Thất Kiếm Hạ Thiên Sơn

Hồi 12

Docsach24.com

ăng Vị Phong nói: “Tỉ thí thế nào?” Hàn Kinh nói: “Mọi người đều thấy Lăng đại hiệp thi triển khinh công và ám khí. Lão hủ muốn xem nội công của ông”. Lăng Vị Phong ôm quyền nói: “Vậy xin mời!” Hàn Kinh nhặt cành cây khô dưới đất bó thành năm bó, đốt lửa lên cắm xuống đất. Năm đống lửa cháy phừng phừng, Hàn Kinh nói: “Vậy xin mời tỉ thí công phu Phách Không chưởng”. Rồi y vén ống tay áo, cái lưng gù chồm về phía trước, hai tay nổi gân xanh, xương cốt toàn thân kêu lên răng rắc, vừa nhìn thì đã biết là nội gia cao thủ.

Hàn Kinh vận khí xong, hai chưởng bắt chéo nhau, du tẩu mấy vòng, càng lúc càng nhanh, đột nhiên y điểm mũi chân, lướt đến trước đống lửa ở giữa, khi còn cách chưa đầy năm thước thì đột nhiên vỗ ra một chiêu Thôi Song Vọng Nguyệt, luồng chưởng phong kêu vù lên một tiếng, đẩy ngọn lửa ngã ra phía sau, khi ngọn lửa le lói sắp tắt, Hàn Kinh lại phát chưởng phải ra, chỉ thấy lửa bắn tung tóe, toàn bộ đống lửa đã bị dập tắt. Rồi y lại xoay người vỗ lại một chưởng, vẫn một chiêu hai thức, chưởng trái phát trước kéo ngọn lửa ra, chưởng phải đè xuống dập tắt ngọn lửa. Sau khi Hàn Kinh dập tắt hai đống lửa thì y lại xoay mấy vòng, lần này y càng lợi hại hơn, đánh ra một đòn Song long xuất hải, hai luồng kình phong phát ra trong cùng một lúc, dập tắt đống lửa thứ ba, lửa bắn tung tóe kéo dài đến sáu bảy thước, quả thực rất kinh người. Rồi y lại lộn người vỗ ra hai chưởng về phía trước, đống lửa thứ tư đã bị dập tắt. Hàn Kinh dùng bốn chiêu thức khác nhau, dập tắt bốn đống lửa, y ngửa đầu cả cười, ra vẻ rất thích chí. Y lại lướt ra biểu diễn vài chiêu quyền pháp rồi đột nhiên đẩy lòng bàn tay ra phía trước, lần này y cách đống lửa thứ năm đến bảy tám thước, vù một tiếng, ngọn lửa tắt ngấm. Các cao thủ đều hoan hô không ngớt! Sau khi Hàn Kinh đánh xong thì nhìn Lăng Vị Phong với vẻ khinh miệt: “Đây chỉ là một chút công phu của lão hủ, ngươi cũng thử xem sao!”.

Công phu Phách Không chưởng của Hàn Kinh có thể nói là có thể nhất lưu trong nội gia, nhưng theo Lăng Vị Phong thấy thì công phu ấy vẫn còn kém thuần hậu. Y phải mượn lúc đi quyền mới có thể dập tắt được ngọn lửa, mà dập năm đống lửa phải chia làm ba lần, có thể thấy nội lực của y không thể nào kéo dài được. Bởi vậy sau khi y nói xong thì chàng chỉ mỉm cười, Quế Trọng Minh cũng đốt năm bó lửa cắm xuống đất. Chàng thủng thỉnh bước ra, khi còn cách những đống lửa năm thước thì đột nhiên vươn người, tay trái vỗ về đống lửa, đống lửa tắt ngấm. Quần hào đều thất kinh, Lăng Vị Phong lại đột nhiên lộn người, tay phải vung lên dập tắt tiếp đống lửa thứ hai. Sau khi Lăng Vị Phong dập tắt đống lửa thứ hai thì lại chậm rãi xoay người, hai tay trái phải cùng phất ra, đống lửa thứ ba và thứ tư cũng đồng thời tắt ngấm. Khi Hàn Kinh dập tắt đống lửa thứ ba, y phải liên tục vung hai chưởng mới có thể dập tắt. Còn Lăng Vị Phong thì có thể vung lên một cái là có thể dập tắt đống lửa thứ tư, chỉ như thế cũng đã thắng được một nửa. Còn đống lửa cuối cùng, Lăng Vị Phong lại không tiến sát tới, chàng đứng cách đấy một trượng, đột nhiên lướt bước chân lộn người rồi trở tay phất ra, vù một tiếng, đống lửa cuối cùng cũng tắt ngấm. Quần hào đều khen hay, Lăng Vị Phong nói: “Ngươi còn có thể nói gì nữa?”.

Hàn Kinh sắc mặt tái xanh, chân mày dựng đứng, cười gằng nói: “Ta đã thua công phu Phách Không chưởng. Lúc nãy Lăng đại hiệp đã từng nói hễ tỉ thí mỗi tuyệt kỹ thì phải thua một bức tượng La Hán, có đúng không?” Lăng Vị Phong nói: “Đúng”. Hàn Kinh nói: “Vậy ta còn hai pho tượng La Hán, ta lại đem ra cá cược”. Lăng Vị Phong nói: “Cá cược gì?” Hàn Kinh nói: “Khinh công, nội lực, ám khí đều là trò vặt. Chúng ta nên tỉ thí binh khí”. Lăng Vị Phong nói: “Vậy xin nghe theo, mời ra chiêu!” Hàn Kinh rút nửa cây gậy đã bị Đằng Giao kiếm chặt gãy ra bước lên nói: “Xin mời ban chiêu!”.

Hàn Kinh vốn học được chân truyền Thiên Ma trượng pháp ở Tây Tạng, tuy y chỉ còn nửa cây gậy nhưng vẫn có thể dùng được. Vả lại y lại giỏi công phu điểm huyệt, sau khi bị chặt gãy vẫn có thể sử dụng như thường. Lăng Vị Phong phóng vọt lên mấy trượng, Hàn Kinh chỉa cây gậy lên trên, cây gậy lướt qua đế giày của chàng, Lăng Vị Phong chiếm được thượng phong, ra đòn nhanh như mưa gió.

Lúc này đã gần trưa, ánh mặt trời chiếu xuống dòng thác biến ảo thành muôn màu rực rỡ, Lăng Vị Phong đánh ra một mặt mười mấy chiêu, dồn Hàn Kinh đứng đối diện về phía mặt trời, chiếm hết địa thế có lợi. Hàn Kinh chói mắt, đừng nói là chẳng tìm được huyệt đạo của Lăng Vị Phong, cả chống đỡ cũng khó khăn. Y đang định liều mạng đánh ra mấy chiêu để tháo chạy, Lăng Vị Phong quát lớn một tiếng, cầm cành cây khô đánh ra một chiêu Ngọc Đới Miên Yêu phất vào be sườn của Hàn Kinh. Hàn Kinh định lướt người né tránh, Lăng Vị Phong đã tấn công liên miên không ngớt, chàng vừa quét sắp tới eo của y đã biến chiêu, lúc này cành cây khô đã phất lên đến trước ngực y. Hàn Kinh thầm nhủ, đó chỉ là một cành cây khô, dù có bị phất trúng cũng chẳng hề chi, y vừa nghĩ như thế thì chợt thấy ngực tê rần, kêu ối chao một tiếng, toàn thân mềm nhũn ngã sóng soài xuống đất.

Té ra Lăng Vị Phong ngoài tinh thông kiếm pháp, còn học được chân truyền phất huyệt của Hối Minh thiền sư. Về công phu điểm huyệt, từ xưa đến nay chỉ chia thành hai phái, một phái là dùng binh khí đả huyệt, ví dụ như Hàn Kinh dùng cây gậy để điểm vào huyệt đạo. Một phái là điểm huyệt, tức là dùng tay không điểm vào huyệt đạo của đối phương. Còn Hối Minh thiền sư thì sáng tạo ra phương pháp phất huyệt bằng phất trần, cũng có thể đạt được hiệu quả phong bế huyệt đạo của kẻ địch.

Hàn Kinh ngã xuống đất chẳng bò dậy nổi, quần hào đều kêu ồ lên. Lăng Vị Phong đã ném cành cây khô, chạy đến đỡ Hàn Kinh dậy, nhẹ nhàng phất vào huyệt Phục Thố ở eo của y, lập tức huyệt đạo được giải khai, chàng ôm quyền nói: “Xin Hàn lão tiền bối thứ cho tội vô lễ!” Hàn Kinh sắc mặt đỏ bừng, gân xanh nổi lên, chẳng nói lời nào, để cho Đạt thổ ty đỡ mình bỏ đi. Lăng Vị Phong kêu lên: “Hàn lão tiền bối, xin hãy thong thả”. Hàn Kinh đứng lại, đang định nói vài câu cho đỡ bẽ mặt, Lăng Vị Phong đã gọi những người khác: “Các người có còn muốn tỉ thí nữa không?”.

Trong số những người chưa tỉ thí, La Đạt đã bị thương đột nhiên không thể. Hạ Vạn Phương cũng chỉ là một tên thợ mộc, tuy cũng thuộc loại hảo thủ trên giang hồ nhưng làm sao dám tỉ thí với Lăng Vị Phong. Ngoài ra còn có Bát Phương Đao Trương Nguyên Chấn, võ công của y cao hơn Hắc Sát Thần Đào Hoằng, nổi tiếng trước cả Lăng Vị Phong, bọn họ đương nhiên biết thân biết phận của mình.

Chợt thấy có một bóng đen từ xa lướt tới, tốc độ của bóng đen này rất nhanh. Chỉ trong khoảnh khắc đã dừng trước mặt mọi người. Té ra người ấy là Phó Thanh Chủ. Hàn Kinh không biết mối quan hệ giữa Phó Thanh Chủ với Lăng Vị Phong, tưởng rằng Phó Thanh Chủ từ Giang Nam đến đây để chiếm kho vàng. Y chợt nảy ra một ý, cười lạnh nói: “Hôm nay thật là Đông vui! Ở đây có Lăng đại hiệp tự xưng là chủ nhân của kho vàng, giờ đây Phó lão tiên sinh muốn gì phải hỏi chủ nhân của kho vàng này đã!” y nói như thế rõ ràng là muốn khích bác cho Phó Thanh Chủ và Lăng Vị Phong quần thảo nhau để mình ngồi không được lợi.

Nào ngờ y vừa nói xong, Phó Thanh Chủ và Lăng Vị Phong đều cười ha hả. Phó Thanh Chủ cười xong hỏi: “Lăng đại hiệp, có phải đại hiệp đã tìm ra kho vàng rồi đấy không?”.

Lăng Vị Phong nói: “Toàn nhờ Mạo cô nương thông minh cho nên đã tìm được! Sao tiên sinh biết chuyện này mà đến đây?” Phó Thanh Chủ nói: “Nói ra thì dài, xin hãy giới thiệu trước những bằng hữu này”.

Lăng Vị Phong lấy ra một bức thư, cao giọng nói: “Các vị bằng hữu, kho vàng này chẳng phải của tôi, cũng chẳng phải của các người, lẽ ra mọi người đều có phần. Chủ nhân của kho vàng đã có lời rất rõ ràng!” Phó Thanh Chủ hỏi: “Ai viết bức thư này thế?” Lăng Vị Phong nói: “Đây chính là di thư của Lý Định Quốc tướng quân!” nói xong thì bắt đầu đọc lớn lên!

Lăng Vị Phong đọc đến chỗ “Để lại cho bậc hào kiệt phục quốc, nếu có kẻ nào có lòng riêng thì trời người chẳng tha” chàng ngập ngừng rồi đảo mắt nhìn toàn trường, nói sang sảng: “Hàn lão tiền bối là thuộc hạ cũ của Lý tướng quân, cũng nên nhớ đến di chí của tướng quân. Xin để số vàng này cho việc phục quốc!” Đạt thổ ty nói: “Sao đại hiệp lại bảo mọi người đều có phần?” Lăng Vị Phong mỉm cười, chỉ Phó Thanh Chủ nói: “Ông có biết Phó lão tiền bối đến đây vì ai hay không. Ông ta không chỉ đại diện cho một người mà là mười vạn huynh đệ của Lý Lai Hanh! Lý Lai Hanh tướng quân là cháu của Lý Sấm vương, năm xưa Lý Sấm vương và Trương Hiến Trung là huynh đệ kết nghĩa. Kho vàng của Trương Hiến Trung và Lý Định Quốc để lại, ngoại trừ ông ta, còn ai có tư cách sử dụng...” Lăng Vị Phong chưa nói xong, Phó Thanh Chủ đã nói: “Đúng thế, Lăng đại hiệp nói rất đúng! Không ai có thể dòm ngó số vàng này. Nhưng ai cũng có phần, nếu người đó tham gia đại nghiệp phục quốc. Lý Lai Hanh tướng quân ngưỡng mộ đại danh các vị, bảo tôi đến đây mời các vị hợp tác”. Chu Thiên Mộc bước tới hai bước, nắm tay Hàn Kinh nói: “Hàn đại ca, Phó lão tiên sinh nói rất đúng!” Hàn Kinh nói: “Tại sao ngươi biết?” Chu Thiên Mộc trầm giọng, nói từng chữ: “Hàn đại ca, chúng ta đã quen biết nhau mấy mươi năm, huynh đừng trách tôi. Chính tôi đã đến báo cho Lý tướng quân, tôi chỉ muốn tốt cho huynh! Tôi mong huynh trong buổi về chiều có thể trở về với nghĩa quân. Bọn Lý tướng quân đều rất nhớ các người”. Hàn Kinh nghe thế thì ứa nước mắt, chẳng nói lời nào.

Số là bọn bốn người Chu Thiên Mộc, Dương Thanh Ba, Quế Thiên Lan, Hàn Kinh năm xưa được gọi là Tứ kiệt trong quân của Lý Định Quốc. Quế Thiên Lan có võ công cao cường nhất trong Tứ kiệt, thứ đến là Chu Thiên Mộc. Chu Thiên Mộc rất thân thiết với Hàn Kinh, nhưng Lý Định Quốc chỉ sai Quế Thiên Lan và Hàn Kinh lo liệu việc cất giấu kho vàng, Chu Thiên Mộc và Dương Thanh Ba vì có việc khó cho nên không tham gia chuyện này bởi vậy không biết hoàn toàn. Sau khi Lý Định Quốc thất bại, Tứ kiệt ly tán. Hàn Kinh ẩn cư ở Xuyên Đông, Chu Thiên Mộc ẩn cư ở Xuyên Tây. Chu Thiên Mộc nghe đồn mấy năm gần đây Hàn Kinh qua lại rất thân thiết với các cao thủ chốn lục lâm, bởi vậy trong lòng rất lo lắng, sợ rằng ông ta đi sai đường. Khi Hàn Kinh nghe La Đạt thuyết phục, định rằng đi tìm kho báu, cho nên đã nhờ Chu Thiên Mộc giúp đỡ. Chu Thiên Mộc cả kinh, nhưng ông ta biết tính cách của Hàn Kinh, lúc đó không tiện khuyên cho nên chỉ giả vờ chấp nhận, rồi lại hẹn thời gian với Hàn Kinh cùng đến u cốc. Ông ta đợi Hàn Kinh ra về thì lập tức lẳng lặng đi thông báo cho Lý Lai Hanh.

Còn Dương Thanh Ba thì không có tầm nhìn xa như Chu Thiên Mộc, sau khi ông ta hứa đến giúp đỡ Hàn Kinh thì quả nhiên đến Kiếm Các theo lời hẹn, đi tìm Quế Thiên Lan, định khuyên Quế Thiên Lan chia vàng. Không ngờ lại gặp phải Thạch đại nương, Thạch đại nương nghe ông ta nói đến chuyện chia vàng thì lửa giận bốc lên, dùng Ngũ Cầm kiếm pháp đánh ông ta luống cuống. May mà lúc này Chu Thiên Mộc lại gặp Phó Thanh Chủ và bọn Trương Thanh Nguyên kéo tới mới được giải vây. Dương Thanh Ba nghe kể chuyện Quế Thiên Lan đã bỏ hai mươi năm bảo vệ cho kho vàng thì rất cảm động, lại nhớ đến tình cũ vì thế cũng hối hận.

Chu Thiên Mộc kể lại mọi việc, nắm tay Hàn Kinh, khẽ nói: “Hàn nhị ca, huynh hãy nghe lời tôi, cùng mọi người đến chỗ Lý Lai Hanh!” Hàn Kinh chưa trả lời thì Lư Đại đã chợt kêu lớn: “Lăng đại hiệp, sao ông không nói sớm, tôi tranh số vàng này với ông làm gì?” Lăng Vị Phong nói: “Vậy ông...” Lư Đại lớn giọng nói: “Tôi sẽ trở về dắt toàn bộ huynh đệ trong Thanh Dương bang theo các người!” Ông ta nói xong thì kéo tay La Đạt hỏi: “La đại ca, còn huynh?” La Đạt chịu ơn tặng thuốc của Lăng Vị Phong, chần chừ một hồi rồi cũng khẳng khái nói: “Tôi và huynh đệ Mi Sơn trại cũng theo Lăng đại hiệp!” Lăng Vị Phong đến nắm tay y, nói: “La trại chủ, đừng nói thế, từ rày về sau chúng ta sẽ là người một nhà!” Đạt Sĩ Tư vỗ tay nói: “Tôi là người mau mắn, tôi xin nói thực, tôi không thể đi theo Lý Lai Hanh tướng quân như hai vị”. Phó Thanh Chủ mỉm cười nhìn y, Lăng Vị Phong nói: “Đây chính là Đạt thổ ty Đạt Tam Công”. Đạt thổ ty nói: “Chính vì tôi là một thổ ty, tôi không thể bỏ người trong tộc. Nhưng tôi xin thề, Đạt mỗ này trước đây đối với Lý Định Quốc như thế nào cũng đối lại với Lý Lai Hanh như thế”. Y muốn nói sẽ hợp tác với Lý Lai Hanh. Lăng Vị Phong kêu lớn: “Hay lắm! Chắc một lời như thế!” Đạt thổ ty vung chưởng chém vào một thân cây bên cạnh, thân cây gãy làm hai đoạn, nói: “Nếu trái lời thề cũng như cây này!”.

Hàn Kinh ứa nước mắt, Chu Thiên Mộc nắm tay y, y cũng cảm thấy lòng bàn tay ấm áp, trước bao nhiêu cặp mắt đang chờ đợi, y đột nhiên bẻ cây gậy, nói: “Tôi sẽ đi cùng mọi người!”.

Hàn Kinh và Lư Đại đều đi theo Lý Lai Hanh, bọn Trương Nguyên Chấn, Đào Hoằng đương nhiên cũng chẳng có ý kiến khác. Lăng Vị Phong thu phục được đám ma đầu này, lòng cũng rất vui.

Mọi người cũng trở về gian thạch thất, Thạch đại nương cười rằng: “Sáng nay ta không cho các người vào, giờ đây ta lại phải mời các người!” Thạch Thiên Thành gặp gỡ quần hào, có người là chỗ quen biết cũ, có người là bằng hữu mới, đôi bên trò chuyện rất rôm rả, nỗi u phiền bất giác tan biến. Ông ta chống tay lên giường, ngẩng đầu nói: “Từ sau khi tôi hiểu rõ mọi chuyện, tôi thấy rất áy náy trong lòng, tôi hối hận vì đã bức tử sư huynh, vốn định rằng gặp lại Trọng Minh rồi sẽ tự tận để đền tội. Nay thấy các người bôn ba vì việc lớn phục quốc, tôi cũng đã nghĩ kỹ bởi vậy gút mắc trong lòng cũng đã tháo gỡ. Té ra ngoài bức tử sư huynh, tôi còn làm một chuyện sai lớn hơn!” Thạch đại nương ngạc nhiên hỏi: “Còn có chuyện sai gì nữa?” Thạch Thiên Thành nói: “Ba mươi năm qua tôi chỉ vì ân oán cá nhân mà lưu lạc khắp nơi, chưa làm chuyện gì đáng khen. Tôi không thèm để ý đến sự nghiệp của Thiên Lan và bà, ba mươi năm đã trôi qua uổng phí! Dù tôi có chết cũng chẳng thể nào bù đắp nổi, chi bằng cứ tiếp tục sống để thực hiện di nguyện của sư huynh. Sau khi tôi khỏe lại chắc chắn sẽ đến chỗ Lý Lai Hanh. Còn bây giờ tôi muốn cùng bà ở đây giữ kho vàng, đợi Lý tướng quân sai người đến chuyển đi. Sư huynh đã canh giữ hai mươi năm, giờ đây chúng ta phải gánh vác trách nhiệm này”. Thạch đại nương nghĩ đến Quế Thiên Lan, nước mắt rơi lả chả, nhưng miệng vẫn mỉm cười: “Nên là thế!” Phó Thanh Chủ đang lo lắng trong nhất thời không thể nào chuyển đi hết được, cần phải có nhiều người canh giữ nhưng lại lo trễ nãi những việc khác. Nghe ông ta nói như thế thì rất mừng.

Lúc này đệ tử của Thạch Thiên Thành là Vu Trung bước vào, cười nói: “Sư phụ, còn có một việc lớn nữa!”.

Thạch Thiên Thành nói: “Việc gì, sao lại bí hiểm như thế?” Vu Trung cười nói: “Sư phụ, mọi người đánh nhau cả nửa ngày trời, vẫn chưa ăn gì cả. Chúng ta là chủ nhân mà chỉ nói chuyện với khách, không lo miếng ăn cho khách thì làm sao được? Người không ăn thì sẽ chết, sư phụ bảo có phải chuyện lớn hay không?” quần hào đều bật cười. Trong phòng ấm áp như mùa xuân, không khí căng thẳng dần dần tan biến trong tiếng cười.

Trúc Quân bưng thức ăn và rượu lên.

Phó Thanh Chủ nhìn Quế Trọng Minh, thấy chàng ta đã bình phục, trong lòng an ủi lắm. Khẽ nói với Mạo Hoàn Liên: “Tiểu cô nương, con thật là giỏi. Chỉ có con mới trị nổi cho người bệnh này!” Mạo Hoàn Liên đỏ ửng mặt, nói: “Bá bá lại đùa với con!” Phó Thanh Chủ kề bên tai nàng nói: “Không phải đùa với con, lát nữa ta sẽ nói với con vài lời!” Thạch đại nương rất có thiện cảm với Mạo Hoàn Liên, cứ gắp thức ăn cho nàng, Trúc Quân dẫu môi nói: “Mẹ, mẹ thương Mạo tỷ tỷ hơn cả con!” mọi người đều bật cười.

Đêm hôm ấy, đến canh ba Quế Trọng Minh tỉnh dậy, thấy cha mình nằm trên giường thì bất giác lòng rối bời, chẳng thể nào yên giấc được. Chàng nghĩ đến thân thế ly kỳ của mình, nhớ đến nghĩa phụ Quế Thiên Lan. Hôm nay cả nhà đoàn tụ, đúng là nằm mơ cũng không thể ngờ đến. chàng vừa mừng vừa tủi, chàng cũng thấy cha ruột của mình rất đáng thương. Nhưng nghĩ lại dưỡng phụ thì càng đáng thương hơn. Chàng chợt nghĩ: “Ngày mai mình cùng mọi người đến chỗ Lý Lai Hanh, mình phải đi bái biệt phần mộ của dưỡng phụ mới được”. Chàng nghe Mạo Hoàn Liên nói: Chính nàng và Phó Thanh Chủ đã chôn Quế Thiên Lan, trên tấm bia có khắc mấy chữ “Nghĩa sĩ Quế Thiên Lan chi mộ” nhưng chàng lại không biết chôn ở đâu. Chàng cảm thấy sóng lòng trỗi dậy, thế là len lén bước ra mở cửa phòng, chỉ thấy mẹ và em gái đang ngủ rất say nhưng Mạo Hoàn Liên thì mất dạng. Chàng cả kinh lách người chạy ra khỏi căn thạch thất, dưới ánh sao trời yếu ớt, chàng tìm khắp nơi trong u cốc. Chỉ nghe tiếng vượn hú trong đêm, lá cây xào xạc, côn trùng rả rích, thác nước ì ầm. Quế Trọng Minh tuy lớn lên ở Kiếm Các nhưng chưa bao giờ dạo chơi nơi này, chàng đi một mình trong u cốc mà lòng dạ rối bời. Đột nhiên có một người vỗ vai chàng, chàng giật thót mình, chỉ nghe người ấy khẽ nói: “Đệ tìm ai thế?” Quế Trọng Minh quay đầu lại nhìn, té ra là Lăng Vị Phong, chàng không khỏi khen: “Thân thủ của Lăng đại hiệp thật giỏi!” Lăng Vị Phong nói: “Ta thấy đệ nhảy ra khỏi thạch thất cho nên bám theo sau. Đệ chỉ đi về phía trước ngó quanh quất mà lòng dạ cứ để đâu đâu. Ta đoán đệ đang tìm ai đấy, đệ chẳng hề để ý ta đi phía sau”.

Quế Trọng Minh nói: “Huynh có gặp Mạo cô nương không?” Lăng Vị Phong nói: “Ta đoán đệ chắc chắn tìm nàng, hãy theo ta”. Nói xong thì đắt Quế Trọng Minh băng qua mấy góc núi, đột nhiên đẩy chàng một cái, nói: “Đệ hãy ép tai xuống đất nghe thử”.

Quế Trọng Minh ngưng thần lắng nghe, chỉ nghe một giọng nói già nua: “Hoàn Liên, thần trí của y đã hoàn toàn hồi phục, con thấy y có thể gánh vác trách nhiệm này không?” Quế Trọng Minh ngạc nhiên nhìn Lăng Vị Phong nói: “Đó chẳng phải là giọng nói của Phó lão tiền bối sao?” Lăng Vị Phong nói: “Họ đang nói về đệ!” nói chưa dứt lời, Phó Thanh Chủ chợt cười ha hả, nói: “Các người không cần nghe lén nữa, hãy mau đến đây”. Lăng Vị Phong nắm tay Quế Trọng Minh chạy tới, nói: “Đúng là gừng càng già càng cay”.

Phó Thanh Chủ và Mạo Hoàn Liên đang ngồi trên tảng đá nói chuyện, thấy họ tới thì vẫy tay: “Ta đoán các người thế nào cũng đến đây”. Quế Trọng Minh lên tiếng hỏi: “Phó bá bá, Mạo cô nương, có chuyện gì quan trọng mà phải bàn bạc vào lúc nửa đêm thế này?”.

Phó Thanh Chủ cười nói: “Các người ở trong u cốc này, không biết bên ngoài đã thay đổi!” Lăng Vị Phong nói: “Ngô Tam Quế đã dấy binh? Nhanh như thế ư?” Phó Thanh Chủ nói: “Đúng thế, các người cứu Lý công tử ra, y sợ mưu đồ bại lộ cho nên đã dấy binh trước!” Lăng Vị Phong nói: “Sao y không liên lạc với chúng ta?” Phó Thanh Chủ đưa một tờ giấy cho chàng, nói: “Hãy xem hịch văn của y”. Lăng Vị Phong nói: “Được, tôi cũng muốn xem thử y viết thế nào?”

Chỉ thấy trong hịch văn trước tiên kể chuyện năm xưa, mắng Lý Sấm vương là giặc, bảo sau khi Lý Sấm vương vào kinh, “Trong khắp thiên hạ có vô số người dấy binh đánh giặc”. Còn y thì ở Sơn Hải quan, lúc đó thế cô sức yếu nên đành tạm mượn sức của người Mãn Châu đuổi Lý Sấm vương. Lăng Vị Phong hừ một tiếng nói: “Không ngờ y có thể nói ra những lời này để rửa tội danh của mình”. Hịch văn lại kể tội người Mãn Châu chiếm Bắc Kinh, đặt nền thống trị lên Trung Nguyên, buộc người Trung Hoa phải cạo đầu thắt bím bởi vậy y mới dấy binh lật đổ triều Thanh. Lăng Vị Phong ném tấm hịch văn của Ngô Tam Quế xuống đất, nghiến răng kèn kẹt. Phó Thanh Chủ nói: “Chính vì thế cho nên ta mới bảo Trọng Minh và Hoàn Liên đi làm một việc.

Lăng Vị Phong nói: “Vậy Lý Lai Hanh tướng quân đã chuẩn bị thế nào?” Phó Thanh Chủ nói: “Theo lý mà nói Ngô Tam Quế và chúng ta có thù không đội trời chung. Chúng ta quyết không thể dễ dàng buông tha cho y. Nhưng y dấy binh lần này rốt cuộc là vì đánh bọn Thát Đát, bởi vậy Lý Tư Vĩnh nói dù Ngô Tam Quế một mặt phản Thanh một mặt đối phó với chúng ta, lúc này chúng ta cũng không thể đối địch với y. sách lược của Lý công tử là nhân thời cơ này chúng ta mở rộng sự nghiệp phản Thanh. Chúng ta và Ngô Tam Quế cứ ai làm chuyện nấy, y không phạm chúng ta, chúng ta cũng không phạm y. Một mặt giữ vững căn cứ địa ở ranh giới Tứ Xuyên và Vân Nam, một mặt phát động các lộ anh hùng dựng cờ khởi nghĩa”. Lăng Vị Phong vỗ tay khen rằng: “Lý công tử quả nhiên có tầm nhìn không ai bì kịp. Vậy Lý tướng quân có nghe theo Lý công tử không?” Phó Thanh Chủ nói: “Lý tướng quân đã giao binh phù cho Lý Tư Vĩnh, mặc cho y sắp xếp công việc”. Lăng Vị Phong nói: “Đã là thế, chúng tôi cũng muốn giúp y một tay. Nhưng Trọng Minh hiền đệ tuy là anh hùng, sing lần đầu tiên mới suất đạo, không biết Lý tướng quân tìm y có việc gì?” chàng lo Quế Trọng Minh có ít kinh nghiệm nên không đảm đương được việc lớn.

Phó Thanh Chủ cười nói: “Chính vì y lần đầu tiên xuất đạo, trên giang hồ không có người biết y cho nên mới giao chuyện này cho y làm”. Nói xong thì hỏi Mạo Hoàn Liên: “Con có còn nhớ Dịch Lan Châu và Trương Hoa Chiêu không?” Lăng Vị Phong giật mình, vội vàng hỏi: “Dịch Lan Châu thế nào?” Phó Thanh Chủ nói: “Ngày ấy quần hùng đại náo núi Ngũ Đài, Trương Hoa Chiêu bị bắt sống, Dịch Lan Châu liều mình vào kinh cứu y. Ai ngờ sau khi nàng vào kinh thì chẳng còn tin tức gì nữa. Trái lại Trương công tử đã có tin truyền về”. Mạo Hoàn Liên hỏi: “Giờ đây y ở đâu?”.

Phó Thanh Chủ nói: “Theo tin truyền về, y đang ở Nạp Lan tướng phủ!” Mạo Hoàn Liên hỏi: “Có phải bị bắt làm thái giám không?” Phó Thanh Chủ nói: “Không phải, có người đến phủ Nạp Lan làm khách, thấy bên cạnh Nạp Lan công tử có một thư đồng. Thư đồng này rất giống y”. Mạo Hoàn Liên lại nói: “Võ công của Trương công tử chẳng phải hạng thường, nếu không phải bị giam cầm. Tại sao không thể thoát ra?” Phó Thanh Chủ nói: “Điều này thì chẳng ai biết cả! Cho nên ta mới muốn con và Trọng Minh vào kinh một chuyến gặp y. nếu không thể giúp y chạy thoát thì hãy liên lạc với người của Thiên Địa hội cùng thuộc hạ cũ của Lỗ vương cứu y ra”.

Lăng Vị Phong hỏi: “Đó có phải là ý của Lưu Úc Phương không?” Phó Thanh Chủ gật đầu: “Lý tướng quân cũng tán đồng ý kiến của nàng. Cha của Trương Hoa Chiêu là Trường Hoàng Kỳ là đại tướng kháng Thanh của tiền triều, Lỗ vương do ông ta lập nên. Vùng Giang Nam có không ít thuộc hạ cũ của Lỗ Vương, rất nhiều hàn quan cũng là thuộc hạ của ông ta. giờ đây Lưu Úc Phương không thể trở về bởi vậy mới nhờ chúng ta giúp đỡ cứu Trương công tử ra. Chúng tôi suy đi nghĩ lại mới thấy hai người là hợp nhất. Trọng Minh võ công cao cường, lại không ai biết, trà trộn vào kinh thành chắc cũng chẳng phải chuyện khó. Mạo Hoàn Liên đi theo ta nhiều năm, đã hiểu quá nửa việc trên giang hồ, có thể làm trợ thủ cho y”.

Mạo Hoàn Liên nghe thế thì trầm tư, một hồi sau thì đỏ ửng mặt khẽ nói với Quế Trọng Minh: “Huynh thế nào? Huynh nói đi!”.

Quế Trọng Minh ngẩng đầu, nhìn Mạo Hoàn Liên rồi một lúc lâu sau mới nói: “Tôi... tôi đang nghĩ...” Mạo Hoàn Liên làm ra vẻ giận dỗi nói: “Huynh đang nghĩ gì?” Quế Trọng Minh cúi đầu nói tiếp: “Tôi đang nghĩ đi cùng với cô nương không biết có tiện hay không?” Lăng Vị Phong và Phó Thanh Chủ bật cười, Mạo Hoàn Liên đỏ ửng mặt, Phó Thanh Chủ khẽ ho một tiếng, cố làm ra vẻ nghiêm nghị nói: “Đây là lời thực, ta đang nghĩ...” nói chưa dứt lời thì chợt thấy có một người từ trên cây tùng nhẹ nhàng phóng xuống, người ấy cười nói: “Các người đừng suy nghĩ nữa, để ta làm chủ”. Người này chính là Thạch đại nương. Khi Quế Trọng Minh ra ngoài, bà ta cũng biết cho nên đã đi theo. Bọn Phó Thanh Chủ chỉ lo nói đến chuyện Ngô Tam Quế cho nên không hề phát giác.

Thạch đại nương nói: “Phó lão tiên sinh, ông và Mạo cô nương tình như cha con, ông nên làm chủ chuyện hôn nhân đại sự cho Mạo cô nương. Tôi thấy cứ để hai người họ đính hôn, có danh phận thì đi trên đường cũng tiện hơn nhiều”. Phó Thanh Chủ cười nói: “Vậy phải hỏi ý kiến của hai người họ đã. Này! Các người hãy nói xem có chịu hay không?” hai người đều cúi đầu, không dám nói. Lăng Vị Phong cười ha hả: “Đừng trêu nữa, họ đều là trẻ con, tiên sinh muốn họ nói toạc ra, da mặt họ đâu có dày đến thế!” nói xong thì một tay nắm Quế Trọng Minh, một tay nắm Mạo Hoàn Liên kéo họ lại với nhau, nói: “Người chủ hôn là Phó bá bá và Thạch đại nương, vậy ta sẽ là ông mai!” chàng khẽ nói bên tai Quế Trọng Minh: “Đệ có thứ gì hay ho hãy đem ra đưa cho Mạo cô nương!” Quế Trọng Minh lúng túng, rút ra ba cái vòng kim hoàn, đưa cho Lăng Vị Phong nói: “Huynh hãy đưa hộ đệ. Đệ chẳng có thứ gì tốt, trên người chỉ có ám khí của mẹ truyền cho”. Lăng Vị Phong lớn giọng nói: “Thế là được, lễ vật đính hôn này cũng rất tốt”.

Hoàn Liên cô nương, hãy nhận lấy!” chàng ném ba chiếc vòng về phía Mạo Hoàn Liên, Mạo Hoàn Liên ngỡ ngàng đưa tay chụp lấy. Phó Thanh Chủ nói: “Con cũng lấy một thứ đưa cho người ta chứ!” Mạo Hoàn Liên đỏ ửng mặt, lấy ra một bức tranh giao cho Phó Thanh Chủ, chẳng nói chẳng rằng gì cả. Phó Thanh Chủ mở ra nhìn chỉ thấy trong tranh là phong cảnh trên Kiếm Các, ở giữa hai gốc tùng có một ngôi nhà tranh nhỏ. Đó chính là bức tranh mà Mạo Hoàn Liên vẽ để nhắc nhở Quế Trọng Minh. Bức tranh này đối với Quế Trọng Minh có thể rất đặc biệt. Quế Trọng Minh vừa nhìn, không đợi Phó Thanh Chủ đưa đã cầm lấy. Phó Thanh Chủ cười nói: “Lễ vật của hai người thật có ý nghĩa, từ rày về sau Quế hiền điệt sẽ dạy công phu điểm huyệt cho Hoàn Liên. Hoàn Liên thì dạy cho y văn chương tự họa”.

Quế Trọng Minh và Mạo Hoàn Liên tuy hổ thẹn nhưng trong bụng thì hoa lòng nở rộ, đôi bên dựa vào nhau, ngẩng đầu nhìn sâu trong mắt nhau.

Chính là: Tranh vẽ vòng vàng thành sính lễ, nguyện đem họa bút vẽ uyên ương.

Muốn biết sau đó thế nào, mời xem hồi sau sẽ rõ.