The Great Escape

Chương 26-1

Khi bộ phim quay xong, Panda trở lại đảo, cứ như thể việc đó sẽ mang anh gần với cô hơn. Căn nhà đứng đó ẩm ướt và cô đơn trong một buổi chiều tháng 11 buồn.

Lá rụng đầy ống thoát nước trên mái, mạng nhện chăng đầy cửa sổ và những cành cây nhỏ rơi rụng sắp sân sau cơn bão mới tan. Anh bật lò sưởi lên và đi bộ quanh những căn phòng vắng lặng, vai anh gồng lên với bàn tay nhét trong túi quần.

Anh đã không tìm một người để trông nom nhà cửa nên đồ đạc đều khoác một lớp bụi mỏng, nhưng dấu hiệu Lucy để lại vẫn còn ở mọi nơi: trong chiếc bát đựng những viên đá nhặt ngoài bờ biển đặt trên bàn trà ở phòng đón nắng, trong cách đồ đạc mang lại cảm giác thoải mái theo cách sắp xếp của cô, trong những chiếc kệ đồ gọn gàng và bàn ghế ngăn nắp, chỉn chu. Căn nhà không còn cảm giác như đang chờ đợi gia đình Remington trở lại, nhưng nó cũng không giống như là nhà của anh. Nó là của cô ấy. Nó đã là như vậy kể từ khi cô ấy đặt bước chân đầu tiên vào đây.

Mưa ngừng. Anh lấy chiếc thang gấp cũ trong kho ra và dọn dẹp đường thoát nước trên mái, để phòng trường hợp anh có để ngã nhào do trượt chân. Anh ném một gói thức ăn đông lạnh kinh khủng của Temple còn lại vào lò vi sóng, mở một lon Coke rồi sau đó tự tra tấn mình bằng cách vào ngủ trong phòng ngủ của Lucy, nơi trước khi cô tới là phòng của anh. Ngày hôm sau, anh ăn một bữa sáng lạnh ngắt, uống hai ly cà phê và quyết định đi băng qua rừng.

Ngôi nhà của Bree khoác một tấm áo mới với lớp sơn trắng và mái mới. Anh gõ cửa sau nhưng Bree không trả lời.

Qua cửa sổ, anh thấy một bình hoa trên bàn bếp và một vài tập vở viết, tức là cô ấy và Toby vẫn còn ở đây. Vì chẳng có việc gì khác để làm, anh ngồi trên bậc thềm và chờ đợi.

Một giờ sau, chiếc xe Cobalt cũ của cô ấy xuất hiện. Anh đứng lên khỏi chiếc ghế mây và bước vài bước trên thềm. Cô dừng lại và bước xuống xe. Trông cô ấy không có vẻ phiền khi thấy anh, chỉ là chút bối rối.

Cô ấy trông khác với người phụ nữ anh vẫn nhớ – không có vẻ mệt nhọc vì công việc, rất thoải mái và không còn quá gầy như trước. Cô mặc quần bò và một chiếc áo lông cừu màu nâu sáng với mái tóc cuộn gọn gàng thành một búi đơn giản phía sau đầu. Cô ấy bước về phía anh với một vẻ tự tin hoàn toàn mới.

Anh nhét tay và túi quần. “Căn nhà trông tuyệt quá.”

“Chúng tôi đang chuẩn bị cho thuê nó mùa hè tới.”

“Thế còn lũ ong của cô thì sao?” Lucy sẽ quan tâm tới điều này.

“Tôi đã sắp xếp với gia đình sở hữu vườn cây ăn quả bên kia để chuyển những chiếc tổ sang bên đó.” Anh gật đầu. Cô chờ đợi. Anh chuyển trọng tâm sang chân kia. “Còn Toby thì sao?”

“Đứa trẻ hạnh phúc nhất trên đảo. Giờ nó đang ở trường.”

Anh cố nghĩ ra gì đó để nói tiếp và rồi cuối cùng lại hỏi câu hỏi anh chưa bao giờ có chủ ý muốn nói ra. “Cô có nói chuyện với Lucy không?”

Cô ấy giống Temple. Gật đầu nhưng không tiết lộ gì hơn cả.

Anh rút tay ra khỏi túi quần và bước xuống. “Tôi cần nói với cô về vài chuyện.” Ngay lúc đó, chiếc Cadilac của Mike lái vào. Mike nhảy khỏi xe, cánh tay rộng mở, trông anh ấy cứ như gặp lại Panda là điều hay ho nhất trong ngày vậy. “Này, người lạ! Mừng anh trở lại.”

Tóc anh ta ngắn hơn, không còn quá chỉn chu theo kiểu cách, và ngoại trừ đồng hồ ra thì anh ta không đeo bất cứ phụ kiện nào cả. Anh ta không bình thản, hạnh phúc, một gã đàn ông chẳng bị ám ảnh bởi bất cứ ký ức đen tối nào. Panda giấu cảm giác khó chịu bên trong mình. Đó không phải là lỗi của Moody khi anh ta kiểm soát tốt hành vi của mình, điều Panda không thể.

Mike vòng tay quanh Bree. “Cô ấy đã nói với anh rằng cuối cùng chúng tôi cũng có một buổi hẹn chưa? Đêm giao thừa. Vụ thương lượng khó khăn nhất tôi từng làm đấy.”

Bree nhướn mày với anh ta. “Toby mới là người thỏa thuận.” Mike cười toe. “Cha nào con nấy.”

Bree cười và hôn lên khóe môi anh.

“Chúc mừng cả hai người,” Panda nói.

Thời tiết dần ấm hơn nên Mike đề nghị họ ngồi bên ngoài. Panda ngồi lại chiếc ghế lúc nãy anh vừa rời khỏi, và Bree ngồi lên chiếc còn lại trong khi Mike vắt vẻo trên lan can. Anh ta nói về việc Bree làm tốt công việc kinh doanh ra sao, rồi khoe về một danh sách những công việc Toby mới hoàn thành. “Cậu nhóc và giáo viên đã cùng nhau xây dựng nội dung cho một chương về lịch sử người da màu.”

“Toby còn biết nhiều hơn cả cô giáo cơ,” Bree nói đầy tự hào.

“Nhưng anh tới đây để nói với tôi chuyện gì vậy?” Mike ở đây khiến việc nói ra đã khó khăn nay càng phức tạp. “Không có gì đâu. Tôi có thể trở lại lúc khác.” Bree nhíu mày. “Là về Lucy ư?”

Mọi thứ đều có liên quan tới Lucy. “Không,” anh nói. “Là một vấn đề riêng tư.”

“Tôi sẽ rời đi,” Mike nói thoải mái. “Tôi có vài việc vặt cầm làm.”

“Đừng đi.” Cô liếc nhìn anh. “Mặc dù với vẻ ngoài đó nhưng Mike là người kín miệng nhất trên đảo đấy. Và tôi cũng sẽ kể hết với anh ấy dù anh nói bất cứ điều gì với tôi đi chăng nữa.” Panda ngập ngừng. “Cô có chắc không? Chuyện này… liên quan tới gia đình cô. Cha của cô.”

Cô nhìn thận trọng. “Nói với tôi đi.”

Và anh nói. Anh ngồi đó, trên chiếc ghế mây cọt kẹt, nghiêng người về phía cô, cẳng tay anh đặt vững chãi trên đầu gối, và rồi anh kể cho cô về mối quan hệ của cha cô và mẹ anh, sau đó là về Curtis.

Khi anh kết thúc, nước mặt ngân đầy trong mắt Bree. “Tôi xin lỗi.”

Panda nhún vai.

Mike bước tới đứng bên cạnh cô. Bree tìm trong túi mình lấy khăn giấy. “Sau khi cha tôi mất, mẹ đã chắc chắn rằng chúng tôi biết ông là một người chồng tồi tệ tới mức nào, nên chuyện này cũng không khiến tôi quá ngỡ ngàng. Nhưng không ai trong chúng tôi tưởng tượng tới chuyện ông có một người con riêng.” Cô xì mũi.

Mike vòng tay quanh lưng ghế cô và trao cho Panda cái nhìn kiên định, những hành động vô tâm của anh ta biến mất khi anh ta đánh giá xem câu chuyện này có khiến người phụ nữ mình yêu bị tổn thương hay không. “Tại sao anh mua căn nhà?”

Panda thích cái cách Mike muốn bảo vệ Bree, vì thế anh nói với họ sự thật. “Một vài kiểu biến đổi của trả thù chăng. Tôi ghét cha cô, Bree. Tôi tự nói với chính mình rằng tôi căm hận cả gia đình cô, nhưng hóa ra đó chỉ đơn giản là ganh tị.” Panda dịch chuyển trên ghế và rồi anh tự khiến bản thân mình bất ngờ. “Tôi không tỉnh táo khi quyết định mua ngôi nhà. Sau khi rời khỏi quân đội, tôi gặp vấn đề với chứng rối loạn căng thăng sau sang chấn.”

Anh nói về nó cứ như chỉ đơn giản nói mình bị mắc một cơn cảm cúm thôi vậy.

Vẻ mặt hai người vừa lo lắng lại vừa thông cảm đan xen, nhưng không ai trong số họ nhảy dựng lên hoặc chạy xung quanh để tìm vũ khí phòng thân cả.

Anh cần cảm ơn Jerry Evers. Kristi đã tìm đúng người để anh chia sẻ, không phải một tay bác sỹ tư vấn vớ vẩn nào đó, chính anh ta cũng đã trải qua chuyện đó và anh ta hiểu rõ chính xác cảm giác kinh khủng và tồi tệ nhường nào Panda phải đối mặt khi con quái vật anh vẫn đang chiến đấu vùng lên và khiến anh làm người khác bị tổn thương.

Bree có hứng thú hơn với tiết lộ của Panda về Curtis. “Anh có bức ảnh nào của nó không?” Anh chưa từng nghĩ tới chuyện này nhưng anh mừng vì cô đã hỏi.

Anh lấy ví ra. “Tôi sẽ gửi cho cô những bức khác khi tôi trở lại Chicago. Đây là bức duy nhất tôi mang theo người.” Anh lấy tấm ảnh chụp Curtis hồi cuối cấp. Nó hơi nhàu, nhạt màu một chút, nhưng chữ THỬ THÁCH trên chiếc áo phông cậu bé mặc vẫn còn nhìn thấy rõ. Curtis đang mỉm cười, phần niềng răng hơi quá khổ so với khuôn miệng nhỏ của cậu. Bree nhận lấy và nhìn bức ảnh chăm chú. “Nó… trông giống anh Doug của tôi.” Mắt cô lại dâng đầy. “Các anh trai của tôi cần được biết về Curtis. Và họ cũng cần được biết về anh nữa. Khi nào anh sẵn sàng, tôi muốn giới thiệu anh với họ.”

Lại một điều khác anh không ngờ tới. “Tôi rất hân hạnh,” anh nghe mình lên tiếng.

Khi cô giơ tấm ảnh ra để trả lại anh, ngón trỏ của cô vuốt dọc theo tấm ảnh đầy chìu mến.

“Giữ nó đi,” anh nói. Và bằng cách nào đó, quyết định đó cũng trở nên vô cùng đúng đắn.



Anh đang chạy tập buổi sáng muộn hôm sau khi chuông điện thoại chợt reo vang.

Anh không bao giờ mang điện thoại theo người, nhưng giờ khi có cấp dưới phải phụ trách, anh phải giữ liên lạc thường xuyên và anh không thích điều này. Công việc kinh doanh của anh có thể phát triển nhưng anh vẫn thích được làm việc một mình hơn.

Anh liếc nhìn màn hình. Một số gọi từ khu vực Bờ Đông.

Anh không nhận ra số ai, nhưng anh biết mã vùng. Anh ngay lập tức chậm lại và trả lời. “Patrick Shade đây.”

Giọng nói anh vẫn luôn mong mỏi được nghe thấy giờ đang ồn ào truyền tới, rất rõ ràng, rất lớn, và vô cùng giận dữ. “Tôi có thai, anh là đồ khốn.”

Và rồi liên lạc bị cắt đứt.

Anh bước loạng choạng về bên lề đường, đánh rơi chiếc điện thoại, rồi lại chộp lấy nó và ấn gọi lại. Tay anh run lẩy bẩy và phải mất hai lần anh mới ấn đúng số cô.

“Anh muốn gì?” cô hét lên.

Ôi, Chúa. Anh phải tỏ ra bình tĩnh. Anh mở miệng muốn lên tiếng – có trời mới biết anh muốn nói gì? – nhưng cô vẫn đang la hét và anh không có cơ hội mở lời.

“Tôi đúng là điên rồi mới đang nói chuyện với anh thế này! Anh và cái phẫu thuật thắt ống dẫn tinh của anh.” Cô thốt ra từng từ khinh thị.

“Em đang ở đâu?”

“Anh quan tâm làm gì?” cô phản ứng. “Tôi xong chuyện với anh rồi, nhớ không?” Cô lại cúp máy với anh lần nữa.

Chúa ơi… Lucy mang thai. Đứa con của anh. Anh cảm thấy như đang bị nhấn chìm xuống hồ nước vậy.

Khi anh cố gắng gọi lại, anh nhận được yêu cầu đề lại lời nhắn. Anh vừa chợt nghĩ ra nơi cô sẽ tới, và chẳng mất một lúc lâu sau, anh đã có mặt ở bến phà. Sáu giờ sau, anh đáp máy bay xuống Boston.

Buổi tối đến và trời đen kịt khi anh đỗ chiếc xe mới thuê vào khu nhà nơi anh nghĩ cô đang ở. Không có ai trả lời khi anh ấn chuông ngoài cổng.

Anh thử ấn thêm vài lần nữa cho tới khi cuối cùng cũng đạt được thành tựu, một ông già nhàn nhã với chẳng có việc gì hơn ngoài theo dõi hàng xóm của mình.

“Cô ấy rời đi sáng nay với một chiếc vali. Anh biết cô ấy là ai đúng không? Con gái của Tổng thống Jorik đấy? Cô ấy rất thân thiện.” Anh gọi cho cô một lần nữa khi đang đứng trên vỉa hè, và lần này cô nghe máy. Anh không cho cô cơ hội lên tiếng. “Tôi đang ở Boston,” anh nói. “Bảo vệ ở khu nhà em làm ăn vớ vẩn kinh khủng.”

“Anh cũng vậy thôi.”

“Em đi đâu rồi?”

“Tôi về nhà với ba mẹ rồi. Anh nghĩ tôi có thể đi đâu được chứ? Và giờ tôi vô cùng chưa sẵn sàng nói chuyện với anh.”

“Khó khăn đây.” Lần này anh là người cúp máy trước.



Sự quyết tâm dễ dàng đến với anh, nhưng đó là khi anh có cả một kế hoạch với các bước phải hoàn thành. Anh biết mình phải giải thích với Bree trước khi anh có thể đi bước tiếp theo tới giành lại Lucy, nhưng anh đã lên kế hoạch để dành nguyên một tuần nói chuyện với Jerry Evers và chắc chắn Jerry chấp nhận rằng Panda đã có thể kiểm soát chứng rối loạn của mình.

Rồi sau đó anh dự định sẽ viết một bản ghi chú nhỏ và ghi nhớ nó để chắc chắn mình sẽ không làm tổn thương ai lần nữa. Và giờ anh ở đây, trên một chuyến bay muộn tới Washington, hoàn toàn không chuẩn bị gì và cả tương lai của anh đang bị đe dọa.

Anh tới sân bay Dulles ở Washington khi trời vẫn tối mù mịt. Dù quá háo hức để có thể ngủ nhưng anh không thể xuất hiện ở cửa nhà Jorik với bộ dạng như hiện tại được, vì thế anh đặt phòng khách sạn và nằm thao thức ở đó tới sáng. Mặt trời vừa hé, anh tắm rửa và cạo râu. Không có gì ngoài một tách cà phê trong bụng, anh lên đường tới Middleburg, khu dân cư giàu có nằm ở trung tâm của khu vực nuôi ngựa và săn bắn ở Virginia.

Khi anh lái xe dọc theo con đường lộng gió, đi qua những xưởng rượu nho và những trang trại ngựa rộng lớn, anh càng ngày càng thấy mình đáng thương.

Sẽ ra nếu giờ đã quá muộn? Sẽ ra sao nếu cô bình tĩnh lại và nhận ra cô có thể làm tốt mọi chuyện mà không cần anh? Cho tới khi anh tới khu biệt thự nhà Jorik, người anh đẫm mồ hôi.

Đứng ở cổng không thấy được ngôi nhà. Chỉ có hàng rào kim loại cao ngất và hệ thống cổng điện tử tinh vi nói cho anh biết anh đã tới đúng nơi. Anh đỗ xe trước cổng và nhìn vào những chiếc camera giám sát. Khi lấy điện thoại ra anh chỉ biết chắc có một điều duy nhất. Nếu giờ anh chùn bước, sẽ chẳng còn cơ hội nào cả. Dù anh có phải làm gì, anh cũng không thể để cô thấy anh như một thằng hèn.

Cô nhấc máy ở hồi chuông thứ năm. “Giờ là sáu rưỡi sáng,” cô càu nhàu. “Tôi vẫn đang ngủ.”

“Không vấn đề gì.”

“Tôi đã nói tôi không sẵn sàng nói chuyện với anh.”

“Giờ thì nó là vấn đề đấy. Em có một phút để mở những cái cổng này trước khi tôi đâm chúng.”

“Rồi gửi cho tôi thư anh viết từ nhà tù Gitmo nhé!”

Lại là cô ngắt máy trước.

May mắn là anh không phải thực hiện đe dọa của mình bởi vì 30 giây sau, cánh cửa mở ra. Sau một cuộc trao đổi ngắn với một đặc vụ của Secret Service, anh lái xe dọc theo con đường uốn cong xuyên qua cánh rừng thuộc sở hữu của gia đình Jorik và tới được căn nhà, một căn nhà gạch đỏ rộng lớn theo phong cách Georgian. Anh đỗ xe trước cửa và bước ra. Không khí lành lạnh buổi sớm mang theo mùi lá, và bầu trời quang đãng hứa hẹn một ngày nhiều nắng, những thứ anh đang dùng để thuyết phục bản thân là một dấu hiệu tốt. Không phải là một thử thách dễ dàng khi anh đang cảm thấy dạ dày nhộn nhạo bên trong.

Cánh cửa mở ra và cô ở đó. Dạ dày anh lộn nhào. Những thứ từng mờ mịt với anh giờ tươi sáng và rực rỡ, nhưng có thể thấy rõ cô thì không như vậy… Thay vì mời anh vào nhà, cô bước ra ngoài với chiếc áo gió đen khoác vội bên ngoài bộ đồ ngủ màu đỏ tươi in hình những con ếch xanh.

Người cuối cùng anh muốn đối mặt bây giờ chính là cha mẹ cô, nên có thể gặp mặt bên ngoài và giải quyết sự việc là một món quà không ngờ tới. Cô xỏ đôi chân trần vào đôi giày đế mềm, và mái tóc cô là một đống lộn xộn xinh đẹp màu nâu sáng lấp lánh dưới ánh mặt trời. Cô không trang điểm, và má cô hồng lên vết hằn do nằm ngủ đè lên. Cô xinh đẹp và bình dị. Theo một cách đặc biệt và khác lạ.

Cô dừng lại giữa hai chiếc cột lớn trên bậc tam cấp. Anh bước đi dọc theo con đường lát gạch về phía cô.

“Có ai chết à?” cô nói, nhìn bộ vest anh đang mặc.

Cô hẳn phải biết anh sẽ không xuất hiện trước cửa nhà Tổng thống Mỹ trong áo phông và quần bò chứ. “Không có thời gian để thay quần áo.”

Cô bước xuống bậc và đi trên con đường đầy những lá vàng lá đỏ rụng tán tác. Mặc dù có dáng người nhỏ nhắn và đang mặc bộ đồ ngủ hình con ếch nhưng cô chẳng có nét nào giống một thiếu nữ. Cô là một người phụ nữ hoàn toàn trưởng thành – quyến rũ, phức tạp và giận dữ, tất cả những thứ đó khiến tận cùng bên trong anh hoảng sợ.

Cô nghiến chặt răng lại với anh, sẵn sàng trong tư thế chiến đấu như một võ sĩ quyền anh chuyên nghiệp. “Có một sự khác biệt rất lớn giữa đã làm phẫu thuật thắt ống dẫn tinh và dự định làm phẫu thuật thắt ống dẫn tinh.”

“Em có ý gì chứ? Tôi chưa bao giờ nói mình đã làm phẫu thuật.” Cô lờ chuyện đó đi. “Tôi sẽ không tranh cãi với anh về chuyện đó.” Cô bước đi nặng nề trên lớp cỏ đẫm sương và phủ đầy bởi lá rụng, cô di chuyển về phía một cái cây mà trông nó giống như nơi Tổng thống Thomas Jefferson ngồi khi ông rà soát lại bản Tuyên ngôn Độc Lập của mình vậy. “Sự thật là,” cô nói, “một lần nào đó trong số những lần làm tình chóng vánh của anh đã ghi điểm, và giờ anh sẽ trở thành một người cha. Anh nghĩ gì về điều đó?”

“Tôi – tôi đã không có thời gian để suy nghĩ.”

“Tốt thôi, tôi thì lại có, và tôi sẽ nói với anh những gì sẽ không xảy ra. Tôi sẽ không nói dối rằng mình tới ngân hàng tinh trùng, và tôi cũng sẽ không bỏ đứa bé này.”

Anh giật mình sợ hãi. “Đương nhiên rồi.” Cô tiếp tục, vẫn giữ mình trong trạng thái giận dữ. “Vậy anh định làm gì? Lại mắc thêm bệnh rối loạn lo âu nữa ư?”

Cái cách cô xem nhẹ những vấn đề về tâm lí mà anh gặp phải trong quá khứ, cứ như chúng chẳng có gì to tát, khiến anh yêu cô nhiều hơn bao giờ hết, nếu đều đó còn có thể.

“Vậy?” Cô dậm chân trên nền cỏ ướt, cứ y như cô là một giáo viên lớp ba vậy. “Anh phải nói gì với chính mình đây?”

Anh nuốt xuống. “Làm tốt lắm?”

Anh đã tưởng cô sẽ cho anh một bạt tai vì nói câu đó. Nhưng thay vào đó cô mím môi. “Ba mẹ tôi sẽ không vui với chuyện này đâu.”

Đó hẳn là đã nói giảm nói tránh nhiều rồi. Anh lên tiếng cẩn thận và cảnh giác khi anh đang tiến vào khu vực nguy hiểm. “Em muốn tôi làm gì để giải quyết đây?”

Giọng cô vút lên. “Vậy đó! Tôi xong chuyện với anh rồi!” Cô bước nhanh về phía ngôi nhà và vì anh không thể nhấc bổng một người phụ nữ mang thai lên như khi anh từng nhấc bổng một người phụ nữ không mang thai, nên anh bước nhanh lên phía trước cô. “Tôi yêu em.” Sự bướng bỉnh khiến cô dừng lại ngay lập tức và cô nhìn anh khinh bỉ. “Anh quan tâm tới tôi. Sự khác biệt lớn đấy.”

“Điều đó đúng. Nhưng hơn cả, anh yêu em.” Cổ họng anh thít lại. “Anh đã yêu em từ khoảnh khắc anh tìm thấy em trong lối đi nhỏ khi ở Texas.”

Đôi mắt lấp lánh ánh xanh mở lớn. “Dối trá.”

“Anh không. Anh không nói ngay lập tức anh nhận ra mình yêu em, nhưng anh cảm nhận được thứ gì đó quan trọng và đúng dắn ngay từ giây phút đầu tiên.” Anh muốn chạm vào cô – Chúa ơi, anh vẫn luôn muốn chạm vào cô – nhưng anh sợ rằng nó chỉ khiến mọi chuyện tồi tệ hơn. “Từng khoảnh khắc chúng ta bên nhau, anh luôn đấu tranh để làm điều đúng đắn. Anh không thể nói anh đã cảm thấy mệt mỏi tới nhường nào trong tình trạng đó. Và anh nghĩ em cũng yêu anh. Anh có sai không?”

Câu hỏi đó vẫn luôn ám ảnh anh. Nếu anh sai thì sao? Nếu cô không có ý đó khi cô nói anh chỉ là một cuộc tình chóng vánh của cô? Bản năng của anh tin cô yêu anh, nhưng anh là người rõ ràng nhất về sức mạnh của tự huyễn hoặc. Anh tự khích lệ bản thân.

“Như thế thì có sao?” Lucy tự chế nhạo mình. “Tôi từng nghĩ mình yêu Ted Beaudine, và rồi nhìn xem mọi chuyện kết thúc ra sao.”

Đầu óc anh quá mụ mị để có thể trả lời. “Ừ, nhưng anh ta quá tốt với em. Tôi thì không.”

“Phải rồi, điều đó đúng.”

Anh muốn bế cô lên, nhét cô vào xe anh và lái đi, nhưng anh nghi ngờ việc cô hay đội đặc vụ Secret Service của mẹ cô sẽ chấp nhận phương án đó. Anh hít vào chút không khí và bắt mình nói ra những điều cần nói. “Kristi tìm được một bác sỹ tâm lý cho anh, một cựu quân nhân. Anh ta cũng từng tham chiến. Bọn anh nhanh chóng nắm bắt được vấn đề. Anh không nói mọi thứ đều hoàn hảo, nhưng anh sẽ nói với em rằng anh ta đã thuyết phục được anh rằng mình lành tính hơn so với anh nghĩ.”

“Anh ta nhầm to rồi,” Quý cô Nhạy cảm tuyên bố. Tuy nhiên, anh nghĩ mình thấy gì đó như một sự thả lỏng giữa chân mày cô, hoặc đó chỉ đơn giản là anh mong nhìn thấy thế.

“Nói với anh em muốn xử lý mớ hỗn độn này như nào đi,” anh nói, và ngay lập tức giấu đi sự nài nỉ trong giọng nói. “Em biết anh sẽ kết hôn nếu đó là điều em muốn. Anh sẽ làm mọi thứ cho em. Chỉ xin em nói em muốn gì.”

Tất cả sự dịu dàng anh tưởng tượng sẽ xuất hiện trên khuôn mặt cô biến mất, thay vào đó là sự lạnh lùng. “Anh thật hết hy vọng.” Cô bước đi giận dữ, đạp lên những chiếc lá và bước qua cửa trước rồi vào nhà. Cô không sập cửa vào mặt anh, nên anh tự kết luận rằng mình sẽ phải theo cô vào bên trong để nhận nhiều sự trừng phạt hơn nữa.

Lối vào là một sảnh lớn với cầu thang đồ sộ uốn cong dẫn lên tầng, những bức tranh sơn dầu ấn tượng và đồ nội thất cổ đầy chất quý tộc thời xưa, nhưng những chiếc balo vứt ngổn ngang, mũ bảo hiểm xe mô tô, và những chiếc tất nhiều màu bị ném lung tung ở một góc là minh chứng cho những thành viên trẻ tuổi trong gia đình. Cô ném chiếc áo gió của mình lên một chiếc ghế trông như được lấy ra từ Viện Smithsonian (một học viện nghiên cứu và bảo tàng viện của chính phủ Hoa Kỳ), rồi cô quay lại đối mặt với anh. “Nếu tôi đang nói dối thì sao?” Anh dừng việc cố gắng chùi lá dính trên giày mình bằng tấm thảm phương đông trải dài từ cửa vào.

“Nói dối ư?”

“Sẽ ra sao nếu tôi không có thai,” cô nói, “và tôi chỉ đang dựng chuyện. Sẽ ra sao nếu tôi cuối cùng cũng giải ra câu đố anh dựng lên để bảo vệ tôi – cứ như tôi không thể tự bảo vệ chính mình vậy – và sẽ ra sao nếu tôi thực sự yêu anh và đây là cách duy nhất tôi nghĩ ra để có thể quay lại với anh? Anh sẽ làm gì?”