Jamie Mc Gregor sống được đúng một năm kể từ ngày anh bắt đầu lâm bệnh, nhưng đó là thời gian hạnh phúc nhất trong cuộc đời của Margaret. Jamie hoàn toàn bất lực. Anh không nói chuyện được, cũng không cử động. Margaret săn sóc cho chồng, chăm chút từng nhu cầu của anh, ngày cũng như đêm. Ban ngày, nàng đỡ anh ngồi dậy trong chiếc xe đẩy trong phòng may vá, và trong khi nàng đan những chiếc áo len, may những chiếc áo choàng cho anh, nàng nói chuyện với anh. Nàng bàn luận về những vấn đề nhỏ nhặt trong nhà trong cửa, mà anh chưa hề bao giờ được nghe nói trước đó, rồi nàng kể cho anh nghe về bé Kate đã tiến bộ ra sao. Đến đêm, nàng bồng thân hình gầy như bộ xương của Jamie đến phòng ngủ của nàng, nhẹ nhàng đặt anh lên giường bên cạnh nàng. Nàng đắp chăn cho anh, rồi hai người mở đầu cuộc nói chuyện lảm nhảm một chiều cho đến khi Margaret bắt đầu thấy buồn ngủ.
David Blackwell điều hành mọi công việc của công ty Kruger-Brent. Thỉnh thoảng, David đem giấy tờ đến nhà để Margaret ký, và cảm thấy đau nhói trong lòng mỗi khi trông thấy tình trạng bất lực của Jamie. Ta chịu ơn người này về tất cả mọi phương diện, David thầm nghĩ.
“Anh đã chọn người rất khéo, Jamie ạ.” Margaret nói với chồng. “David là một người rất tốt” Nàng đặt đồ thêu xuống, tủm tỉm cười. “Anh ta làm cho em nhớ lại anh xưa kia. Tất nhiên, chưa bao giờ có ngưòi nào thông minh, tài giỏi như anh, anh yêu quý ạ, và sẽ không bao giờ có một người như vậy nữa đâu. Anh trước kia là một người rất đẹp đẽ, mạnh khoẻ và tốt bụng. Anh không e ngại mơ tưởng những việc cao xa, thế nhưng bây giờ, tất cả những giấc mơ của anh đều trở thành sự thật. công ty của ta mỗi ngày mõi lớn mạnh. Nàng nhặt đồ thêu lên, tiếp tục làm việc. “Bé Kate đã bắt đầu nói chuyện được rồi. Em chắc chắn rằng sáng nay nó đã biết kêu: “Mẹ!” được rồi…”
Jamie được chống đỡ để ngồi dậy trong chiếc xe đẩy, một mắt nhìn chằm chằm về phía trước.
“Bé Kate có cặp mắt và cái miệng của anh. Lớn lên nó sẽ rất xinh đẹp.”
Sáng hôm sau, khi Margaret thức dậy, Jamie McGregor đã chết. Nàng ôm anh trong vòng tay, áp sát vào người mình.
“Anh hãy yên nghỉ, anh yêu quý. Hãy yên nghỉ. Em lúc nào cũng yêu anh rất nhiều, Jamie ạ. Em hi vọng anh hiểu cho điều ấy. Vĩnh biệt anh, người yêu thân thiết của riêng em.”
Bây giờ nàng sống cô đơn. Chồng và con trai nàng đã rời bỏ nàng ròi. Chỉ còn có nàng và đứa con gái. Margaret đi vào phòng đứa bé, nhìn xuống Kate đang nằm ngủ trong chiếc giường cũi. Katherine, Kate. Tên đấy là do chữ Hi Lạp có nghĩa là trong sáng, tinh khiết. Đó là một cái tên dành cho các vị thánh, các nữ tu và các bà hoàng.
Margaret nói thật to: “Con sẽ trở thành người nào trong các vị ấy, hở Kate?”
Lúc ấy là vào thời kì bành trướng mạnh mẽ ở Nam Phi, nhưng cũng là một thời kì đấu tranh kịch liệt. Cuộc tranh giành vùng Transvaal vẫn dai dẳng giữa người Boer và người Anh, và cuối cùng nổ bùng ra. Ngày thứ năm, 12 tháng 10 năm 1899, vào ngày sinh nhật thứ bảy của Kate, người Anh tuyên chiến với người Boer, và ba ngày sau Tiểu bang Tự do Orange bị tấn công. David cố gắng thuyết phục Margaret rời Nam Phi, cùng với Kate, nhưng Margaret từ chối.
“Chồng tôi ở đây”, nàng nói.
David không còn có cách nào thuyết phục được nàng. Anh nói với Margaret: “Tôi sẽ gia nhập nhóm người Boer. Bà có thể lo toan mọi việc được không?”
“Cố nhiên là được”, Margaret nói. “Tôi sẽ giữ cho công ty vẫn tiếp tục hoạt động.”
Sáng hôm sau, David lên đường.
Người Anh nghĩ rằng họ sẽ chiến thắng dễ dàng và nhanh chóng. Đó chỉ là một cuộc hành quân áp đảo mà thôi, vì vậy, họ đi vào cuộc chiến với tinh thần tin tưởng, vô tư và vui vẻ như một ngày nghỉ lễ. Trong các trại lính Hyde Park ở London, người ta tổ chức một bữa ăn tiễn chân binh sĩ, với một thực đơn đặc biệt trên đó có vẽ một người lính Anh giơ tay cao một cái khay đựng thủ cấp của một con lợn rừng. Các món ăn trên thực đơn toàn những món được đặt tên bằng các vùng đất, thị trấn, thành phố Nam Phi: chẳng hạn, sò huyết Blue Points, thịt cừu Mafeking, củ cải Transvaal, nước sốt Cape Town, phó mát Hà Lan, rượu Orange v.v…
Nhưng đến Nam Phi, người Anh đã vấp phải một ngạc nhiên lớn. Người Boer ở trên lãnh thổ của họ nên họ rất cứng rắn và cương quyết. Cuộc chiến đấu đầu tiên diễn ra ở Mafeking, chỉ lớn hơn một ngôi làng một chút, và đây cũng là lần đầu tiên họ nhận thức được kẻ thù của họ như thế nào. Nhiều đạo quân nữa được nhanh chóng chở từ nước Anh đến. Họ bao vây Kimberley, và chỉ sau một cuộc chiến đấu hung dữ, đẫm máu, họ mới tiến chiếm được Ladysmith. Các đại pháo của người Boer có tầm xa hơn các đại pháo của người Anh, vì vậy người ta phải gỡ các súng tầm xa trên các chiến hạm Anh, chuyển vào đất liền, và dùng các thuỷ thủ điều khiển các khẩu súng lớn ấy ở cách xa các chiến thuyền của họ đến hàng trăm dặm.
Ở Klipdrift, Margaret hăm hở theo dõi tin tức của mỗi trận đánh. Nàng và những người xung quanh nàng sống bằng các tin đồn; tâm trạng của họ thay đổi từ vui mừng đến thất vọng, tuy theo mỗi tin tức nhận được. Rồi một buổi sáng nọ, một nhân viên của Margaret chạy xộc vào văn phòng nàng và nói, “Tôi vừa nghe tin quân Anh đang tiến về phía Klipdrift. Họ sẽ giết tất cả chúng ta”
“Vô lý! Họ không dám đụng đến chúng ta đâu.”
Năm giờ đồng hồ sau đó, Margaret McGregor đã trở thành một tù nhân chiến tranh.
Margaret ôm Kate được đến Paardeberg, một trong hàng trăm trại tù binh đã mọc lên khắp Nam Phi. Tù nhân được nhốt trong những vùng đất rộng lớn có dây kẽm gai bao bọc xung quanh và do lính Anh võ trang canh giữ. Điều kiện ăn ở tại đó thật tệ hại.
Margaret ôm Kate vào lòng và nói, “Đừng có lo, con ạ. Sẽ không có chuyện gì xảy ra với chúng ta đâu.”
Nhưng không một ai tin điều đó. Mỗi ngày lại ghi nhận thêm nhiều chuyện kinh khủng. Họ trông thấy những người xung quanh chết, đông hàng chục, hàng trăm, rồi đến hàng nghìn người. Không có bác sĩ, thuốc men cho những người bị thương, lương thực thì hiếm hoi. Cơn ác mộng ấy vẫn cứ tiếp diễn thường trực trong hầu hết ba năm đau khổ ấy. Tệ hại nhất là cảm giác hoàn toàn bất lực. Margaret và Kate hoàn toàn phó mặc số phận cho những bữa cơm, nơi trú ẩn và cả đới sống của họ nữa. Kate sống trong sự kinh hãi. Cô nhìn thấy trẻ xung quanh bị chết, và lo sợ rằng cô sẽ là kẻ kế tiếp. Cô bất lực, không giúp đỡ gì được cho mẹ và cho bản thân, đó là một bài học mà cô sẽ không bao giờ quên được. Quyền lực. Giá như ta có sức mạnh, ta sẽ có thức ăn. Ta sẽ có thuốc. Ta có tự do. Cô nhìn thấy những kẻ xung quanh ốm rồi chết, rồi cô cân nhắc giữa quyền lực và sự sống. Kate tự nhủ, “Một ngày kia, ta sẽ có quyền lực. Không một ai có thể làm như thế này đối với ta nữa đâu.”
Những trận chiến dữ dội vẫn tiếp diễn – ở Belmont, Graspan, Stormberg và Spiocnkop – nhưng cuối cùng, những người Boer anh dũng đã chứng tỏ họ không phải là những địch thủ cân xứng của đế quốc Anh mạnh mẽ. Vào năm 1902, sau gần ba năm chiến tranh, đẫm máu, người Boer đầu hàng. Năm mươi lăm ngàn người Boer chiến đấu, và ba mươi bốn ngàn binh lính, đàn bà, trẻ con của họ đã chết. Nhưng điều đã khiến cho những kẻ sống sót cảm thấy cay đắng sâu sắc, ấy là khi họ biết rằng hai mười tám ngàn người trong số đó đã chết trong các trại tập trung của người Anh.
Vào ngày các cánh cổng của trại giam được mở tung ra, Margaret và Kate trở lại Klipdrift. Ít tuần lễ sau, vào một ngày chủ nhật yên tĩnh, David Blackwell đến thăm họ. Chiến tranh khiến cho anh trở nên già dặn hơn, nhưng anh vẫn là anh chàng David nghiêm trang, biết suy nghĩ chín chắn, mà Margaret trước kia đã tin cậy. David đã trải qua ba năm kinh khủng ấy trong chiến đấu, và luôn luôn lo lắng không biết Margaret và Kate còn sống hay đã chết. Khi trông thấy họ được an toàn, anh cảm thấy một nỗi vui mừng tràn ngập.
“Tôi ước ao làm sao có thể che chở được cho bà và cô Kate.” David nói với Margaret.
“Tất cả chuyện ấy thuộc về quá khứ rồi, David ạ. Chúng ta chỉ nên nghĩ đến tương lai mà thôi.”
Và tương lai ấy là công ty Kruger-Brent.
Đối với thế giới, năm 1900 là một bảng đá còn trinh bạch trên đó lịch sử sẽ được viết ra, một thời đại mới hứa hẹn thanh bình và hi vọng không bờ bến cho mọi người. Một thế kỷ mới bắt đầu, đem lại những phát minh kì diệu làm thay đổi đời sống trên toàn cầu. Máy hơi nước, xe tự động chạy bằng điện được thay thế bởi máy nổ. Có tàu ngầm và máy bay. Dân số thế giới bùng nổ đạt đến con số một tỉ rưỡi người. Đó là thời kì tăng trưởng và bành trướng, và trong sáu năm kế tiếp đó, Margaret và David đã tận dụng được tất cả mọi cơ hội làm ăn tốt đẹp.
Trong những năm ấy, Kate lớn lên, hầu như không có ai trông nom. Mẹ nàng quá bận bịu với công việc điều hành công ty cùng với David nên không chú ý được nhiều đến Kate. Cô là một đứa trẻ ngang tàng, cứng cổ, ngoan cố, khó bảo. Một bữa trưa nọ, khi Margaret trở về nhà sau một buổi họp công việc, nàng thấy cô con gái mười bốn tuổi đang lăn lộn trong sân đầy bùn, đấm đá với hai đứa con trai. Margaret trố mắt nhìn con, kinh hãi, khó tin.
“Chết thật!”, nàng nói thì thầm trong miệng, “Đó là đứa con gái một ngày kia sẽ điều khiển cả Công ty Hữu hạn Kruger-Brent. Cầu chúa phù hộ cho tất cả chúng tôi!”