Tập truyện ngắn Tô Hoài

Giàn hoa kim ngân

Trên mép tường xám, có mấy cái cọc giàn dây kim ngân. Mùa hanh hao, đám cỏ gà cũng xơ xác, nhưng kim ngân thì ngược đời. Tháng chạp khô héo, hoa kim ngân rưng rưng nở vàng từng búi.

Khi hoa kim ngân rực rỡ góc sân thì mẹ con bà bán lá ngoài chợ vào hái hoa về phơi làm thuốc. Đã đặt tiền cọc từ trong năm cho trẻ con bỏ ống lợn đế dành. Hai mẹ con bắc cái ghế đẩu đứng hái xuống từng chùm hoa vàng trắng.

Con chim gáy quanh đầu quanh đuôi trong cái lồng quả vả dưới giàn kim ngân kia. Tưởng như cả đời nó chỉ vẩn vơ thế rồi chốc lại bới, lại nhặt hạt kê trong cái vấu tre. Không, cuộc đời con chim trong cái lồng con con cũng lắm éo le chẳng tưởng được đâu

Con gáy này được đem về từ trong thung Kim Bôi trên Mường. Nó uống hết một cóng nước. À trên đường ngược nhiều sông suối, người thì uống rượu, mày thì uống lắm nước thế. Đến lúc vàng mặt trời, con chim đứng xù ra, lông bay như bướm bay. Sáng ra, thấy nó rụi mỏ vào thành nan, ngả mình chết trông lên đình lồng.

Con gáy lách nan lồng bị nghẹt cổ. Có phải thế không? ông lão lật xác con chim rồi nói:

- Nó chết bệnh ngã nước đây mà.

Ông lão bảo con người cũng bằng con chim, nhặt hạt thóc hớp hụm nước đều quen có chốn có nơi. Từ thủa biết bay chuyền ở rừng, về đây phải uống nước lạ, không gặp đâu hạt nước đọng trên mặt đá, không có ngọn nguồn chảy trong khe đá ra, thì đành mang bệnh ngã nước phải về đường ma thôi. Con chim mảnh dẻ, khác nào con kiến bọ giọt, con bọ nẹt có đốt ngứa chân người ta đấy thì rồi màu xanh cỏ úa cũng lẫn vào lá rụng, vào lòng đất. Quên đi, rồi ông sẽ kiếm con chim khác về. Ông lão đem đến cái lồng tròn xoe. Con chim gáy ngó nghiêng nhìn ra. Cái lồng gác bếp, bồ hóng đã lên nước.

Tàu lá thiên tuế và một mảnh vải điều che trên nóc. Như những ông lão trong làng ngày trước xách lồng chim đi chơi.

Con gáy mới này quê gần ở trong khoanh tre bên kia sông. Những tưởng dưới đường xuôi không đâu còn chim gáy trú ngụ. Nhưng thi thoảng để ý kỹ vẫn thấy chim gáy liệng xuống ruộng. Có điều bây giờ cánh đồng quanh năm có mùa gặt hái, con chim cũng bỏ thói quen chiêm mùa ăn đôi, ăn đàn tháng năm tháng mười như xưa kia.

Con gáy này hợp thổ ngơi, chẳng mấy lâu đã béo mầm, cườm lốm đốm biếc. Chẳng ai dạy bảo nó. Con chim tha thủi trong lồng thì biết bắt chước ai. Thế nhưng con chim vẫn giữ nếp các cụ họ nhà gáy, sớm sớm chiều chiều, gáy lên ba hồi đầy đủ. Tiếng cúc cu cu giục giã. Phải ta đây có dọn giọng cất tiếng, thì người thợ cày mới thức dậy kịp tháo cái dõi chuồng trâu, và ai ai gồng gánh lặn lội ngoài đồng xa nghe tiếng chim mới nhớ chiều về. Con chim gáy đậu trên cầu trong cái lồng quả vả và dưới giàn kim ngân. Con cu cườm... cúc cu cu cũng phách lối ta đây lắm chứ.

Thế mà rồi thằng cu cườm cũng phải một trận ốm sắp chết.

Buổi sáng không nghe cúc cu dồn dập như mọi khi. Bao nhiêu lông tơ lông cánh con gáy lả tả từng đám quanh chân. Hai bên mi mắt nó lộn vành trắng, nhắm lại gật gưỡng. Ông lão nhìn rồi nói:

- Thôi thôi, thằng này bệnh chấy rận, bệnh chấy rận?

- Sao lão biết?

- Con chấy con rận ở người lây sang con vật thì biết chứ sao. Nó rỉa thế kia rụng hết ]ông, cơn ngứa điên lên, toi đến nơi rồi.

Nó vẫn đứng được kia. Quanh năm nó đứng mà. Con chim hơn thằng người ở chỗ suốt đời chỉ mặc một cái áo, cả đời không cần nằm. Con chim hơn thằng người Ha... Ha... ông lão cầm một nắm vôi bột rắc lên mình con gáy trần trụi:

- Tao tẩy uế cho mày được mát mẻ đi kiếp khác.

Con chim gáy hoá ra cục vôi.

Bỗng dưng, gáy ta chiếp chiếp mỏ. Báo hiệu hấp hối chăng. Lại gáy như mọi khi chăng. Rồi tiếng cúc cu mịn màng, mượt mà. Con gáy ốm lúc nãy biến mất. Gáy ta lại nhặt hạt kê, nhặt ăn hạt sỏi. Con chim gáy không chết, có phải nhờ cái vôi bột chăng.

Từ hôm khỏe, gáy thêm một tiếng gáy. Ông lão vừa lò dò đến. Con gáy đã đứng mép lồng hai chân ríu lại chen nhau như chọn chỗ đứng. Rồi chim cất cổ cái đầu và con mắt bổ xuống cúc cu... cúc cu... Con gáy chào ông lão. Con gáy nhớ mặt người, con gáy biết ơn người. Một vệt chân người lên núi Mớ Đá. Lưng núi, gió thổi ngả nghiêng nương ngô và những cây chuối. Người trong xóm đi kiếm bữa hái quả ớt gió, đào củ gừng dại. Đàn dê ăn trên núi về chuồng đi trong ánh nắng nhạt còn rớt lại.

Có con khướu mun đậu trên lưng con dê nẹ. Tiếng chim thánh thót theo dê con lũn cũn đi từ ngoài núi vào đến đầu xóm rồi lại bay về núi. Dưới giàn kim ngân thêm cái lồng chim khướu. Ai bẫy được con khướu mun đen về đây cho hai con chim hót nhớ rừng. Con khướu mun đen tuyền, má ngăm ngăm màu mun. Con khướu mun, không biết có phải con khướu mọi khi vẫn đậu trên lưng con dê trên núi Mớ Đá? Con khướu mun trong cái lồng bẫy nhảy hốt hoảng như lưới bẫy vừa sập.

Lồng khướu mun có lọ nước, có cóng cám trứng lúc nào khướu mổ ăn cũng sẵn. Đã quên mùi những con nhặng, con ve nhặt được trên lưng con dê trên núi.

Con khướu hót cả ngày. Con gáy ở cuối giàn thì gáy có buổi. Nhưng xem ra đứa nói tiếng ta, đứa nói tiếng Tây, việc ai nấy làm. Con khướu nghiêng mắt, lắng nghe tiếng động ở đâu ngoài kia.

Dây kim ngân bốn mùa không biết màu úa, cả giàn không một chiếc lá héo. Lá kim ngân sóng đôi, xanh mởn, lông tơ vân vân như lá được trổ trong bụi mưa. Cả giàn nở hoa vàng xôn xao. Giữa tháng chạp khô héo, cây kim ngân có giêng hai hoa lá của mình. Bọn trẻ đi chơi chợ Tết rồi. Ngoài chợ có cả trăm cái lồng chim, nhưng trẻ con bây giờ thiết gì chim với cò. Chúng nó đòi mua cái mũ đỏ của lão Nô-en ở xứ sở nào tới và chúng nó chỉ thích nhai kẹo đắng súc cù là. Chẳng đứa nào biết tên con chim gáy, con khướu mun. Chúng nó bảo chỉ có con gà gáy con chim thì biết nói như người. Cứ nói lung tung thế. Chúng mày không biết rồi, ngày trước ông lão đã nuôi một con yểng xanh lơ. Con yểng bị xích chân đậu trên cành duối làm cảnh. Con yểng nói tiếng người, nghe rợn cả tai. Ai đấy! Nhà có khách. Nhà có khách. Mà trông trước trông sau chẳng có ai. Ông lão sợ như nghe tiếng con ma nói. Lão thả con yểng. Chẳng biết về được trên rừng, con yểng có còn nói "Nhà có khách, có khách" nữa không.

Bỗng nhiên, buổi chiều lặng im. Tiếng động thành phố xa xa đọng lại ở bên kia những chóp mái nhà ngất ngưởng. Không phải lão đứng một mình. Con khướu mun đương hé mỏ líu ríu khe khẽ. Chốc chốc lại to tiếng quát quắc quắc. Nó còn nhớ cái tiếng man dại trên núi? Con gáy thì lặng lẽ lại cúc cu cúc cu chào ông lão.

Ông lão cố đoán, nhưng không đoán ra những con chim nói gì. Con khướu mun, con chim gáy đương reo hò quát lác hay đương chửi, nó đương khóc, đương cười, nó bảo mày bỏ tù tao cả đời thế này, mày đang tâm thế sao. Lạy mày, tiên sư mày. Ôi, con chim hót, con chim gáy, con chim nói. Nào biết được. Hoa kim ngân vàng rực. Đã lâu, không thấy mẹ con bà mua lá thuốn vào hái, mà hoa kim ngân không ngắt bây giờ thì chỉ đến khi ngoài giêng có mưa dây mưa dợ, cánh hoa trắng rã ra, không còn lấy hoa sao thuốc, sắc thuốc được. Lão bắc chiếc ghế đẩu, lão hái hoa. May ra, mai còn được nắng. Lão phơi hoa hộ mẹ con bà hái hoa khỏi hoài của.

Trên thinh không, những đàn sếu trú đông đã xuống đến đây. Đàn sếu bay hàng ngang, bay hàng dọc đều đều. Tiếng vỗ cánh ràn rạt. Ở xa tận đâu, đàn sếu bay qua những cơn bão tuyết cuồn cuộn suốt đêm. Nhưng sáng ra, ở đây chỉ thấy một làn nắng phẳng lặng vàng óng. Những đốm tuyết còn giắt vào chân vào cánh những con giang, con sếu về trú đông trên mặt hồ.