gì mà săn nữa.

A Tử bĩu môi nói:

- Em thấy nếu như được bắt gã này về hành hạ một phen cho bõ

ghét thì cũng thú vị! Anh thả y rồi, về thành còn có gì để vui đâu?

Thế nhưng nàng không dám cãi lời Tiêu Phong, đành quay đầu

ngựa, cùng Tiêu Phong sóng cương trở về, đi được mấy trượng quay đầu

nói:

- Tiểu tử kia, ngươi về luyện thêm một trăm năm nữa, lúc đó hãy

kiếm tỉ phu ta báo thù.

Nói xong nàng cười khẩy, giơ roi quất ngựa chạy đi.

Chú Thích:

1 Trướng của nhà vua (xem ở dưới)

2 Quân đi dò thám, tiền sát viên

3 Điểm này Kim Dung không biết căn cứ vào đâu. Theo sử sách, ngay trong giai

đoạn thịnh trị nhất, nước Liêu cũng chỉ độ hơn ba triệu người, trong đó người Khất

Đan chừng non một triệu, còn lại là người Hán dưới quyền cai trị của họ (do việc

đánh chiếm và nhường đất của Tống triều). Tuy dân số không đông, họ rất thiện

chiến. Trong thời kỳ này, người Nữ Chân chỉ mới là một bộ tộc, cũng dưới quyền

kiểm soát của người Khất Đan chứ chưa tách riêng thành một nước riêng biệt. Với

dân số như thế thật khó mà có được một đội quân non một triệu người. Hơn nữa, số

binh lính điều động trong một chiến dịch thường chỉ một phần nào trong toàn bộ

binh lính trong nước chứ không phải muốn đem bao nhiêu thì đem. Đi săn mà mang

theo 10 vạn quân là điều khó tin.

4 ỷ mình không kiêng nể gì cả

5 Chính sử chép như sau: Vua Khất Đan Đạo Tông Gia Luật Hồng Cơ đi săn ở

Loan Hà Thái Tử Sơn, Hoàng thái thúc Gia Luật Trọng Nguyên khởi binh tấn công

hành cung (nơi vua đang ở), Nam Viện Khu Mật Sứ Gia Luật Nhân Tiên đánh trả,

Gia Luật Trọng Nguyên thua chạy, tự sát (Bá Dương: Trung Quốc Lịch Sử niên

biểu – tập hạ [in lần thứ sáu] Tinh Quang Đài Bắc 2001 tr. 963-964)

6 tức Bắc Kinh ngày nay

7 Củng Thần là tinh tú chầu về ý nói nhà vua như sao Bắc Thần (Bắc Cực) ở giữa,

các ngôi sao đều chạy theo.

8 Tức con chương, một loại hươu nhưng nhỏ hơn (moschus chinloo)

/