- Vào đi, Manning - John bảo - Tôi muốn nói chuyện với ông.
Manning bước vào, chậm chạp và ngập ngừng, và dừng lại bên chiếc cửa sổ lớn. Ông ta cầm chiếc nón kết trên tay và lặng lẽ xoắn nó. Lưng ông ta rất cong, mặc dù có lẽ ông không già lắm như vẻ bề ngoài, nhưng cặp mắt ông sáng và thông minh, trái hẳn với cách phát biểu chậm và thận trọng của ông.
- Manning - John bảo - Ông này đây sẽ hỏi ông vài điều mà tôi muốn ông trả lời.
- Vâng, thưa ông.
Poirot nhanh nhẹn bước đến. Manning nhìn ông với một thoáng khinh miệt.
- Trưa hôm qua, ông đang chăm chú trồng một luống thu hải đường, gần phía nam ngôi nhà, phải không, ông Manning?
- Vâng, thưa ông, tôi và William cùng làm.
- Và bà Inglethorp đã đến bên cửa sổ và gọi các ông, phải không?
- Vâng, thưa ông, đúng vậy.
- Hãy cho tôi biết chính xác việc gì đã xảy ra sau đó…
- Thế này đây, chả có bao nhiêu đâu, thưa ông. Bà ấy sai William lấy xe đạp xuống làng mua một tờ giấy có dán tem. Bà ấy đã viết cho anh ta cái thứ mà bà ấy cần.
- Rồi sao nữa?
- Anh ta đã đi mua, thưa ông.
- Rồi sau đó?
- Chúng tôi trở lại với những luống cây thu hải đường, thưa ông.
- Bà Inglethorp có gọi các ông lại một lần nữa không?
- Có, thưa ông. Tôi và William.
- Rồi sau đó?
- Bà ấy bảo chúng tôi vào phòng và ký tên bên dưới một tờ giấy lớn có dán tem, ngay dưới chữ ký của chính bà ta.
- Ông có đọc thấy những gì ghi phía trên chữ ký của bà ấy không? - Poirot hỏi ngay.
- Không, thưa ông, bà ấy đã che bằng một tờ giấy thấm lên trên.
- Và các ông đã ký tên ngay ở chỗ bà ấy chỉ chứ?
- Vâng, thưa ông. Trước hết là tôi, rồi đến William.
- Và sau đó bà ấy đã làm gì với tờ giấy đó?
- Thế này, thưa ông, bà ấy đã đút nó vào một chiếc phong bì dài và đã cất vào một thứ hộp màu tím đặt trên bàn giấy.
- Bà ấy cho gọi các ông lần đầu vào lúc nào?
- Khoảng mười sáu giờ, thưa ông.
- Không sớm hơn sao? Không phải là mười lăm giờ ba mươi sao?
- Không, thưa ông, tôi không cho là như thế. Có lẽ là sau mười sáu giờ hơn là trước đó.
- Cám ơn ông, Manning ạ, như thế đủ rồi - Poirot tử tế nói.
Người làm vườn liếc nhìn ông chủ và ông này gật đầu ra dấu. Thế là Manning đưa tay lên trán, ậm ừ đi ra bằng những bước giật lùi nặng nề.
Chúng tôi nhìn nhau.
- Chúa ơi! - John khẽ nói - Quả là một sự trùng hợp kỳ lạ.
- Sao chứ… một sự trùng hợp ư?
- Vì mẹ tôi đã lập một tờ di chúc ngay vào ngày bà ấy qua đời.
Ông Wells khẽ tằng hắng và lãnh đạm nhận xét.
- Anh có chắc đấy là một sự trùng hợp không, Cavendish?
- Ông muốn nói gì thế?
- Anh đã cho biết mẹ anh đã cãi nhau kịch liệt với… với một người nào đó, vào trưa hôm qua.
- Ông muốn nói gì? - John lại hét lên.
Giọng anh run run và mặt anh tái nhợt.
- Sau cuộc cãi vã ấy, mẹ anh vội vàng viết một chúc thư mới. Chúng ta không bao giờ biết được nội dung của nó. Bà ấy đã không cho ai biết. Có lẽ, sáng nay bà ấy sẽ hỏi ý kiến tôi về chuyện đó, nhưng bà ta đã không có đủ thời gian. Tờ chúc thư biế mất, còn bà ta thì đem theo bí mật của mình xuống đáy mồ. Tôi e rằng, Cavendish ạ, đã không có một sự trùng hợp nào đâu. Và tôi tin chắc, ông Poirot ạ, ông cũng đồng ý với các sự kiện rất có ý nghĩa.
- Có ý nghĩa hay không - John nói - thì chúng tôi cũng rất biết ơn ông Poirot đã làm sáng tỏ sự bí mật này. Không có ông ấy, chúng ta sẽ không bao giờ biết được câu chuyện về bức chúc thư. Tôi đoán chừng, tôi không thể hỏi ông điều gì đã khiến ông nghi ngờ sự kiện đó chứ?
Poirot mỉm cười đáp:
- Một chiếc phong bì cũ chằng chịt đầy chữ, và một luống hoa thu hải đường mới trồng.
Tôi cho rằng John rất muốn hỏi thêm nữa, nhưng đúng lúc đó, chúng tôi nghe thấy tiếng động cơ, và tất cả chúng tôi đều quay ra cửa sổ, vừa lúc một chiếc xe hơi chạy ngang qua.
- Evie! - John kêu lên. Xin phép ông, ông Wells ạ.
Rồi anh vội bước ra hành lang.
Poirot liếc nhìn tôi dò hỏi.
- Đó là cô Howard - tôi giải thích.
- À! Tôi rất hài lòng vì cô ấy đã có mặt ở đây. Đó là một phụ nữ có khối óc và trái tim, mặc dù Thượng Đế đã không ban cho cô ta sắc đẹp.
Tôi bước theo John và gặp cô Howard trong hành lang, nơi cô ấy đang cố sức thoát ra khỏi những chiếc khăn voan to tướng bao quanh đầu cô ta. Khi ánh mắt cô ngừng lại ở tôi, tôi chợt cảm thấy hối hận. Người phụ nữ đó phải chăng đã báo trước cho tôi một cách nài nỉ mà, rất tiếc, tôi đã không để tâm đến? Bây giờ, khi mà những sự lo ngại của cô ấy đã được chứng minh một cách thê thảm, tôi cảm thấy xấu hổ. Cô ấy biết quá rõ về Alfred Inglethorp. Tấn thảm kịch đó có xảy ra không, nếu như cô ấy đã ở lại Styles, hay là tên sát nhân đã phải đề phòng cặp mắt tinh tường của cô ta?
Tôi thấy nhẹ nhõm khi cô nắm lấy tay tôi và xiết mạnh như mọi khi. Cặp mắt đang nhìn tôi trông rất buồn, nhưng không đượm vẻ trách móc. Tôi đoán chừng cô ấy đã khóc nhiều qua cặp mắt sưng đỏ của cô ta, nhưng thái độ của cô vẫn giữ vẻ cộc cằn cố hữu.
- Tôi đã lên đường ngay sau khi nhận được điện tín. Tôi đã thuê một chiếc xe để đến nhanh hơn.
- Cô đã ăn gì từ sáng chưa, Evie?
- Chưa.
- Tôi biết ngay mà. Hãy đến đây, người ta vẫn chưa dọn bàn đâu, và tôi sẽ có trà cho cô đấy.
Và quay sang tôi.
- Hastings, cậu hãy tiếp cô ấy nhé? Wells đang đợi tôi. Ồ! Evie, đây là ông Poirot, người đang giúp đỡ chúng ta.
Cô Howard chìa tay cho Poirot, nhưng lại liếc nhìn John nghi ngại qua vai ông.
- Người giúp chúng ta, thế là nghĩa lý gì?
- Người giúp chúng ta tiến hành những cuộc tìm kiếm…
- Không có gì để tìm cả. Người ta đã bắt bỏ tù hắn chưa?
- Ai kia?
- Ai hả? Thì Alfred Inglethorp chứ còn ai nữa?
- Evie thân mến ạ, hãy thận trọng, tôi xin cô. Laurence cho rằng mẹ chúng tôi chết vì một cơn đau tim.
- Laurence chỉ là một thằng ngốc thôi - cô Howard nói - Tất nhiên là bà Emily thân yêu của chúng ta đã bị Alfred Inglethorp giết chết. Tôi vẫn chả nói với anh, thế nào hắn ta cũng đạt được điều ấy sao?
- Evie thân mến ạ, đừng la lớn như vậy. Dù chúng ta có muốn nghĩ hoặc nghi ngờ gì đi nữa, thì trong lúc này cũng nên giữ mồm giữ miệng. Cuộc hỏi cung của nhà chức trách chỉ diễn ra vào thứ sáu này thôi.
- Còn thế nữa chứ - cô kịch liệt cãi - Quý vị đã điên hết rồi sao chứ. Từ đây đến lúc đó, hắn sẽ bỏ xứ đi mất thôi. Nếu như hắn còn một chút lý trí thì hắn sẽ không ở yên đây đợi bị treo cổ đâu.
John nhìn cô với vẻ ngượng ngùng.
- Tôi biết rồi - Cô buộc tội - Anh đã nghe lời các bác sĩ. Không bao giờ nên làm như thế. Họ biết gì chứ? Chẳng biết gì cả, hoặc là vừa đủ để biến họ thành nguy hiểm. Tôi biết rõ họ lắm mà, bố tôi cũng đã là bác sĩ. Cái ông Wilkins nhỏ bé ấy là một tên ngu ngốc nhất mà tôi được biết. Hừm! Đau tim! Thật ra thì quả là những gì ông ta đã nói. Bất cứ ai với một chút lý trí cũng thấy ngay rằng chồng bà ấy đã giết bà. Tôi vẫn từng nói rằng hắn sẽ giết bà ấy ngay trên giường mà, bây giờ thì hắn đã làm thật rồi nhé và anh chỉ biết nói những lời xuẩn ngốc như “đau tim” và “buổi hỏi cung sẽ diễn ra vào thứ sáu” thôi. Anh phải lấy làm xấu hổ đấy, John Cavendish ạ.
- Nhưng cô muốn tôi phải làm gì chứ? - John hỏi mà không thể ngăn được nụ cười - Evie này, dù sao thì tôi cũng không thể nào lôi cổ hắn đến đồn cảnh sát được.
- Này nhé, anh có thể tìm xem hắn đã hành động như thế nào. Hắn rất tinh ranh. Có thể hắn đã cho nhúng những cây đập ruồi chăng? Hãy hỏi thử bà nấu bếp xem có thiếu cây nào không?
Tôi nhận thức được rõ ràng, có lẽ sẽ là một việc làm hết sức nặng nhọc khi để cho cô Howard và Alfred Inglethorp dưới cùng một mái nhà, và tôi không hề muốn ở vào địa vị của John. Tôi thấy được, qua nét mặt của anh, anh cũng hiểu được những khó khăn của tình thế. Trong lúc này, anh chỉ muốn tránh mặt thôi, và vội vã rời khỏi phòng.
Dorcas đem trà đến. Khi bà đi rồi, Poirot, từ bên khuôn cửa sổ nơi từ nãy giờ ông vẫn đứng, bước ra và đến ngồi trước mặt cô Howard.
- Thưa cô - ông trịnh trọng nói - Tôi muốn hỏi cô một điều.
- Ông cứ tự nhiên - cô đáp, vừa nhìn ông với một chút ác cảm.
- Tôi muốn trông cậy vào sự giúp đỡ của cô.
- Tôi sẽ rất vui mừng mà giúp ông treo cổ Alfred lên - cô sẵng giọng nói. Cái giá treo cổ còn quá tốt đối với hắn đấy. Hắn phải bị phanh thây, như thuở xưa vậy.
- Thế thì chúng ta đồng ý với nhau vậy nhé - Poirot nói. Bởi vì tôi cũng muốn treo cổ tên sát nhân.
- Alfred Inglethorp chứ?
- hắn hoặc một người nào khác.
- Không có vấn đề người khác. Bà Emily đáng thương ấy có bao giờ bị giết chết trước khi Alfred đến đâu. Tôi thừa nhận rằng bà ấy bị vây quanh bởi những con cá mập. Nhưng họ chỉ nhắm vào túi tiền của bà ấy thôi. Bà ấy không bị nguy hiểm. Khi Alfred Inglethorp đến thì, lập tức!
- Hãy tin tôi đi, cô Howard ạ - Poirot nghiêm túc nói - Nếu ông Inglethorp là thủ phạm, thì hắn sẽ không thoát được tay tôi đâu. Tôi xin lấy danh dự của mình mà thề rằng sẽ treo cổ hắn ta lên.
- Nói như thế là khá hơn đấy - cô kêu lên thích thú.
- Nhưng tôi phải xin cô tin ở tôi. Sự giúp đỡ của cô có thể rất quý hóa cho tôi đấy. Tôi sẽ cho cô biết tại sao trong căn nhà đang có tang này, chỉ có một mình cô là đã khóc thôi.
Cô Howard chớp mắt, và giọng nói cộc cằn của cô lại được âm sắc mới.
- Nếu như ông muốn nói là tôi mến bà ấy, thì quả đúng vậy. Ông cũng biết rằng bà ấy rất ích kỷ, theo cách của mình. Bà ấy rất rộng lượng, nhưng luôn luôn muốn nhận lại cái gì đó để đáp lại những gì bà ta đã cho. Bà ta không bao giờ cho phép người ta quên đi những gì bà đã làm cho họ. Như thế, bà ta đã không làm cho người ta thương, nhưng đừng tưởng bà ấy không biết hoặc lấy thế làm khổ đâu. Tôi thì lại khác hẳn bà ấy. Ngay ngày đầu tiên, tôi đã đặt thẳng vấn đề với bà ấy: “Tôi muốn bà trả cho tôi bấy nhiêu bảng Anh một năm. Tốt lắm. Nhưng tôi không muốn nhận thêm một xu nào cả, không một đôi găng tay, không một tấm vé hát nào cả”. Thoạt tiên bà ấy không hiểu và còn lấy làm rất phật ý nữa là khác. Bà ấy cho rằng tôi tự ái một cách ngu xuẩn. Bà ấy đã lầm, nhưng tôi không làm sao giải thích cho bà ấy hiểu được. Dù sao đi nữa thì tôi vẫn giữ được phẩm cách của mình. Và trong cả bọn, tôi là người duy nhất dám quý mến bà ấy. Tôi chăm sóc bà ấy. Tôi che chở cho bà ấy chống lại tất cả những người khác. Nhưng một tên vô lại hay nịnh và ngọt ngào lại xuất hiện và thế là hết. Tất cả những năm tháng tận tụy của tôi chẳng còn nghĩa lý gì cả.
Poirot gật đầu với vẻ thiện cảm sâu sắc.
- Tôi hiểu, thưa cô. Tôi hiểu những cảm xúc của cô. Cô cho rằng chúng tôi thiếu nhiệt tình và năng lực, nhưng cô lầm rồi.
Vừa lúc đó, John hé mở cửa và thò đầu vào. Anh yêu cầu chúng tôi lên phòng bà Inglethorp, vì ông Wells và anh đã xem xét xong chiếc bàn giấy dài trong thư phòng. Trên thang lầu, John liếc ngược về phía cửa phòng ăn và tâm sự với tôi.
- Này, liệu chuyện gì sẽ xảy ranếu như hai người đụng đầu nhau nhỉ?
Tôi lắc đầu.
- Tôi đã bảo Mary tìm mọi cách để cách ly họ.
- Nhưng liệu bà ấy có thành công không?
- Chỉ có trời mới biết thôi! Dù sao đi nữa thì chính Inglethorp cũng không muốn gặp Evie lắm đâu…
John cầm lấy chìa khóa từ tay Poirot và chúng tôi bước vào phòng. Vị luật sư tiến ngay đến bên chiếc bàn giấy, theo sau là John.
- Mẹ tôi cất giữ tất cả giấy tờ quan trọng nhất của bà trong chiếc rương nhỏ này - anh bảo.
Poirot rút từ túi áo ra một xâu những chìa khóa nhỏ.
- Xin phép ông. Sáng nay tôi đã khóa nó lại cho cẩn thận hơn.
- Nhưng bây giờ thì nó không còn khóa nữa rồi.
- Không thể như thế được.
- Thì hãy xem đi.
Và, vừa nói, John vừa nhấc nắp lên.
- Quái thật! - Poirot kêu lên kinh ngạc - Thế mà tôi lại đang giữ hai chiếc chìa khóa trong túi.
Ông lại đến bên chiếc rương.
Bỗng ông khựng lại.
- Quả là hay! Ổ khóa này đã bị phá.
- Sao?
Poirot đặt chiếc rương xuống.
- Nhưng ai đã phá nó chứ? Và tại sao? Và khi nào? Cửa phòng cũng khóa kia mà.
Tất cả những câu hỏi đó lần lượt buột ra từ miệng chúng tôi, va chạm với nhau.
Poirot nói một cách quả quyết, gần như máy móc.
- Ai ư? Đó là vấn đề. Tại sao ư? Ồ! Giá như tôi biết được! Khi nào ư? Từ khi tôi ở đây ra, chưa đầy một tiếng. Còn về cánh cửa phòng, đó là một ổ khóa bình thường và có lẽ chìa khóa của một cánh cửa nào đó trong hành lang cũng có thể dễ dàng mở ra được.
Chúng tôi nhìn nhau ngơ ngác. Poirot tiến đến bên lò sưởi. Bề ngoài trông ông điềm tĩnh, nhưng tôi nhận thấy rằng đôi tay ông, do thói quen, khi sắp đặt những chiếc lọ đựng đầy diêm quẹt, đang run mạnh.
- Chuyện gì xảy ra như thế này đây - cuối cùng ông bảo. Chiếc rương đó chứa đựng một bằng chứng, thoạt nhìn thì có thể không mấy quan trọng, nhưng lại đủ để gắn liền vụ giết người với tên sát nhân. Tên này cảm thấy cần thiết cho sự sống còn của mình phải thủ tiêu nó đi trước khi người ta phát hiện ra nó và hiểu rõ ý nghĩa của nó. Do chiếc rương bị khóa, hắn buộc phải phá ổ khóa và qua việc làm đó đã để lộ sự hiện diện của mình. Nhưng để cho hắn phải liều đến như thế thì cái bằng chứng ấy quan trọng vô cùng.
- Nhưng nó có thể là cái gì chứ?
- Ồ! - Poirot kêu lên với cử chỉ phẫn nộ. Điều đó thì tôi cũng không biết nữa. Có thể đó là một văn kiện nào đó, có thể là mảnh giấy mà Dorcas đã nhìn thấy trong tay bà Inglethorp hôm qua. Còn tôi, tôi lại vụng về biết mấy. Tôi đã không đoán được gì cả. Tôi đã hành động như một tên ngu ngốc. Lẽ ra tôi không nên để chiếc rương ở đây mới phải. Lẽ ra tôi phải đem nó theo cùng với mình. Ồ! Quả là ngu thật! Và bây giờ thì tất cả đã bị biến mất, bị tiêu hủy! Nhưng biết đâu vẫn còn hy vọng? Chúng ta không nên bỏ sót một dấu vết nào cả.
Ông lao ra khỏi phòng như một người điên, và tôi chạy theo ông ngay khi đã định thần trở lại. Khi tôi ra đền đầu cầu thang thì ông đã mất hút.
Mary Cavendish đang đứng ở chỗ quẹo của cầu thang và nhìn theo hướng mà Poirot đã biến mất.
- Chuyện gì đã xảy đến với ông bạn bé nhỏ đáng phục của ông thế, ông Hastings? Ông ta vừa chạm mặt với tôi và trông ông ta cứ như một con bò rừng hung hãn ấy.
- Ông ấy đã gặp phải điều rắc rối to - tôi đáp khá mềm mỏng bởi vì tôi không biết Poirot có muốn giấu kín điều phát hiện của mình hay không nữa.
Nhìn thấy một nụ cười nở trên môi bà Cavendish, tôi thay đổi đề tài và nói.
- Họ chưa gặp nhau chứ?
- Ai cơ?
- Ồ! Inglethorp và cô Howard ấy mà.
Bà nhìn tôi, hơi chưng hửng.
- Ông cho rắng nếu như họ gặp nhau thì sẽ là một tai họa sao?
- Nhưng… còn bà? - Tôi sững sờ hỏi.
- Tôi thì không.
Và bà thản nhiên mỉm cười.
- Không, tôi muốn chứng kiến một trận cãi vã ác liệt. Nó sẽ làm cho không khí nhẹ thở hơn. Trong lúc này, tất cả chúng ta đều suy nghĩ quá nhiều và nói quá ít.
- John không nghĩ như thế đâu - tôi bảo. Anh ta muốn ngăn cản không cho họ gặp nhau, nếu có thể được.
- Ồ, John!
Có cái gì đó trong giọng nói làm tôi phẫn nộ và tôi kêu lên:
- Cái anh chàng John già nua ấy là một người tuyệt vời.
Bà tò mò nhìn tôi trong vài giây rồi bảo:
- Ông rất trung thực đối với bạn mình. Vì thế tôi thích ông.
- Bà cũng không là bạn tôi sao?
- Tôi là một người bạn rất xấu.
- Tại sao bà lại nói như thế?
- Bởi vì đó là sự thật, hôm nay tôi tỏ ra dễ thương đối với bạn bè, hôm khác tôi lại quên họ ngay.
Tôi không biết mình ra sao nữa. Có lẽ tôi đã bị tổn thương. Dù sao đi nữa, tôi cũng có nhận xét như sau, mặc dù nhận xét đó thật vô duyên.
- Thế mà bà lại luôn luôn tỏ ra dễ thương đối với bác sĩ Bauerstein.
Ngay sau đó, tôi lấy làm hối tiếc về những lời nói của mình. Gương mặt bà đanh lại. Tôi có cảm giác rằng một bức màn sắt vừa sập xuống. Không nói một lời nào, bà quay gót và bước nhanh lên cầu thang, trong khi tôi đứng nhìn theo như một tên ngu ngốc.
- Ông bạn thân mến ạ - tôi bảo - ông có điên không đấy? Chắc chắn là ông chẳng muốn cả nhà biết chuyện mất mát ấy, phải không? Ông bị trúng kế của tên sát nhân rồi đấy.
- Anh cho là như vậy ư?
- Tôi tin chắc như thế - tôi quả quyết.
- Được rồi, anh bạn, tôi nghe theo anh đây.
- Tốt lắm, nhưng rất tiếc bây giờ đã muộn mất rồi.
- Quả vậy!
Ông có vẻ ăn năn đến độ tôi thấy tội nghiệp cho ông, mặc dù lời quở trách của tôi rất đúng và rất khôn ngoan.
- Nào - ông nói. Hãy đi thôi, anh bạn ạ.
- Ông không còn gì phải làm sao?
- Lúc này thì không. Anh có muốn đi cùng tôi vào làng không?
- Sẵn lòng.
Ông nhặt chiếc ví lên và chúng tôi bước ra bằng lối cửa sổ lớn trong phòng khách. Đúng lúc đó, Cynthia đi đâu về và Poirot tránh sang một bên nhường lối cho cô ta.
- Xin lỗi cô, xin cô một phút thôi.
- Vâng - cô đáp, hơi ngạc nhiên.
- Cô có bao giờ pha chế thuốc điều trị cho bà Inglethorp không?
Cô hơi đỏ mặt và đáp với vẻ bối rối:
- Không.
- Chỉ thuốc bột thôi chứ?
Mặt cô đỏ thêm trong khi cô nói:
- Ồ! Vâng, có một lần tôi đã pha chế thuốc ngủ bột cho bà ấy.
- Cái này đây, phải không?
Poirot giơi chiếc hộp trống đã từng chứa thuốc bột ra.
Cô ta gật đầu thừa nhận.
- Cô có thể cho tôi biết công thức của nó không? Suyn-phê-nan ư? Hay Vé-rô-nan?
- Không, đấy là bột Brô-mua.
- À, cám ơn cô. Tạm biệt.
Đã hơn một lần, tôi đưa mắt nhìn ông trong khi chúng tôi vội vã rời ngôi nhà. Tôi vẫn thường nhận thấy rằng khi ông bị kích động thì đôi mắt ông trở nên xanh như mắt mèo, trong lúc đó, chúng sáng lên như những viên ngọc thạch.
- Anh bạn ạ - cuối cùng ông kêu lên - tôi có một ý nghĩ nhỏ, rất lại và có thể hoàn toàn vô lý… Nhưng nó lại phù hợp…
Tôi nhún vai, và trong thâm tâm mình, tôi cho rằng Poirot hơi tin tưởng thái quá vào những ý nghĩ hoang đường ấy. Trong trường hợp này, sự thật đã quá rõ ràng rồi.
- Thế ra đấy là lời giải cho cái nhãn trắng trên chiếc hộp - tôi nói. Rất đơn giản, như ông đã nói. Tôi lấy làm ngạc nhiên vì đã không nghĩ đến điều đó sớm hơn.
Poirot có vẻ như không nghe tôi nói.
- Ở đó họ vừa mới phát hiện ra một điều mới lạ nữa - ông nói, đưa tay chỉ về hướng Styles Court. Ông Wells đã cho tôi biết khi chúng tôi bước lên thang lầu.
- Và đó là điều gì?
- Họ đã tìm thấy một tờ chúc thư của bà Inglethorp lập từ trước cuộc hôn nhân sau của mình, cất giữ trong thư phòng, trong đó bà ta để lại tất cả gia sản cho Alfred Inglethorp. Có lẽ nó được lập vào thời gian họ đang đính hôn với nhau. Đó là một sự bất ngờ đối với Wells cũng như đối với John Cavendish. Tờ chúc thư được viết trên một mẫu in sẵn, có chữ ký của hai người giúp việc làm nhân chứng, nhưng không phải là Dorcas.
- Ông Inglethorp có biết đến văn kiện đó không?
- Ông ta cho rằng không.
- Không thể xem lời khai của ông ta như là sự thật được - tôi hoài nghi nói. Tất cả những tờ chúc thư này làm rối bời mọi việc cả lên. Hãy nói cho tôi biết: làm thế nào mà những chữ viết hý hoáy trên chiếc phong bì đã cho phép ông phát hiện ra một tờ chúc thư vừa mới được lập vào trưa hôm qua chứ?
Poirot mỉm cười.
- Anh bạn ạ, anh có bao giờ bị gián đoạn trong khi đang viết vì không biết viết đúng chính tả của một chữ nào đó không?
- Có, rất thường. Cũng như mọi người thôi.
- Đúng thế. Và trong trường gợp đó, anh có hý hoáy viết chữ đó một hoặc hai lần trên tờ giấy thấm hoặc trên một mẩu giấy nào đó, để xem có đứng chính tả chưa không? Thế đấy, bà Inglethorp đã làm y như vậy. Do đó tôi biết rằng bà Inglethorp đã viết chữ “sở hữu” vào trưa hôm qua, và nhớ lại mẫu giấy đã tìm thấy trong lò sưởi, tôi nghĩ đến một tờ chúc thư, một văn kiện gần như bắt buột phải có từ đó. Khả năng đó được khẳng định thêm bởi những sự kiện khác nữa. Trong lúc bối rối toàn diện vào sáng nay, thư phòng đã không được quét dọn và, gần chiếc bàn giấy, tôi nhận thấy nhiều vết đất phân. Từ nhiều ngày nay, thời tiết tốt và không có chiếc giày bình thường nào lại để lại một lớp đất dày đến như thế.
Tôi bước ra đến cửa sổ và tôi nhận thấy ngay là những luống hoa thu hải đường vừa mới được trồng xong. Đất trong những luống hoa cùng loại với thứ lấy được trên tấm thảm trong thư phòng, và tôi được biết qua anh, chúng mới được trồng vào trưa hôm qua. Bấy giờ thì tôi tin chắc, một trong những người làm vườn, nếu không phải cả hai, bởi vì có đến hai hàng dấu chân trong luống hoa, đã bước vào thư phòng, vì nếu như bà Inglethorp chỉ muốn nói chuyện với họ thôi thì bà ta chỉ việc đứng gần cửa sổ, còn họ thì không việc gì phải bước vào phòng. Như thế, tôi đoán chắc bà ta vừa mới viết một chúc thư xong, và đã gọi hai người làm vườn đến làm nhân chứng. Những biến cố đã chứng minh cho sự đúng đắn của những giả định của tôi.
- Quả là ông rất tinh khôn - tôi thừa nhận - và tôi phải thú thật rằng những kết luận mà tôi đã rút ra từ những chữ viết hý hoáy ấy hoàn toàn sai lệch.
Ông mỉm cười.
- Anh đã thả lỏng cho trí tưởng tượng của mình. Đó là một người đầy tớ tốt nhưng lại là một người chủ dở. Giả thiết đơn giản nhất luôn luôn là cái hữu lý nhất.
- Còn một điều này nữa, làm sao ông biết được chìa khóa của cái rương nhỏ bị mất chứ?
- Tôi không hề biết. Đó chỉ là một giả định vô tình lại đúng thôi. Anh có nhận thấy rằng có một mảnh dây thép cong queo được xỏ ngang qua chiếc vòng không? Điều đó cho phép tôi nghĩ ngay rằng chiếc chìa khóa đó vừa được tháo ra từ một xâu chìa khóa. Nhưng trên xâu chìa khóa tôi lại tìm thấy một chiếc chìa khóa mới toanh. Tôi cho rằng có một người nào khác đã đút chiếc chìa khóa đầu tiên của ổ khóa vào chiếc rương nhỏ.
- Phải - tôi nói - có lẽ là Alfred Inglethorp chăng?
Poirot nhìn tôi lạ lùng.
- Anh tin chắc vào tội trạng của hắn sao?
- Dĩ nhiên rồi! Mỗi một trường hợp mới lại chứng minh rõ hơn điều đó.
- Trái lại - Poirot điềm nhiên nói - có nhiều điểm có lợi cho hắn.
- Ồ! Thôi đi.
- Có chứ.
- Tôi chỉ thấy có một điểm mà thôi.
- Điểm nào vậy?
- Sự kiện hôm qua hắn đã không có mặt ở Styles Court.
- Lầm to, lầm to. Anh đã chọn điểm duy nhất, theo ý tôi, bất lợi cho hắn.
- Sao thế?
- Bởi vì nếu như ông Inglethorp biết vợ ông ta sẽ bị đầu đọc vào tối hôm qua, chắc chắn rằng ông ta sẽ tìm đủ mọi cách để không có mặt ở Styles Court. Lý do của ông ta tất nhiên là hoàn toàn bịa đặt. Điều đó cho chúng ta hai khả năng. Hoặc là ông ta biết chuyện gì sẽ xảy ra, hoặc là ông ta có lý do riêng gì đó để phải vắng mặt.
- Và lý do đó là gì? - Tôi hoài nghi hỏi.
Poirot nhún vai.
- Làm sao tôi biết được? Có lẽ là không thể nào thú nhận được. Thời gian sẽ chứng mình người nào trong hai chúng ta có lý. Anh suy ra được điều gì từ sự kiện rằng tất cả các cửa phòng ngủ đều được khóa từ bên trong?
Tôi suy nghĩ một lát.
- Thế này, cần phải xem xét sự kiện đó một cách lô-gích.
- Đúng vậy.
- Ý kiến tôi như thế này. Các cánh cửa đều khóa, chính chúng tôi đã nhận thấy điều đó; thế nhưng vết sáp trên thảm và việc thiêu hủy tờ chúc thư cho thấy có một người nào đó đã đột nhập vào phòng trong đêm. Cho đến đây, ông có đồng ý với tôi không nào?
- Hoàn toàn. Anh phát biểu rõ ràng một cách đáng khen. Hãy cứ tiếp tục đi.
- Thế này nhé - được khuyến kích tôi tiếp - do nhân vật đã đột nhập vào phòng không thể vào bằng lối cửa sổ hoặc bằng một cách phù phép nào đó, điều đó dẫn đến việc cánh cửa phải được mở từ bên trong do chính bà Inglethorp. Điều này càng củng cố thêm cho lòng tin của tôi rằng người đó không ai khác hơn là chồng bà ta. Tất nhiên là bà ta đã mở cửa cho chồng mình rồi.
Poirot lắc đầu.
- Tại sao chứ? Bà ấy đã khóa trái cửa phòng, một hành động quả là kỳ quặc về phần bà ta, nhưng bà ấy đã cãi nhau kịch liệt với ông ta vào ngay buổi trưa hôm đó. Không, ông ấy sẽ là người cuối cùng mà bà ta chấp nhận cho vào.
- Nhưng ông có đồng ý với tôi, chính bà Inglethorp đã mở cửa không nào?
- Còn một khả năng khác nữa. Bà ta có thể đã quên không khóa cửa ăn thông ra hành lang trong khi đi ngủ, và sau đó, lúc gần sáng, bà ta đã dậy để sữa chữa sai lầm đó?
- Poirot này, đó có thật sự là ý kiến của ông không?
- Không, tôi không nghĩ như thế, nhưng điều đó có thể xảy ra. Và, để nhìn sự việc dưới một góc độ khác, anh nghĩ gì về mẫu đối thoại mà anh đã nghe được giữa bà Cavendish và mẹ chồng?
- Tôi không nghĩ đến nó nữa - tôi trầm ngâm bảo - Điều đó vẫn còn rất bí ẩn. Dường như thật khó tin rằng một người như bà Cavendish, rất mực kiêu hãnh và tinh tế, lại có thể xen vào một câu chuyện chắc chắn không hề liên can gì đến mình, một cách thô bạo đến như vậy.
- Đúng vậy. Thật là đáng ngạc nhiên đối với một phụ nữ có giáo dục như bà ấy.
- Điều đó quả là lạ lùng - tôi nói - nhưng không mấy quan trọng và không cần thiết phải quan tâm đến làm gì.
Poirot rên lên.
- Nhưng tôi vẫn chẳng nói với anh như thế nào? Cần lưu ý đến tất cả cơ mà. Nếu như sự kiện không phù hợp với luận điểm thì hãy bỏ luận đểm ấy đi.
- Thế thì hãy chờ xem - tôi đáp lại, hơi mích lòng.
- Vâng, chúng ta hãy chờ xem.
Chúng tôi về đến biệt thự Leastways và Poirot dẫn tôi lên phòng ông. Ông mời tôi một trong những điếu thuốc lá Nga mà thỉnh thoảng ông vẫn hút. Tôi thích thú nhận thấy rằng ông cất công bỏ những mẩu diêm vào một chiếc bình sứ. Sự bực bội nhất thời của tôi biến mất ngay.
Poirot đặt hai chiếc ghế của chúng tôi trước cửa sổ để mở, từ đó có thể trông thấy cả con đường làng. Không khí ẩm và dễ chịu tràn vào. Ngày hôm nay sẽ khó chịu đấy.
Tôi bỗng để ý thấy một thanh niên gầy còm đang chạy hết tốc lực trên đường. Nét mặt anh ta trông thật kỳ quặc: người ta có thể nhận thấy nét sợ hãi pha lẫn bồn chồn.
- Hãy nhìn kìa, Poirot - tôi nói.
Ông chồm ra phía trước.
- Ủa! - Ông bảo - Đó là ông Mace, người điều chế ở hiệu thuốc tây. Anh ta đến đây đấy.
Người thanh niên dừng lại trước biệt thự Leastways, và sau một lúc do dự, anh gõ mạnh vào cửa.
- Xin đợi cho một lát - Poirot nói vọng từ cửa sổ - Tôi xuống ngay đây.
Ra dấu cho tôi bước theo, ông xuống mở cửa. Ông Mace sôi nổi nói ngay.
- Ông Poirot ạ, tôi lấy làm tiếc đã làm phiền ông, nhưng tôi nghe nói ông vừa từ Styles Court về, phải không?
- Đúng vậy.
Môi người thanh niên khô ran. Gương mặt anh bị méo đi vì những cơn co giật.
- Cả làng chỉ nói đến cái chết bất ngờ của bà Inglethorp đáng thương thôi. Người ta còn bảo (anh trầm trọng hạ thấp giọng) rằng đó là một vụ đầu độc nữa chứ.
Gương mặt của Poirot vẫn thản nhiên như không.
- Chỉ có các bác sĩ mới có thể nói như thế thôi, ông Mace ạ.
- Vâng… tất nhiên rồi.
Người thanh niên do dự, nhưng sự nóng nảy đã thắng thế. Ahnh nắm lấy cánh tay của Poirot và giọng anh ta chỉ còn lại là tiếng thì thầm.
- Hãy cho tôi biết điều này thôi, ông Poirot ạ. Đó không phải… Đó không phải là chất Stychnin chứ?
Tôi gần như không nghe thấy câu trả lời của Poirot. Có lẽ nó rất mơ hồ. Người thanh niên bỏ đi, và sau khi đóng cánh cửa lại sau lưng mình, đôi mắt của Poirot gặp phải đôi mắt của tôi.
- Vâng - ông gật đầu và trịnh trọng nói - Anh ta cần phải đến làm chứng tại buổi hỏi cung.
Chúng tôi chầm chậm trở lên lầu. Tôi định mở miệng nói thì Poirot đưa tay ngăn lại.
- Bây giờ thì không nên. Bây giờ không nên, anh bạn ạ. Tôi cần phải suy nghĩ. Ý nghĩ của tôi thật bề bộn, và điều này thật đáng tiếc.
Ông ngồi trong im lặng hoàn toàn, khoảng mười phút, bất động, thỉnh thoảng lại có cái nhíu mày khá ý nghĩa, và trong lúc đó cặp mắt ông càng lúc lại càng xanh hơn. Cuối cùng ông thở dài.
- Được rồi. Giây phút khó khăn đã qua đi. Bây giờ thì tất cả đã được sắp xếp lại. Đừng bao giờ chấp nhận sự lộn xộn. Trường hợp này còn lâu mới được sáng tỏ, vì nó rắc rối một cách khác thường. Nó khiến tôi thắc mắc. Tôi đây! Hercule Poirot! Có hai sự kiện vô cùng có ý nghĩa.
- Sự kiện gì?
- Cái thứ nhất là thời tiết ngày hôm qua. Điều đó rất quan trọng.
- Nhưng hôm qua trời thật đẹp kia mà - Tôi kêu lên - Poirot, quả là ông trêu chọc tôi đấy.
- Không đâu. Hàn thử biểu chỉ hai mươi sáu độ trong mát. Anh bạn ạ, đừng nên quên điều đó. Đó là chìa khóa cho tất cả sự bí mật đấy.
- Còn điểm thứ hai? - Tôi hỏi.
- Đó là cách phục sức khá kỳ lạ của ông Inglethorp, ông ta còn để râu và đeo kính nữa.
- Poirot ạ, tôi không thể nào tin được rằng anh nói chuyện nghiêm túc đâu.
- Tôi hoàn toàn nghiêm túc đấy, ông bạn ạ.
- Nhưng điều đó thật là trẻ con.
- Không đâu, nó rất quan trọng.
- Và giả sử bồi thẩm đoàn tuyên bố buộc tội Alfred Inglethorp là giết người có toan tính trước thì sao? Những luận điểm của ông lúc đó sẽ ra sao?
- Chúng sẽ không bị lay chuyển bởi sự sai lầm của bảy con người ngu ngốc đâu. Nhưng chuyện đó sẽ không xảy ra. Thứ nhất vì một bồi thẩm đoàn ở miền quê sẽ không bao giờ muốn gánh lấy một trách nhiệm như thế, và ông Inglethorp lại đang giữ vị trí chủ nhân một lâu đài trong vùng. Và sau nữa - ông thản nhiên tiếp - tôi sẽ không cho phép.
- Ông không cho phép ư?
- Không.
Tôi nhìn người đàn ông bé nhỏ và kỳ quặc ấy, thôi thúc bởi sự bực bội lẫn sự thích thú. Ông ta tự tin đến độ đáng kinh ngạc. Và ông nhẹ nhàng gật đầu, cứ như ông đọc được suy nghĩ của tôi vậy.
- Thật đấy, anh bạn ạ, tôi sẽ làm những gì đã nói.
Ông đứng dậy và đặt tay lên vai tôi. Gương mặt ông bỗng lộ vẻ xúc động, mắt ông đầy lệ.
- Anh thấy đấy, anh bạn ạ, trong tất cả chuyện này, tôi chỉ nghĩ đến bà Inglethorp đáng thương đã chết. Bà ấy không được người ta thương lắm, không đâu. Nhưng bà ấy đã tỏ ra rất tốt bụng đối với người Bỉ chúng tôi, và tôi có một món nợ đối với bà ta.
Tôi định ngắt lời nhưng Poirot đã tiếp.
- Hãy để tôi nói điều này, Hastings ạ. Bà ấy sẽ không bao giờ tha thứ cho tôi, nếu như tôi để cho chồng bà ta, Alfred Inglethorp, bị bắt trong lúc này, khi mà tôi chỉ cần nói một tiếng thôi để ngăn chặn việc đó.