Thành Phố Trộm

Chương 25

Tuyết đã tan ra vào ban ngày rồi đóng băng trở lại vào ban đêm, tạo thành một hành trình đầy hiểm trở, một lớp sương giá vỡ vụn với mỗi bước chân bọn ta đi. Ngón tay đau đến nỗi thật khó mà nghĩ đến bất kỳ điều gì khác. Bọn ta mải miết bước đi vì bọn ta buộc phải bước đi, vì lúc này bọn ta đã đi quá xa không còn dừng lại được nữa, nhưng giờ ta không hiểu lúc ấy nguồn sức lực cho mỗi bước chân ở đâu ra nữa. Có một trạng thái vượt qua khỏi cơn đói, qua khỏi nỗi kiệt sức, mà ở đó thời gian dường như không còn trôi nữa và nỗi khốn khổ của thân xác dường như không còn hoàn toàn thuộc về ta nữa. Tất cả những thứ đó đều không áp dụng với Kolya. Anh ta đã ăn ít giống như ta, mặc dù anh ta đã ngủ ngon lành hơn cái đêm trước đó trong kho dụng cụ với những đám người mù chữ, thoải mái như thể anh ta nằm trên một cái giường lông chim ở khách sạn Europa. Trong khi ta lê bước về phía Bắc với cái đầu ủ rũ, Kolya nhìn quanh cánh đồng quê tắm ánh trăng như một họa sĩ đang dạo bước. Như thể bọn ta có tất cả nước Nga cho riêng mình vậy. Suốt mấy tiếng đồng hồ bọn ta không thấy bóng dáng con người nào ngoài những thửa ruộng bỏ hoang.

Cứ được vài phút là anh ta lại thọc tay vào trong áo choàng, để bảo đảm là cái áo len của anh ta vẫn nhét bên trong cái quần cài thắt lưng và cái hộp trứng vẫn được yên ổn.

“Tôi đã kể với cậu câu chuyện về con chó săn trong sân chưa nhỉ?”

“Cuốn tiểu thuyết của anh ấy à?”

“Ừ, nhưng mà là nguồn gốc của cái tên cơ.”

“Có thể.”

“Không, tôi không nghĩ là rồi. Nhân vật chính, Radchenko, sống trong một tòa nhà cũ kỹ trên đảo Vasilevsky. Thực ra là một ngôi nhà, được xây cho một trong những viên tướng của Alexander, nhưng giờ thì nó đang đổ nát, tám gia đình khác nhau sống ở đó và không ai thích ai cả. Một đêm, giữa mùa đông, một con chó già bước vào trong sân, nằm xuống cạnh cổng và biến chỗ đó thành nhà của nó. Một con vật già nua to lớn, cái mõm nó đã ngả màu xám, một bên tai bị cắn đứt trong trận ẩu đả nào đó lâu lắm rồi. Radchenko tỉnh giấc muộn sáng hôm sau, nhìn ra ngoài cửa sổ phòng chàng, và thấy con chó đang nằm đó với cái đầu giữa hai chân. Chàng cảm thấy thương hại con vật khốn khổ ấy; trời thì lạnh mà chẳng có gì để ăn. Vì vậy chàng tìm một mẩu xúc xích khô và mở cửa sổ phòng mình, đúng lúc chuông nhà thờ bắt đầu rung báo giữa giờ trưa.”

“Đó là năm nào?”

“Gì cơ? Tôi không biết. 1883. Radchenko huýt sáo và con chó ngước nhìn lên chàng. Chàng lẳng miếng xúc xích xuống, con chó nuốt chửng nó luôn, Radchenko mỉm cười, đóng cửa sổ và quay trở lại giường. Giờ hãy nhớ nhé, đến thời điểm ấy chàng chưa hề rời khỏi căn hộ của mình được năm năm rồi. Ngày hôm sau, Radchenko vẫn còn đang ngủ khi chuông nhà thờ rung vào giờ giữa trưa. Khi chuông nhà thờ im tiếng, chàng nghe thấy một tiếng sủa bên ngoài. Rồi lại một tiếng nữa. Cuối cùng, chàng lồm cồm ra khỏi giường, mở cửa sổ, nhìn xuống khoảng sân, và thấy con chó săn đang ngước lên nhìn mình, lưỡi thè lè khỏi mõm, chờ được cho ăn. Vậy là Radchenko tìm thứ gì đó để lẳng cho con khọm già, và kể từ đó trở đi, cứ mỗi lần chuông nhà thờ rung lúc giữa trưa là con chó lại chờ bữa trưa của mình dưới cửa sổ.”

“Giống con chó của Pavlov.”

“Ừ,” Kolya nói, hơi bực mình. “Giống con chó của Pavlov, chỉ có điều là bằng thơ ca thôi. Hai năm trôi qua. Con chó săn trong sân biết tất cả mọi người trong tòa nhà, nó để họ đi qua không khó dễ gì, nhưng nếu có người lạ đến cổng, đồ già khọm ấy là một nỗi kinh hoàng, gầm gừ và nhe răng ra. Những người sống ở đó yêu quý nó, nó là kẻ canh gác của họ, họ thậm chí còn không khóa cửa nữa. Thỉnh thoảng Radchenko lãng phí nguyên cả một buổi chiều, ngồi trong một cái ghế bên cửa sổ, nhìn con chó đang nhìn dòng người đi qua cổng. Chàng không bao giờ quên nghi thức lúc giữa trưa, lúc nào cũng đảm bảo là chàng có nhiều thịt ngon để liệng xuống. Một buổi sáng Radchenko còn đang ngủ, có một giấc mơ tuyệt vời về một người phụ nữ mà chàng mê mẩn khi còn bé, một người bạn thân thiết của mẹ chàng. Chuông nhà thờ rung lên và Radchenko tỉnh giấc với một nụ cười, duỗi tay, bước tới cửa sổ, trượt mở nó ra, và trông xuống khoảng sân. Con chó săn đang nằm nghiêng cạnh cổng, rất lặng lẽ, và ngay lập tức Radchenko biết là con vật đã chết rồi. Nhớ nhé, Radchenko chưa bao giờ chạm vào nó, chưa bao giờ gãi sau tai hay xoa bụng nó hoặc bất kỳ trò nào như thế, mặc dù vậy, chàng đã đâm yêu quý cái đồ chó già ấy, xem nó như một người bạn trung thành. Suốt gần cả tiếng đồng hồ Radchenko đăm đăm nhìn con chó săn đã chết và cuối cùng chàng nhận ra rằng sẽ chẳng có ai đi chôn nó cả. Nó là một con chó hoang; đó là công việc của ai nhỉ? Radchenko chưa hề ra khỏi căn hộ của chàng đã bảy năm rồi; ý nghĩ về việc bước ra ngoài làm chàng thấy buồn nôn, nhưng còn tệ hơn thế là ý nghĩ bỏ mặc con chó thối rữa dưới ánh mặt trời. Cậu có hiểu là điều đó nan giải thế nào không? Chàng bước ra khỏi căn hộ của mình, xuống cầu thang, ra khỏi cửa trước của tòa nhà, bước ra giữa ánh nắng lần đầu tiên trong bảy năm! - bế con chó to lên, rồi mang nó ra khỏi sân.”

“Anh ta chôn nó ở đâu?”

“Tôi không biết. Ở một trong những vườn trường đại học, chắc thế.”

“Họ không cho phép anh ta làm vậy đâu.”

“Tôi chưa nghĩ ra phần đó. Cậu đang hiểu sai vấn đề chính của câu chuyện…”

“Và anh ta cần một cái xẻng nữa.”

“Phải, chàng cần một cái xẻng. Cậu có tất cả cái lãng mạn của một con điếm ở ga tàu hỏa, cậu biết chứ hả? Có thể tôi còn không biết cái đoạn chôn cất, thế thì sao nào? Cứ để nó cho trí tưởng tượng của cậu.”

“Có lẽ là một ý hay. Có thể là hơi sướt mướt một chút. Những con chó chết à, tôi không biết nữa.”

“Nhưng cậu thích chứ?”

“Tôi nghĩ vậy.”

“Cậu nghĩ vậy à? Câu chuyện hay thế cơ mà.”

“Hay đấy, tôi thích nó.”

“Còn tên thì sao? Con chó săn trong sân? Giờ thì cậu hiểu tại sao lại là một cái tên tuyệt vời như thế chưa? Bấy nhiêu phụ nữ đã đến chỗ Radchenko, lúc nào cũng cố kéo chàng ra ngoài cùng với họ, và chàng không bao giờ ra. Đó gần như là một ván bạc đối với họ; tất cả họ đều muốn là người đầu tiên dụ dỗ được chàng ra khỏi cổng, nhưng không một ai trong số họ khiến được chàng ra. Chỉ có con chó, một con chó già lẩm cẩm vô chủ.”

Con chó trong sân cũng hay kém gì đâu.”

“Không.”

“Chó với chó săn thì khác nhau cái nỗi gì?”

“Chó săn mới đi săn.” Kolya chộp lấy cánh tay ta, mắt anh ta mở to, bắt ta dừng bước. Thoạt đầu ta tưởng anh ta đã nghe thấy gì đó, một tiếng động cơ xe tăng Panzer đang rú hoặc tiếng gọi của bọn lính từ xa, nhưng thứ đang chiếm lấy sự chú ý của anh ta dường như đến từ bên trong. Anh ta nắm cánh tay rất chặt, môi anh ta hơi hé ra, một vẻ tập trung căng thẳng trên nét mặt anh ta, cứ như thể anh ta cần nhớ tên của một cô gái mà chỉ nhớ ra được chữ cái đầu tiên.

“Gì thế?” ta hỏi. Anh ta giơ tay lên và ta chờ đợi. Dừng lại dù có mười giây cũng làm ta muốn nằm xuống tuyết và nhắm mắt lại, chỉ là trong vài phút, chỉ là đủ thời gian để trút bỏ sức nặng khỏi đôi chân và vặn vẹo cho những ngón chân hồi sinh.

“Nó sắp ra rồi,” anh ta nói. “Tôi cảm nhận được nó.”

“Cái gì sắp ra cơ?”

“Cứt của tôi! Ôi, cố lên nào, đồ con hoang, cố lên!”

Anh ta cuống cuồng chạy ra sau một thân cây và ta chờ anh ta, lảo đảo trong gió. Ta muốn ngồi xuống, nhưng tiếng nói đáng ghét nào đó trong đầu bảo ta rằng ngồi là rất nguy hiểm, rằng nếu ngồi xuống là ta sẽ không bao giờ đứng dậy nữa.

Đến lúc Kolya quay lại thì ta đang ngủ đứng, một chuỗi những hình ảnh trong mơ lộn xộn vụt lướt qua tâm trí ta. Anh ta chụp lấy cánh tay ta, làm ta giật mình, và nở nụ cười Cossack nhăn nhở của mình.

“Bạn tôi ơi, tôi không còn là một kẻ vô thần nữa rồi. Đi nào, tôi muốn cho cậu xem.”

“Anh đùa à? Tôi không muốn xem.”

“Cậu phải nhìn qua mới được. Chắc chắn là một kỷ lục.”

Anh ta níu chặt tay ta, cố kéo ta đi theo mình, nhưng ta cắm sâu ủng xuống tuyết và ghì cả người về phía sau.

“Không, không, chúng ta đi thôi; chúng ta không có thời gian đâu.”

“Cậu sợ phải thấy bãi cứt phá kỷ lục của tôi à?”

“Nếu chúng ta không tới được chỗ viên đại tá trước khi trời sáng…”

“Đây là một điều rất phi thường! Một điều mà cậu sẽ kể cho con cháu mình.”

Kolya kéo bằng sức khỏe vượt trội của anh ta và ta cảm thấy mình bắt đầu ngã nhào, thì đôi tay đi găng của anh ta tuột khỏi ống tay áo choàng của ta và anh ta ngã xuống mặt tuyết phủ băng. Phản ứng đầu tiên của anh ta là cười phá lên, nhưng anh ta câm bặt cười khi nhớ ra những quả trứng.

“Mẹ kiếp,” anh ta nói, trừng trừng ngước nhìn ta. Lần đầu tiên trong hành trình của mình, ta nhìn thấy thứ gì đó gần với nỗi sợ hãi thực sự trong mắt anh ta.

“Đừng có nói với tôi là anh làm vỡ chúng rồi đấy. Đừng có nói với tôi thế.”

“Tôi làm vỡ chúng sao? Sao lại chỉ là tôi chứ? Sao cậu không chịu đi xem bãi cứt luôn cho xong?”

“Tôi không muốn xem cứt của anh!” ta gào lên với anh ta, không còn để ý gì đến quân thù có thể đang di chuyển trong chính khu rừng đó. “Hãy cho tôi biết là chúng có vỡ không!”

Ngồi trên mặt đất, anh ta cởi cúc áo khoác, lôi cái hộp ra, và kiểm tra xem có hề hấn gì không, lần tay qua những thanh gỗ. Anh ta hít một hơi dài, tháo bỏ găng tay bên phải, và cẩn thận sờ nắn bên trong cái hộp nhồi rơm bằng những ngón tay trần.

“Sao hả?”

“Chúng ổn cả.”

Sau khi cái hộp đã ấm cúng và an toàn dưới áo len của Kolya, bọn ta tiếp tục cuộc hành trình về phía Bắc. Anh ta không đả động lại vụ bãi cứt lịch sử của mình nữa, nhưng ta có thể thấy là anh ta bực bội vì ta không chịu đi cùng anh ta để chứng kiến. Giờ thì khi anh ta kể câu chuyện cho bạn bè nghe, anh ta sẽ không có sự kiểm chứng nào cho lời khẳng định của mình.

Cứ mỗi phút ta lại lùng kiếm ánh đèn pha cực mạnh đảo khắp bầu trời. Thỉnh thoảng bọn ta lại không nhìn thấy bóng dáng nó đâu suốt một hai cây số, tầm nhìn của bọn ta bị chắn bởi cây cối hoặc những ngọn đồi, nhưng bọn ta luôn tìm lại được nó. Càng gần đến Piter bọn ta càng thấy nhiều đèn pha hơn, nhưng ngọn đầu tiên là mạnh mẽ nhất, đến nỗi dường như chiếu bừng cả mặt trăng khi ánh sáng quét qua những miệng núi lửa xa xăm lạnh lẽo ấy.

“Tôi cá là tay đại tá sẽ ngạc nhiên khi nhìn thấy chúng ta,” Kolya nói. “Chắc chắn ông nghĩ lúc này chúng ta đã toi rồi. Ông ta sẽ sung sướng vô cùng với những quả trứng, tôi sẽ đề nghị ông ta mời tới dự đám cưới con gái. Tại sao lại không chứ? Vợ ông ta sẽ quý chúng ta cho mà xem. Và có thể tôi còn được nhảy một bài với cô dâu, chỉ cho cô ta mấy bước, cho cô ta thấy là tôi không ghét bỏ gì phụ nữ đã có chồng.”

“Tôi thậm chí còn không biết đêm nay sẽ ngủ ở đâu đây.”

“Chúng ta sẽ tới chỗ của Sonya. Mà đừng có nghĩ đến chuyện ấy làm gì. Tôi tin chắc đại tá sẽ cho chúng ta chút thực phẩm để bù công khó nhọc, chúng ta sẽ chia cho cô ấy nữa, cố cho có tí mà nhóm bếp. Còn ngày mai tôi sẽ phải lần theo tiểu đoàn của mình. Ha, bọn nó sẽ ngạc nhiên lắm khi thấy tôi.”

“Cô ấy thậm chí còn không biết tôi, tôi không thể ở đó được.”

“Tất nhiên là được. Bây giờ chúng ta là bạn mà, Lev, tôi nói đúng không? Sonya là bạn tôi, cậu là bạn tôi; đừng lo, cô ấy có đầy chỗ mà. Mặc dù ở với cô ấy chắc không còn thích thú nữa khi mà giờ đây cậu đã gặp Vika rồi, nhỉ?”

“Vika làm tôi thấy sợ.”

“Cô ấy làm cả tôi cũng sợ ấy chứ. Nhưng cậu thích cô ấy lắm mà, thú nhận đi.”

Ta mỉm cười, nghĩ đến đôi mắt của Vika, cái môi dưới đầy đặn của cô, đường nét tỉ mỉ của cái xương đòn.

“Có lẽ cô ấy nghĩ tôi quá trẻ so với cô ấy.”

“Có thể. Nhưng cậu đã cứu mạng cô ấy ở đó còn gì. Viên đạn đó đang nhắm thẳng vào đầu cô ấy.”

“Tôi cứu mạng cả anh nữa.”

“Không, tôi kiểm soát được thằng Đức đó mà.”

“Anh đừng hòng, hắn có khẩu súng đó…”

“Cái ngày mà một thằng chăn ngỗng xứ Bavaria nào đó thắng được tôi trong một cuộc đánh nhau…”

Tranh luận cứ thế kéo dài, lan man từ việc phân tích ván cờ và chuyện ta bị cho là rất nhầm nhọt cho đến những vị khách có thể được mời tới đám cưới con gái viên đại tá cho đến số phận của bốn cô gái bọn ta gặp ở khu nông trang. Cuộc trò chuyện giữ cho ta tỉnh ngủ, giữ cho đầu óc ta không nghĩ đến đôi bàn chân tê dại và hai cái chân ngay đuỗn như sào phía dưới mình. Bầu trời rạng dần, từng sắc từng sắc một không thể nhận ra, và bọn ta loang choạng bước trên một con đường rải nhựa mà tuyết được lèn xuống và đi bộ cũng dễ dàng hơn. Trước khi mặt trời nhô lên ở phía Đông, bọn ta nhìn thấy những công sự vành ngoài của Piter: những chiến hào giống như những vết rạch đen sì trên tuyết; những khối răng rồng đúc bằng bê tông; chằng chịt những thanh thép đường ray han gỉ nhô lên khỏi mặt đất lạnh; từng cây số này đến cây số khác hàng rào thép gai quấn quanh những cọc gỗ.

“Tôi sẽ cho cậu biết một điều,” Kolya nói. “Tôi muốn một miếng của cái bánh cưới mả mẹ này. Những gì chúng ta đã trải qua, thế mới công bằng.”

Một thoáng sau anh ta nói, “Họ đang làm gì ấy nhỉ?” và một thoáng sau đó ta nghe thấy tiếng súng nổ. Kolya túm lấy áo khoác của ta và xô ta xuống đất. Những viên đạn rít vèo vèo qua đầu. “Họ đang bắn vào chúng ta,” anh ta nói, trả lời câu hỏi của chính mình. “Này! Này! Chúng tôi là người Nga! Chúng tôi là người Nga, đừng bắn!” Thêm những viên đạn xé toang không khí trên đầu bọn ta. “Chúng tôi là người Nga, quỷ tha ma bắt mẹ các anh đi, nghe tôi đã! Các anh nghe thấy tiếng tôi không! Các anh có nghe tôi không! Chúng tôi có giấy của Đại tá Grechko! Đại tá Grechko! Các anh nghe thấy không?”

Những khẩu súng trường im bặt, nhưng bọn ta vẫn nằm sấp bụng, tay ôm lấy đầu. Phía sau những cộng sự bọn ta nghe thấy tiếng một sĩ quan đang quát tháo người của mình. Kolya ngẩng đầu lên và nhòm về phía các chiến hào, cách vài trăm mét về phía Bắc.

“Chúng chưa nghe nói về bắn cảnh cáo bao giờ à?”

“Có khi đó là những phát bắn cảnh cáo ấy chứ.”

“Không, chúng đã nhắm thẳng vào đầu chúng ta mà. Chẳng qua là chúng không biết bắn, có thế thôi. Lại một bọn thối thây từ Tổ hợp cho mà xem, tôi cá đấy. Có khi mới nhận được súng trường của chúng tuần trước ấy chứ.” Anh ta khum hai bàn tay lại quanh miệng và hét. “Này! Các anh có nghe thấy tôi không? Các anh muốn để dành đạn của mình cho bọn Đức chứ hả?”

“Giơ tay lên trời và từ từ bước về phía bọn tao!” Câu trả lời rống lên tới nơi.

“Các anh sẽ không bắn chúng tôi nếu chúng tôi đứng lên chứ?”

“Sẽ không bắn nếu bọn tao nhìn mà thấy thích chúng mày.”

“Có mả mẹ mày nhìn thích tao ấy,” Kolya lẩm bẩm. “Cậu sẵn sàng rồi chứ, chú sư tử con?”

Khi bọn ta đứng lên, Kolya nhăn mặt và loạng choạng, suýt ngã. Ta nắm lấy cánh tay anh ta để giữ anh ta vững. Vừa nhăn nhó, anh ta vừa phủi lớp tuyết khỏi vạt trước cái áo choàng của mình trước khi vặn người kiểm tra phần dưới phía sau. Cả hai bọn ta đều thấy cái lỗ đạn xuyên qua lớp vải len dày ngang tầm hông.

“Ném vũ khí của mày xuống!” tay sĩ quan quát lên từ chiến hào đằng xa và Kolya lẳng khẩu MP40 của anh ta sang một bên.

“Tôi bị bắn rồi!” anh ta hét trả lại. Anh ta cởi áo khoác, và săm soi cái lỗ trên mông quần. “Cậu có tin được chuyện này không? Bọn chó đẻ ấy bắn vào đít tôi rồi.”

“Bước về phía bọn tao giơ tay lên trời!”

“Anh bắn vào đít tôi rồi, đồ ngu ngốc chó chết! Tôi không thể bước đi đâu được nữa!”

Ta để tay lên cánh tay Kolya, giữ anh ta đứng thẳng; anh ta không thể dồn được tí sức nặng nào lên chân phải của mình.

“Anh nên ngồi xuống,” ta bảo anh ta.

“Tôi không ngồi được. Làm sao mà tôi ngồi xuống được, tôi có một viên đạn trong mông! Cậu có tin được chuyện này không?”

“Anh quỳ xuống được không? Tôi không nghĩ anh nên đứng thế này.”

“Cậu biết tôi sẽ phải nhận bao nhiêu cứt đái từ tiểu đoàn của mình không? Bị bắn vào đít bởi mấy thằng nghiệp dư chó chết vừa mới ở dây chuyền lắp ráp ra?”

Ta đỡ một tay trong khi anh ta hạ người xuống đất. Anh ta nhăn mặt khi đầu gối phải chạm xuống tuyết, giật nẩy cái chân lên. Đám sĩ quan trong chiến hào chắc hẳn vừa tiến hành một cuộc hội ý chớp nhoáng. Lần này là một giọng nói mới cất lên với bọn ta, một giọng nói nhiều tuổi và oai vệ hơn.

“Cứ ở nguyên chỗ các người! Chúng tôi sẽ tới chỗ các người!”

Kolya càu nhàu. “Cứ ở nguyên chỗ các người, hắn còn bảo bọn ta nữa! Phải, tôi nghĩ tôi sẽ làm thế, khi mà tôi đang có một viên đạn súng trường chó chết của các anh trong đít tôi.”

“Có thể nó đã xuyên thẳng qua rồi. Như thế thì tốt hơn phải không, nếu nó xuyên thẳng qua ấy?”

“Cậu muốn tụt quần tôi xuống và kiểm tra không?” anh ta hỏi, trao cho ta một nụ cười nhăn nhó đau đớn.

“Tôi có nên làm gì đó không? Tôi làm gì đây?”

“Ép chặt, người ta bảo thế. Đừng lo, tôi sẽ làm.” Anh ta cởi dây quai của cái mũ lông, bỏ nó ra, và ép chặt vào lỗ đạn. Anh ta phải nhắm nghiền mắt trong giây lát, hít vào thật sâu. Khi mở mắt ra lại, dường như anh ta nhớ ra điều gì đó; với bàn tay đang rảnh anh ta thọc vào dưới cái áo len và lôi ra chiếc hộp trứng lót rơm.

“Cho nó vào dưới áo khoác của cậu,” anh ta ra lệnh. “Chúng ta không muốn chúng bị đông cứng đâu. Và làm ơn đừng có đánh rơi chúng đấy.”

Một vài phút sau bọn ta nhìn thấy một chiếc GAZ lăn bánh về phía mình, một kiểu xe bọc thép với những cái lốp đi tuyết có gai dày và một khẩu súng máy hạng nặng gắn phía sau. Tay xạ thủ giữ cái nòng súng to tướng nhắm vào đầu bọn ta khi chiếc xe phanh lại bên cạnh.

Một tay trung sĩ và một tay trung úy nhảy ra và bước lại gần bọn ta, tay họ để trên báng những khẩu súng ngắn trong bao. Tay trung sĩ dừng lại bên cạnh khẩu MP40 bị vứt đi đang nằm trên tuyết. Anh ta nhìn ngó khẩu súng tiểu liên một lúc trước khi nhìn Kolya.

“Các xạ thủ bắn tỉa của chúng tôi nhìn thấy khẩu súng Đức. Họ đã hành động đúng.”

“Xạ thủ bắn tỉa, anh gọi chúng như thế à? Chúng được huấn luyện để bắn vào đít người ta à?”

“Tại sao anh lại có một khẩu súng Đức?”

“Anh ấy đang chảy máu, anh ấy cần được giúp đỡ,” ta bảo bọn họ. “Các anh không thể hỏi những câu đó sau được à?”

Tay trung úy liếc nhìn ta, cái mặt phèn phẹt, chán chường của anh ta chẳng có tí cảm xúc nào ngoài vẻ hơi thù địch. Đầu anh ta cạo trọc và anh ta không đội mũ, như thể anh ta không hề đếm xỉa đến gió lạnh đang lùa quanh bọn ta.

“Cậu là dân thường phải không? Cậu đang ra lệnh cho tôi đấy à? Tôi có thể xử tử cậu ngay lúc này vì vi phạm lệnh giới nghiêm và ra khỏi phạm vi thành phố không có giấy phép.”

“Làm ơn. Đồng chí sĩ quan. Chúng ta ở đây lâu thêm tí nào nữa thì anh ấy mất máu đến chết mất.”

Kolya thọc tay vào trong túi, rút ra bức thư của đại tá và chìa nó cho cánh sĩ quan. Viên trung úy đọc nó, thoạt đầu còn khinh khỉnh nhưng cứng đờ người khi anh ta nhận ra chữ ký của ai ở cuối trang giấy.

“Lẽ ra các anh phải nói gì đó chứ,” anh ta lúng búng. Anh ta vẫy tay cho người lái xe và tay xạ thủ xuống giúp.

“Lẽ ra tôi phải… tôi chẳng gào tên của đại tá lúc các anh bắn bọn tôi còn gì!”

“Người của tôi đã hành động đúng. Các anh đang tiến lại cùng trang bị của kẻ thù, chúng tôi không được cảnh báo trước…”

“Kolya,” ta nói, tay ta đặt trên vai anh ta. Anh ta ngước lên nhìn ta, miệng anh ta đã mở sẵn, sắp sửa chửi róc thịt tay trung úy. Lần đầu tiên trong đời, anh ta hiểu rằng đây là lúc nên ngậm miệng. Anh ta mỉm cười, hơi đảo mắt một chút, nhưng rồi anh ta nhận ra vẻ lo lắng hiện ra trên mặt ta. Anh ta nhìn theo ánh mắt ta xuống chỗ máu đang rỉ vào trong tuyết, ống quần anh ta ướt sũng. Mảng tuyết loang trông như những chiếc kem anh đào cha ta vẫn thường mua cho ta ở các hội chợ mùa hè.

“Đừng lo,” Kolya nói, chằm chằm nhìn chỗ máu. “Thế cũng không nhiều lắm đâu, đừng lo.”

Người lái xe xốc vào dưới nách anh ta, tay xạ thủ giữ anh ta dưới hai đầu gối, và họ khiêng anh ta lên băng ghế sau của chiếc GAZ vẫn đang nổ máy. Ta nhét người vào khoảng trống giữa ghế tài xế và hàng ghế sau trong khi Kolya nằm sấp, chiếc áo choàng phủ trên người anh ta cho ấm. Bọn ta đi về phía các chiến hào, Kolya nhắm mắt mỗi lần chiếc xe xóc nẩy qua một chỗ mấp mô trên đường. Ta đã lấy chiếc mũ ướt sũng máu từ anh ta và ta ép chặt nó vào vết thương, cố duy trì đủ áp lực để làm chậm quá trình mất máu mà không làm anh ta đau.

Anh ta mỉm cười, mắt anh ta nhắm lại. “Tôi ước giá Vika là người đang để tay lên mông tôi.”

“Nó có đau lắm không?”

“Cậu đã bao giờ bị bắn vào mông chưa?”

“Chưa.”

“Hừm thế thì câu trả lời là có, đau lắm. Tôi chỉ mừng là chúng không bắn trúng phía bên kia. Thưa trung úy,” Kolya nói to, “đồng chí sẽ làm ơn cám ơn các xạ thủ bắn tỉa của mình vì đã không bắn bay bi của tôi chứ ạ?”

Tay trung úy, ngồi trên ghế cạnh người lái, đăm đăm nhìn con đường phía trước và không trả lời, cái đầu nhẵn thín của anh ta lấm tấm những vết sẹo trắng nhỏ.

“Cánh chị em của Leningrad cũng cảm ơn họ nữa.”

“Chúng tôi sẽ đưa anh đến bệnh viện ở Tổ hợp,” viên trung úy nói. “Ở đó có những bác sĩ phẫu thuật giỏi nhất.”

“Tốt lắm, tôi chắc chắn là NKVD sẽ trao huân chương cho đồng chí. Và khi các đồng chí thả tôi xuống, làm ơn cho cậu bạn nhỏ của tôi đây tới đảo Kamenny. Cậu ấy có một gói hàng quan trọng cho đại tá.”

Tay trung úy hậm hực ngồi lặng thinh, tức giận vì anh ta phải nhận lệnh từ một gã binh nhì nhưng lại không dám liều lĩnh gây thù oán với một nhân vật thế lực. Bọn ta dừng lại ở một chiến lũy đắp bao cát và mất gần hai phút trong khi những người lính hạ một cái mặt sàn gỗ ngang qua hào để bọn ta có thể băng qua. Người lái xe quát họ nhanh lên, nhưng ngay cả như thế đám lính vẫn lươn khươn, uể oải và hờ hững, cãi vã về cách đúng đắn để hạ cái cầu. Cuối cùng, bọn ta cũng qua được phía bên kia. Người lái xe đạp ga và bọn ta lao qua những ụ súng máy được tút tát bằng những bao cát.

“Bao xa nữa thì đến bệnh viện?” ta hỏi người lái xe.

“Mười phút. Tám, nếu chúng ta gặp may. “

“Cố gặp may nhé,” Kolya nói. Lúc này mắt anh ta đã nhắm nghiền, mặt anh ta áp chặt vào ghế, mái tóc vàng của anh ta phủ xòa trước trán. Trong vòng một phút vừa rồi anh ta đã trở nên vô cùng nhợt nhạt và run cầm cập không sao ngừng lại được. Ta để bàn tay còn rảnh của mình lên sau gáy anh ta và sờ thấy da anh ta lạnh toát.

“Đừng lo,” anh ta bảo ta. “Tôi từng thấy những đồng đội chảy máu còn tệ hơn thế này và họ đã trở lại sau có một tuần, mình mẩy đầy mũi khâu.”

“Tôi có lo lắng quá đâu.”

“Trong cơ thể người có nhiều máu thế cơ mà. Bao nhiêu ấy nhỉ, năm lít à?”

“Tôi không biết.”

“Trông thì tưởng nhiều lắm, nhưng tôi cá là tôi còn chưa mất đến một lít đâu. Có lẽ là một lít.”

“Có lẽ anh không nên nói nữa.”

“Sao lại không? Nói thì làm sao nào? Nghe này, cậu hãy tới đám cưới nhé. Nhảy với con gái viên đại tá và sau đó tới bệnh viện kể lại cho tôi nghe. Tôi muốn nghe chi tiết. Cô ấy mặc cái gì, cô ấy có mùi như thế nào, tất cả những chi tiết đó. Tôi đã xóc lọ trong tưởng tượng với cô ấy suốt năm ngày liền, cậu có biết không? Ừm, một lần là tưởng tượng đến Vika. Tôi xin lỗi. Nhưng những gì cô ấy làm trong chuồng cừu, nịt cái thắt lưng quanh ngực cô ấy đấy? Cậu thấy rồi mà. Cậu trách tôi làm sao được chứ?”

“Anh lấy thời gian đâu ra mà làm thế?”

“Trên suốt chặng hành trình bất tận khốn kiếp tới đây. Cậu học được cách quay tay khi đang di chuyển khi cậu ở trong quân đội. Tay để trong túi, chẳng có gì khó khăn.”

“Anh đã quay tay khi tưởng tượng đến Vika trong lúc chúng ta đang cuốc bộ đêm qua ấy à?”

“Tôi không định cho cậu biết đâu. Cậu vừa đi vừa ngủ suốt cả nửa đêm, tôi buồn chán nên phải làm cái gì đó. Giờ thì cậu giận rồi. Đừng giận tôi nhé.”

“Tất nhiên là tôi không giận.”

Người lái xe đạp phanh rất mạnh và Kolya chắc hẳn đã văng ra khỏi băng ghế sau nếu ta không đang giữ anh ta. Ta ngồi thẳng người lên và nhìn qua kính trước. Bọn ta đã đến được rìa của Tổ hợp Kirov rộng mênh mông, bản thân nó là cả một thành phố, nơi hàng chục nghìn người lao động suốt ngày đêm. Đạn pháo và bom của bọn Luftwaffe đã san phẳng một số công xưởng máy móc xây bằng tường gạch; những khung cửa sổ trống hoác ở khắp tổ hợp đã được che lại bằng vải nhựa; những hố bom phủ kín băng rải lỗ chỗ các khoảnh sân. Nhưng ngay cả lúc này, với hàng nghìn công nhân đã sơ tán và hàng nghìn người nữa đã chết hoặc đang chờ chết trên các chiến tuyến, ngay cả lúc này các cột ống vẫn không ngừng phun khói, các lối đi tấp nập những người phụ nữ đang đẩy xe cút kít chất đầy than, không khí náo động với tiếng ầm ầm của những chiếc máy tiện đang xoay tít và máy phay đang quay cùng các máy ép thủy lực đang đổ thép.

Một dãy những chiếc xe tăng T-34 mới hoàn thành vừa lăn ra khỏi một gian xưởng lớn như một cái nhà chứa máy bay. Tám chiếc xe tăng, lớp thép còn chưa sơn, chầm chậm âm ỉ trên tuyết bẩn, chặn mất con đường.

“Sao chúng ta dùng lại vậy?” Kolya hỏi. Giọng anh ta nghe yếu hơn một phút trước và ta thấy sợ khi nghe anh ta như thế.

“Mấy chiếc xe tăng đang đi qua.”

“T-34 à?”

“Ừ.”

“Những chiếc tăng được đấy.”

Cuối cùng những chiếc xe tăng cũng qua hết và bọn ta lao vọt lên. Người lái xe đạp mạnh chân ga, tay cầm lái vững vàng, và anh ta biết rõ khu Tổ hợp cắt xuyên qua những con hẻm hậu phía sau các xưởng turbine; lao phăm phăm trên những lối đi không lát dọc các gian nhà kho lợp tôn làm nhà ở của công nhân với những ống khói bếp lò nhỏ thấp tè nhưng ngay cả với một chuyên gia cũng phải mất thời gian mới qua được phía bên kia của cái thành phố công xưởng mênh mông này.

“Kia kìa,” cuối cùng tay trung úy nói, chỉ vào một nhà kho xây bằng gạch đã được hoán cải thành bệnh viện của khu. Anh ta quay người lại trên ghế và nhìn Kolya. Khi không nhìn thấy mặt Kolya, anh ta nhìn ta, dò hỏi. Ta nhún vai để nói, Tôi không biết.

“Quỷ thật!” người lái xe quát ầm, đập tay vào vô lăng và lại đạp phanh. Một cái đầu máy nhỏ xình xịch chạy qua những đường ray chằng chịt khắp Tổ hợp, kéo những toa xe chất đầy sắt phế liệu cho xưởng đúc.

“Lev?”

“Sao cơ?”

“Chúng ta gần tới chưa?”

“Tôi nghĩ chúng ta gần lắm rồi.”

Môi của Kolya đã tím ngắt, hơi thở của anh ta dồn dập và hổn hển.

“Có tí nước nào không vậy?” anh ta hỏi.

“Có ai có nước không?” Tiếng ta vỡ òa khi ta cất lên câu hỏi đó. Nghe giọng ta giống như một đứa bé đang sợ hãi.

Người xạ thủ chuyền lên một cái bi đông. Ta vặn nắp, đặt nghiêng đầu Kolya sang một bên, và cố rót nước vào mặt anh ta, nhưng kết cục nó lại chảy tràn ra ghế. Anh ta cố nâng đầu lên một chút và ta rót được chút nước xuống cổ họng anh ta, nhưng anh ta nghẹn và nhổ nó ra. Khi ta cố cho anh ta uống thêm, anh ta từ chối bằng một cái lắc đầu nhẹ và ta trả cái bi đông lại cho người xạ thủ.

Nhận ra đầu của Kolya chắc là lạnh lắm, ta lột mũ của mình ra và đội lên đầu anh ta, xấu hổ là ta đã không nghĩ đến việc phải làm thế từ trước. Mặc dù anh ta đang run cầm cập, mặt anh ta đẫm mồ hôi, da tái nhợt và loang lổ những mảng đỏ bầm cỡ đồng xu.

Ta có nhìn thấy những cánh cửa của bệnh viện, còn cách chưa đến trăm mét nữa, qua những khoảng trống giữa các toa xe đang lăn bánh. Người lái xe của bọn ta chồm người về phía trước trên ghế, hai tay anh ta quàng quanh vô lăng, gật gật đầu sốt ruột trong khi chờ đợi. Tay trung úy chốc chốc lại ngoảnh nhìn Kolya, mỗi lúc một thêm lo lắng.

“Lev này? Cậu thích cái tên chứ?”

“Tên gì cơ?”

Con chó săn trong sân.”

“Đó là một tên hay mà.”

“Có khi tôi cứ gọi nó là Radchenko cũng được.”

Con chó săn trong sân hay hơn chứ.”

“Tôi cũng nghĩ thế.”

Anh ta mở mắt, đôi mắt Cossack màu xanh nhạt ấy, và mỉm cười với ta. Cả hai bọn ta đều biết rằng anh ta sắp chết. Anh ta run rẩy, nằm trên băng ghế sau dưới cái áo choàng của mình, răng của anh ta thật trắng trên cặp môi tím tái ấy. Ta vẫn luôn tin rằng nụ cười ấy là một món quà dành cho mình. Kolya chẳng tin gì vào những điều thần thánh hoặc kiếp sau; anh ta không hề nghĩ mình đang đến một nơi tốt đẹp hơn, hoặc kể bất kỳ nơi nào. Chẳng có thiên thần nào chờ đón anh ta cả. Anh ta mỉm cười vì biết ta sợ chết đến nhường nào. Ta tin là như vậy. Anh ta biết là ta sợ và anh ta muốn làm nó dễ dàng hơn một chút cho ta.

“Cậu có tin được không? Bị chính người bên mình bắn vào mông.”

Ta muốn nói gì đó, làm một trò đùa ngu ngốc nào đó để làm anh ta vơi bớt. Lẽ ra ta phải nói gì đó. Ta ước giá kể mình đã làm thế, cho dù ngay cả bây giờ cũng không nghĩ ra được phải nói gì cho đúng. Nếu ta bảo anh ta rằng mình yêu anh ta thì liệu anh ta có nháy mắt và nói, “Chẳng trách tay cậu đang để trên mông tôi nhỉ?”

Ngay cả Kolya cũng không thể giữ lâu được nụ cười. Anh ta lại nhắm nghiền mắt. Khi anh ta lên tiếng, miệng anh ta rất khô, môi anh ta dán vào nhau khi cố cất thành lời.

“Nó không như những gì tôi vẫn hình dung,” anh ta bảo ta.