Si Mê Và Liều Lĩnh

Chương 19

Tối hôm đó

Cửa quán Crooked Crook mở và bốn người bước vào. Jock choáng váng, cốc bia đang đưa lên miệng bỗng khựng lại.

“Roy,” Jock hạ thấp giọng gọi.

“Tao biết rồi,” Roy nói.

Con trai của chủ thái ấp, cô nàng tóc đỏ đã thúc gối vào hạ bộ của Jock, anh chàng đầy tớ gầy nhẳng, và gã quản gia tự mãn Herrick.

“Họ muốn gì ở đây?” Jock hỏi.

“Mày nghĩ sao?”

“Chúng ta nên đi.”

“Chúng bước vào và chúng ta chạy ra ư? Như thế trông sẽ thế nào?”

“Chẳng biết nữa,” Jock đáp.

“Như thế trông sẽ giống lạy ông con ở bụi này, hiểu chưa,” Roy nói. “Ngồi yên đấy và hãy tỏ ra thật bình thường.”

“Lỡ Mary kể về chúng ta rồi thì sao?” Jock hỏi.

Roy liếc mắt sang phía Glaud, anh trai Mary, lúc này đang gục mặt xuống bàn, đầu gối lên cánh tay.

“Con bé sẽ phải nói gì chứ nhỉ?” Roy đáp. “Chúng ta chỉ hỏi nó mọi chuyện xảy ra trong lâu đài thôi mà. Ai chẳng làm thế.”

Con trai chủ thái ấp cùng cô nàng tóc đỏ đi tới quầy rượu và nói gì đó với Mullcraik. Anh ta rót hai vại bia đầy.

Herrick không vào cùng họ. Ông đứng trước cửa ra vào, hai tay khoanh lại. Tam MacEvoy đứng lên dợm bước về phía cửa. Herrick giơ một bàn tay lên ra hiệu từ chối. Tam MacEvoy đứng yên tại chỗ.

Con trai chủ thái ấp quay người khỏi quầy rượu và giơ vại bia lên. “Mời tất cả mọi người ở đây một lượt, ông Mullcraik,” ông nói.

Tiếng rì rầm vang lên. Tam quay lại chỗ cũ và ngồi xuống. Ai đó gọi to, “Cảm ơn, thưa ngài.” Những người khác cũng nhao nhao theo.

Bá tước và cô gái tóc đỏ chỉ mỉm cười.

“Đấy, mày thấy chưa?” Roy nói. “Chúng tới để hỏi mọi người tin tức. Chẳng ai biết cái quái gì cả. Chúng ta cũng chả biết gì. Và quý ngài kia mời chúng ta một chầu, cũng như với tất cả những người khác.”

Sau khi mọi người đã được rót bia, một người nâng cốc chúc tụng chàng Bá tước. Khi mọi người đã chúc tụng xong, chàng Bá tước nói, không to lắm nhưng đủ rõ ràng cho cả quán nghe, “Các vị đều biết tôi, tôi nghĩ thế, đa số các vị. Và các vị biết tôi sẽ không đến đây, mời các vị một chầu bia, nếu tôi không muốn một điều gì đó.”

Mấy người cười ồ lên.

Chàng nói tiếp, “Sáng nay, tôi tin chắc mọi người cũng biết cả rồi, tiểu thư Carsington và tôi đã bị tấn công và bị cướp mất một con ngựa, một cái xe kéo, một cái chăn len cũ thủng lỗ chỗ, và một cái hòm sắt thậm chí còn cũ hơn. Chiều nay, con ngựa đã về nhà, mang theo cái xe. Trên đó không có cái chăn. Cả cái hòm cũng không. Chúng tôi đặc biệt quan tâm tới cái hòm, nhưng thông tin về cái chăn cũng hết sức hữu ích. Chúng tôi tới đây, các vị biết đấy...” Chàng Bá tước quay sang nhìn tiểu thư tóc đỏ. “Chúng tôi tới đây để tìm manh mối.”

Một tiếng sau “Chính là chúng,” Olivia nói. “Hai gã ngồi trong góc quán.”

“Anh em nhà Rankin,” Herrick nói mà không cần nhìn về hướng đó.

Bọn chúng nằm trong danh sách nghi ngờ rút gọn của Herrick.

“Tình cờ lại rất thân thiết với Glaud và Mary Millar nữa,” Lisle nói.

“Và Mary là một trong những hầu gái của chúng ta,” Herrick nói. “Đêm qua cô ấy ở lại khá muộn.” ông ta nhíu mày. “Ban nãy tôi đã nói chuyện với cô ấy nhưng cô ấy bảo chỉ về thẳng nhà. Thật đáng tiếc, thưa ngài. Một cô gái tốt. Nhưng Glaud là tất cả những gì cô ấy có, mà cậu ta lại là con tin của chúng.”

“Khốn một nỗi, chúng ta không có bằng chứng,” Lisle nói. “Tất cả chỉ là nghe phong thanh và dự đoán. Chúng là mối nghi ngờ của vô khối chuyện, nhưng...” Chàng lắc đầu. Cha chàng phải chịu trách nhiệm trước nhiều chuyện ở đây. Bọn tội phạm xấu xa vô tư hoạt động trong làng của ông. Người dân trong làng phải sống trong nỗi cam chịu. Vị mục sư được Hầu tước Atherton giao coi sóc làng đã định cư tại Edinburgh, chẳng hà cớ gì ông phải nhọc lòng đi mười dặm đường tới thăm nom đám con chiên của mình.

“Chúng ta không có bằng chứng và chúng biết điều đó,” Olivia nói. “Tất cả những gì chúng phải làm là im hơi lặng tiếng.”

Lisle nhìn nàng. “Anh có thể đánh cho chúng phải nói ra...”

“Thật thô thiển,” nàng nói. “Thật thiếu thẩm mỹ.”

Đêm nay chàng đã phải kìm nén bản thân rất nhiều, nhưng những lời nàng nói khiến chàng phải bật cười. “Ồ, tốt lắm,” chàng nói. “Thế em ra tay trước đi.”

Hai anh em nhà Rankin ngồi sát lại gần nhau thì thà thì thụt, đầu cúi xuống vại bia. Glaud Millar ngủ gục trong vòng tay của hắn, ngồi ở góc bàn ngay cạnh Jock. Có một chiếc ghế trống đối diện với Jock, Lisle bảo hắn chuyển sang đó ngồi để nhường chỗ cho tiểu thư tóc đỏ. Jock đành phải chuyển chỗ, tạo ra một khoảng trống cho Lisle ngồi bên này, giữa Jock - bị dồn vào một góc - và Roy, còn Olivia ngồi phía bên kia, giữa Jock và Glaud.

Nàng quay sang Glaud, “Glaud Millar?” nàng gọi. “Glaud, chúng tôi muốn nói chuyện với anh.”

Glaud vẫn ngáy khe khẽ.

“Chẳng ích gì đâu, thưa tiểu thư,” Jock nói. “Chẳng cái gì lay được anh ta dậy đâu, trừ cô em gái.”

“À, phải, hôm nay anh ta có một ngày bận rộn mà,” Lisle nói. “Ngủ giữa đường giữa ban ngày ban mặt. Bị khênh về nhà. Giờ lại ở đây.”

“Chúng thật ranh ma, mấy gã đó ấy mà, ngài phải đồng ý với em thôi,” Olivia nói với chàng. “Dù thời gian quan sát cực ngắn, nhưng chúng đã sắp đặt một kế hoạch vô cùng xảo quyệt.”

“Xảo quyệt? Chúng kéo một gã say mèm ra giữa đường và bỏ anh ta lại đó để ngáng đường mọi người.”

“Đó là một kế hoãn binh rất ma lanh,” nàng nói. “Nếu chúng không giữ chân đám thợ mải bận rộn với anh Millar đây, có thể chúng sẽ bị bắt gặp đang tấn công chúng ta. Không đâu, kế hoạch đã được thực hiện rất hoàn hảo.”

Jock ra vẻ hài lòng với chính mình.

Roy ném cho hắn một cái nhìn, hắn vội cúi xuống cau có nhìn vào vại bia.

“Và cả sự dũng cảm nữa chứ,” nàng nói. “Người ta không thể không ngưỡng mộ vụ này.”

“Sao tấn công một phụ nữ yếu đuối lại được gọi là dũng cảm hả?” Lisle hỏi.

“Yếu đuối ư?” Jock kêu lên. “Gì chứ, cô ta...”

“Xin lỗi, thưa tiểu thư, nhưng thực tế tiểu thư đâu có tỏ ra là một phụ nữ yếu đuối khi tấn công đàn ông,” Roy nói. “Mọi người đều nghe chuyện xảy ra giữa tiểu thư và ông đầu bếp.”

Olivia mỉm cười. “Thế nên mới bảo tên ăn cướp dám tấn công tôi quả là một kẻ dũng cảm.”

“Ồ, anh ta rất dũng cảm, đúng không?” Jock nói. “Dám liều lĩnh với cả bộ phận nam tính trên cơ thể anh ta, xin tiểu thư thứ lỗi khi tôi nói vậy.”

“Jock,” gã anh trai hắn cất tiếng, nhưng Olivia đã ném cho Jock một nụ cười mơ mộng và Lisle thấy vẻ mặt ấy trên khuôn mặt hắn - vẻ mặt của rất nhiều gã đàn ông, mụ mị và đờ đẫn, mỗi khi nàng mang tấm bùa nhan sắc đầy sức mạnh ra chiếu vào họ.

“Ông thật dũng cảm vì đã chiến đấu như thế,” nàng nói.

“Tôi...”

“Chúng mày,” tiếng một cô gái thét lên. “Lũ lừa dối, bọn lợn ăn cướp! Tránh xa khỏi anh trai tao!”

Họ cùng nhìn lên.

Mary Millar đứng ở bậc cửa, mũ treo trên lưng, tóc xõa ra, mặt đỏ bừng. Herrick giơ tay ra, chặn đường cô.

“Để tôi qua đó,” cô nói. “Để tôi qua, ông Herrick. Tôi đã chịu hết nổi... tất cả những gì chúng gây ra rồi.”

Lisle gật đầu. Herrick hạ cánh tay xuống và Mary nhào tới chỗ họ.

Jock toan đứng dậy nhưng Lisle ấn hắn xuống.

“Đúng thế đấy, mày cứ ngồi xuống đó,” cô nói. “Mày cử ngồi đó mà nghe. Và tôi cũng muốn mọi người cùng nghe luôn.” Cô nhìn quanh một lượt vẻ kiêu kỳ.

“Tôi muốn tất cả mọi người cùng nghe nhé.”

“Cô nói đi, Mary,” ai đó nói to.

“Cả ngài nữa, thưa ngài,” cô nói. “Tôi hết chịu nổi chuyện này rồi.”

“Tôi đang nghe đây, Mary,” Lisle nói.

Cô gái quay sang anh em nhà Rankin. “Thật tồi tệ, các người cho Glaud uống rượu, thứ anh ấy không cần. Thật tồi tệ khi các người bắt tôi phải kể mọi chuyện trong khi tôi chỉ muốn giữ im lặng. Tôi biết tôi đã sai lầm khi kể với các người về cái hòm. Tôi biết thể nào các người cũng sẽ ăn trộm nó. Tôi tự nhủ các người sẽ không bao giờ bỏ đi được cùng với nó, các người quá ngu. Tôi tự nhủ các người sẽ chẳng làm được trò trống gì đâu. Nhưng các người cứ dốc rượu qua cổ họng Glaud, rồi ném anh ấy ra đường, như thể anh ấy là một đống giẻ rách. Các người làm ngài Bá tước bị thương, ngài ấy chỉ cố gắng làm mọi điều tốt đẹp cho chúng ta. Các người tấn công một phụ nữ, lũ súc sinh vô lại!” Cô gái giật cái mũ ra quật vào người Roy. “Đồ rác rưởi vô giá trị!”

Rồi, trước sự ngạc nhiên của Lisle - và tất cả những người chứng kiến - cô đánh luôn cả ông anh trai bất tỉnh của mình. “Cả anh nữa, Glaud. Em chán chăm sóc anh lắm rồi. Hãy tự chăm sóc mình đi. Giờ em chẳng có nơi nào mà đi nữa, tại anh hết đấy. Giờ em chẳng có gì, ngay cả sức lực cũng không. Em chán nơi này lắm rồi, em đi đây. Và anh, anh và lũ bạn khốn kiếp của anh, quỷ tha ma bắt các người đi!”

Cô cầm một vại bia giội lên đầu ông anh trai. Gã lúc lắc đầu và lờ đờ nhìn lên. “Mary?”

“Quỷ tha ma bắt anh đi!” cô gào lên. “Tôi chán ngấy rồi.”

Cô giận dữ vùng vằng bước ra cửa.

Herrick nhìn Lisle với ánh mắt dò hỏi.

Lisle gật đầu.

Herrick mở cửa cho cô đi.

Quán trọ im phăng phắc.

Lisle nhìn Olivia. Nàng lần lượt dành một nụ cười mê hoặc cho anh em nhà Rankin.

“Ồ, thật thú vị làm sao,” nàng vui vẻ lên tiếng.

Lisle không cười với chúng. “Nó ở đâu rồi?” chàng hỏi.

Roy nhìn thẳng vào mắt chàng. “Chẳng hiểu ngài đang nói gì cả,” hắn đáp. “Cô nàng kia mất trí rồi hay sao.”

Lisle đứng dậy, chộc vào vai Roy, nhấc bổng hắn lên khỏi mặt đất và ném bộp hắn vào tường.

“Lisle,” Olivia nói. “Em không nghĩ...”

“Chúng ta đã thử vụ này theo cách của em,” chàng nói. “Giờ chúng ta làm theo cách của ta.”

Olivia vội đứng tránh ra.

Jock cố lẩn qua nàng nhưng Lisle đá hất văng cái bàn. Glaud ngã nhào ra khỏi ghế, lăn xuống sàn nhà.

Lisle xách Jock lên, quẳng qua đầu kia căn phòng. Loạng choạng ngã ra sau, Jock hất đổ một cái bàn và mấy cái ghế. Tất cả mọi người trong quán rượu đứng bật dậy.

“Ta đã hạ gục được cả hai người,” Lisle nói. “Ta sẽ đếm từ một đến ba, các người phải nói ra các người đã làm gì với cái hòm của ta. Nếu không ta sẽ xích cả hai lại, lôi về lâu đài, ném các người lên nóc - một kẻ ở tháp Nam, một kẻ ở tháp Bắc.”

“Ha ha,” Roy cười gằn, xoa xoa gáy. “Ngài đâu thể làm thế. Chuyện ấy xa xưa rồi.”

“Một,” Lisle nói.

“Anh ta chẳng làm được gì đâu,” Roy nói với em trai. “Chỉ là lời bịp bợm thôi. Anh ta sẽ không làm thế. Điều đó vi phạm luật pháp. Đó là tội giết người. Mọi người nghe anh ta kìa.” Hắn nhìn quanh quán trọ. “Anh, Tam MacEvoy. Anh đã nghe thấy lời đe dọa giết người của anh ta rồi đấy.”

“Tôi chẳng nghe thấy gì cả,” Tam MacEvoy nói.

“Tôi cũng thế,” Craig Archbald tiếp lời.

“Thật đáng xấu hổ,” một ai đó lên tiếng. “Lợi dụng sự yếu đuối của Glaud và em gái anh ta để chống lại ngài Bá tước. Mà đấy chưa phải tất cả những gì chúng đã làm đâu, thưa ngài.”

“Ngài có cần giúp một tay không, thưa ngài?” một người khác gọi to lên.

“Thật không công bằng khi ngài đấu tay bo một mình, thưa ngài,” một người nữa nói.

“Mullcraik, đưa tôi mấy sợi dây thừng,” một người lên tiếng.

“Hai,” Lisle đếm.

“Nếu giết chúng tôi thì ngài sẽ không tìm thấy nó nữa!” Jock hét lên. “Không bao giờ!”

“Không, ta sẽ không tìm nữa,” Lisle nói. “Nhưng khi ấy, các người cũng chẳng thể có nó. Ba.”

Roy nhìn Jock. Chúng đột ngột lao vào những người đứng ngay bên cạnh, hạ gục họ, rồi vùng bỏ chạy ra sau quán trọ. Một cái cốc bay vù vù trong không trung, đập bốp vào sau đầu Roy. Hắn gục ngã.

Một đám đàn ông lao về phía hắn.

“Ngắm chuẩn lắm,” Lisle nói với Olivia.

Chàng chạy về phía cuộc ẩu đả.

“Không!” Jock gào lên. “Dừng họ lại. Họ sẽ băm nhỏ chúng tôi ra mất. Dừng họ lại, thưa ngài.”

“Vậy thì hãy nói với ngài Bá tước nó ở đâu!” một người nói.

Đám đông dãn ra, hai người đàn ông lôi Jock lại. Một nhóm khác thì kéo Roy, lúc này đã bất tỉnh.

“Nó ở đâu?” Lisle hạ thấp giọng hỏi.

Jock nhìn xuống gã anh trai.

Một người đang giữ Jock lay lay hắn với vẻ mất kiên nhẫn. “Nói với ngài ấy đi, đồ ngu.”

“Ở trong nhà thờ,” Jock thở hổn hển.

Lúc này đã rất khuya, nhưng cả làng vẫn đi theo họ, mang theo đuốc và đèn lồng, cười đùa râm ran cả con đường.

Họ đã giúp Lisle bắt hai tên côn đồ và đã giúp chàng có được câu trả lời mà chàng cần. Nếu có ánh sáng ban ngày thì sẽ thuận tiện hơn, nhưng họ đang rất háo hức, và xứng đáng có được niềm vui đi truy tìm Chiếc Hòm Bị Cướp, như cách Olivia vẫn gọi.

“Nói cho cùng, có lẽ cách của anh là hay nhất đấy,” nàng nói khi họ bước vào nhà thờ đổ nát.

“Đó là cách của cả hai chúng ta, kết hợp với nhau,” chàng nói. “Em đã làm não chúng trì độn đi, nhất là não của gã Jock. Rồi anh chỉ việc hạ gục chúng.”

“Đừng quên công anh đã dẫn dắt mọi người vào cuộc chiến,” nàng nói.

“Mọi chuyện diễn ra thật suôn sẻ,” chàng nói. “Nếu Jock không tiết lộ bí mật, chúng ta có thể phải tìm kiếm hàng tháng trời đấy.”

“Dù biết nó ở trong này,” nàng nói, nhìn ra xung quanh, “chúng ta cũng mất khối thời gian tìm kiếm đấy.”

Quả thế thật. Chàng vốn quen tìm kiếm những điểm khác biệt tinh tế có thể nói với chàng có gì ẩn giấu dưới đó. Nhưng đây là một lãnh địa khác. Vào ban ngày thì hẳn mọi chuyện sẽ dễ hơn, nhưng hiện tại chàng thấy thật khó để phân biệt đống đá này với đống đá khác.

Jock bị trói tay đẩy về phía trước. “Đây,” hắn nói. Hắn đá vào một phiến đá lớn. “Dưới những viên đá này.”

Những viên đá hắn và Roy đã kéo sập xuống hố trông có vẻ như đã ở đó từ rất lâu rồi. Ngay cả Lisle có sử dụng phương pháp của Belzone đi chăng nữa thì rất có thể cũng không nhìn ra những vết trầy xước, dấu hiệu duy nhất cho thấy những viên đá mới bị di chuyển gần đây. Nhưng nói cho cùng, chàng thường nhìn mọi thứ ở sa mạc, dưới ánh mặt trời chói chang.

Với nhiều bàn tay giúp sức, đá dễ dàng được vận chuyển ra. Rồi đám đàn ông dùng dây thừng kéo cái hòm ra khỏi hố.

Lisle bảo họ đặt xuống mặt đất trong vài phút để mọi người cùng nhìn.

Cái hòm thật đặc biệt, với rất nhiều dây đai, khóa, và những ổ khóa rối rắm.

“Khi mọi người nhìn chán rồi, anh hãy đặt nó lên xe kéo,” chàng nói với Tam MacEvoy. “Chúng ta sẽ phải đưa nó về lâu đài trong đêm nay. Nhưng sáng sớm mai ta hy vọng mọi người sẽ cùng tới xưởng rèn để xem mở hòm.”

“Xin lỗi ngài Bá tước,” một người đàn ông đô con vạm vỡ lên tiếng. “Tôi là John Larmour, thợ rèn, thưa ngài. Ngài không phải đợi tôi mở xưởng vào sáng mai đâu. Giờ tôi sẽ làm luôn, nếu ngài muốn. Lửa cháy không đượm lắm, nhưng chúng ta có thể thổi bùng lên nếu cần. Nhưng nhìn vào cái hòm thì tôi nghĩ chúng ta không cần tới lửa đâu.”

Mọi người đồng thanh tán thưởng đề nghị đó.

Những con người này, Lisle nghĩ. Những con người đáng mến.

Chàng nói, giọng hơi nghẹn lại. “Cảm ơn, Larmour. Anh thật tốt quá.” Chàng hắng giọng. “MacEvoy, chất cái hòm lên xe đẩy để đưa tới xưởng của Larmour. Herrick, bảo ai đó về nhà mời hai quý bà Cooper và Withcope đi cùng chúng ta.”

“Và cả người hầu của các quý bà quý cô nữa,” Olivia nói.

Chàng nhìn xuống nàng. “Và người hầu của các quý bà quý cô nữa, và tất cả mọi người. Mang theo cả hai tên tù nhân của chúng ta. Ta không muốn chúng bỏ lỡ dịp này.”

Tất cả mọi người, đàn ông, đàn bà và trẻ con, đều ra khỏi nhà. Một đám đông lớn tụ tập trước cửa xưởng rèn. Bên trong xưởng người đông như nêm. Nhiều người đứng ngay ở cửa ra vào lớn đang mở rộng. Những ông bố kiệu con trên vai.

Ánh nến lập lòe đung đưa những bóng người trên các bức tường và trần nhà, và lướt qua những gương mặt khán giả háo hức.

Hai quý bà Cooper và Withcote ngồi phía trước đám đông, trên hai cái ghế đẩu lót nệm mà người hầu đã mang theo để hai bà ngồi cho thoải mái. Đám hầu cận đứng ngay bên cạnh.

Jock và Roy đứng trong xưởng, chân tay đều bị xích chặt, người canh gác đứng hai bên.

John Larmour nghiên cứu cái hòm hồi lâu, rồi ông nói gì đó.

Herrick phải dịch lại vì tiếng địa phương của Larmour rất nặng. Lúc ở nhà thờ, dù ông nói rất chậm và đơn giản nhưng Lisle cũng thấy rất khó hiểu. Nhưng lúc này Larmour rất phấn khích, và khi ông nói nhanh hơn thì Lisle chẳng hiểu gì.

“Ông ấy nói đây là một sản phẩm chế tác của một bàn tay tài hoa,” Herrick dịch, “Ông ấy rất tiếc vì phải mạnh tay, nhưng ông ấy sẽ phải dùng cưa để cắt các khóa ngoài.”

Lisle gật đầu, và người thợ rèn tiếp tục công việc.

Mọi chuyện diễn ra khá mau chóng. Khi các móc khóa rời ra, Olivia một lần nữa được sử dụng khả năng mở khóa của nàng. Mất một lúc nàng mới tìm được dãy số khóa, nhưng cuối cùng nàng cũng làm cho nắp ổ bật ra. Nàng thử mở ổ với những chiếc chìa khóa của ông thợ rèn, nhờ sự giúp sức của ông, nàng đã thành công. Tiếp đến là xoay mấy nút kim loại và tháo nhiều móc khóa cùng một lúc. Lisle phải giúp nàng, vẫn còn một ổ khóa nữa, nhưng lúc này nàng đã hiểu được toàn bộ hệ thống khóa của cái hòm nên chỉ mất một chút thời gian để xử lý nó.

Lisle để ý thấy nàng rất cẩn thận quay người che chắn tầm nhìn của người ngoài.

Khi xong xuôi, nàng xích qua một bên.

Đám đông người xem reo mừng và vỗ tay. Mọi người đồng thanh chúc mừng Olivia, ai nấy đều ồ lên, “Làm giỏi lắm, tiểu thư.”

“Anh là chủ nhân của nó đấy,” nàng bảo Lisle.

Chàng nhấc cái nắp hòm nặng trịch lên.

Phía dưới nó, một tấm kim loại khắc chạm lộng lẫy. Phía trên của cái hòm để mở là một cái khay kim loại, được trang trí công phu.

Mọi người lập tức bắt đầu đoán xem có cái gì dưới cái khay đó. Tiền vàng, một người nói. Trang sức, người khác lên tiếng. Sách. Đĩa. Quần áo bẩn, những người vui tính họa theo.

“Tranh khiêu dâm,” Quý bà Cooper nói. “Tôi đánh cược năm bảng với bà nhé, Millicent.”

“Đừng có ngớ ngẩn thế,” Quý bà Withcote nói. “Giấy má làm sao nặng thế được. Trong đó chắc hẳn là những bức tượng. Mấy bức tượng thần rừng, chắc vậy. Rất nổi tiếng vào thời trước đây.”

“Tôi thích thần rừng,” Quý bà Cooper nói.

“Bà lại nói tới ngài Squeevers chứ gì.”

“Squinty Squeevers ư? Đương nhiên là không phải. Ông ấy là Cyclops.”

“Nhưng ông ấy có đôi chân lông lá ấy...”

“Bà phải nhìn phần phía dưới của ông ta cơ.”

“Ồ, tôi thấy rồi chứ.”

“Bà có nhớ thời...”

“Nói về thời gian,” Olivia lên tiếng. “Mọi người đoán xong chưa? Tốt. Ngài Lisle, xin hãy kết thúc sự đồn đoán đi.”

Chàng nhấc cái khay kim loại lên.

Không có đồ trang sức và tiền vàng lấp lánh chiếu ra từ cái hòm - thực tình Lisle cũng không mong tìm thấy những thứ đó.

Bên trong đó là một cuộn vải dày lóng lánh kim tuyến.

“Ôi trời,” Olivia thốt lên. “Một chiếc váy ngủ cũ, em e là vậy.”

“Như thế thật vô nghĩa,” Lisle nói, thọc tay xuống phía dưới. “Ai lại rỗi hơi tới mức đi giấu quần áo cũ chứ? Thứ này đã không được mở trong nhiều thế kỷ rồi. Những ổ khóa kia đã rỏ dầu vào...” Tay chàng chạm phải cái gì đó cứng ngắc. “Chờ đã.”

Chàng đẩy tấm vải ra thật cẩn thận. Lại có một lớp vải khác phía dưới, nhưng dường như nó bọc quanh một vật cứng.

Chàng nhấc gói bưu kiện ra và đặt nó xuống bàn. “Dù đây là cái gì thì nó cũng không hề nhẹ,” chàng nói.

Đám đông xung quanh lại rì rầm, những người đứng phía sau hỏi đó là cái gì vậy và những người đứng phía trước trả lời là họ không biết.

Chàng bỏ tấm vải bọc, để lộ ra một cái tráp bằng thiếc hình chữ nhật. Cái tráp này, may thay, chỉ có một cái khóa.

Olivia chỉ mất vài phút để mở ra. Sau khi xem xét một lát, nàng mở nó bằng một cái chìa kỳ quặc trong bộ sưu tập của mình.

Cả xưởng rèn bỗng im lặng như tờ khi nàng mở nắp tráp.

“Ôi Chúa ơi,” nàng kêu lên. “Ôi Chúa ơi.”

Cả Lisle cũng nín thở. “Có đúng là cái anh nghĩ không?”

“Cái gì thế?” Jock gầm gừ. “Mất bao lâu chúng ta mới biết họ có cái gì đây?”

“Chúng làm thế để chọc tức chúng ta đấy,” Roy nói.

Đó là một cuộn giấy da cừu nặng trịch, nét mực đã ngả sang màu nâu nhưng nét chữ nắn nót vẫn dễ đọc. Chiều rộng của cuộn giấy lớn hơn chiều dài. Từ cuộn giấy, một con dấu rủ xuống lắc lư.

“Đây là những tờ giấy cũ,” một người đứng gần Lisle lên tiếng.

Jock gào lên. “Rác rưởi! Bao nhiêu công sức! Chừng ấy năm! Cho thứ rác rưởi ấy!”

“Không phải rác rưởi đâu,” Roy nói. “Có khối kẻ như Dalmay đã bỏ rất nhiều tiền cho những tờ giấy cũ đấy.”

“Ông ta chết rồi! Giờ ai mua chúng nữa? Anh đã bảo đó là đồ trang sức. Vàng bạc. Chừng ấy năm, đào bới.”

“Chú mày làm việc đấy khá tốt mà.”

“Mấy đồng xu vớ vẩn! Một cái cốc cũ xì! Một cái thìa. Một bông tai. Chúng đáng giá bao nhiêu?”

“Đây là một lá thư,” Lisle nói.

Hai anh em nhà Rankin yêu cầu được biết nó viết về cái gì. Vài người cảnh cáo nếu Roy và Jock không im mồm đi thì sẽ gặp rắc rối to đấy. Thế là bọn chúng ngồi thụp xuống, càu nhàu.

Lisle lấy tập giấy ra đọc lướt qua những dòng chữ Latin. Chàng nhận ra Olivia đang ở ngay bên cạnh chàng, nàng cũng đang đọc, dù khó khăn và nghi hoặc hơn. Nàng không để Daphne Carsington nhồi tiếng Latin, Hy Lạp, và sáu thứ ngôn ngữ khác vào đầu như Lisle. Nhưng chắc nàng cũng đọc được phần lớn câu chuyện, vì chàng thấy nàng trở mu bàn tay gạt nước mắt.

Chàng cũng thấy rất cảm động; chàng đã từng cầm những thứ đồ cổ hơn thế này rất nhiều. Nhưng không có thứ nào trong số đó mang tính cá nhân, cổ họng chàng đắng ngắt.

“Cái gì vậy, thưa ngài?” một người hỏi to.

Lisle nhanh chóng bình tĩnh trở lại. “Hầu hết mọi người sẽ không xem đây là kho báu, nhưng nó là kho báu của gia đình,” chàng nói. “Tài liệu này, được viết vào ngày 21 tháng Sáu năm 1431, có chữ ký của vua James I của Scotland.”

Một chuỗi tiếng aaaaa vang lên giúp chàng biết khán giả của mình hiểu được tầm quan trọng của di vật này.

Giữa tiếng rì rầm ấy, Lisle nghe anh em nhà Rankin tranh cãi liên hồi xem liệu thứ đó có phải là rác rưởi hay không cho tới khi một người nào đó chặn họng chúng lại.

Chàng nói tiếp, “Trong đây đức vua đồng ý ban cho cụ tổ của tôi, ngài William Dalmay, quyền xây dựng lâu đài Gorewood. ‘Một lâu đài hoặc một pháo đài,’ thư đề, ‘bao bọc xung quanh là tường thành và hào, có cổng bảo vệ làm bằng đồng hoặc sắt, và còn có nhiều tháp trang trí.’”

“Chúng tôi có thể nghe toàn bộ lá thư không, thưa ngài?” Tam MacEvoy lên tiếng.

Lisle đọc lượt đầu toàn bộ lá thư bằng tiếng Latin, bởi vì như thế sẽ tạo được cảm giác vô cùng xáo động. Rồi chàng dịch lá thư. Thứ tiếng Anh của bốn trăm năm trước nghe thật ấn tượng.

Khi Lisle đọc xong, MacEvoy nói, “Tôi nghĩ lá thư này có nghĩa là lâu đài Gorewood thực sự là của ngài, thưa Bá tước.”

“Dù thích hay không,” một người nói với vào.

Cả đám đông cùng cười to.

“Và cả chúng tôi nữa, thưa ngài,” Tam nói. “Chúng tôi đồng hành cùng nơi ấy, và cả mọi mặt cuộc sống của chúng tôi cũng vậy.”

Đám đông ồ lên tán thưởng và lại cười to hơn.

Lisle nhìn ra xung quanh. Họ đang cười, và họ rất thật lòng. Chàng nhớ lại điều mình đã nghe thấy đêm qua.

Chàng cảm nhận được bàn tay Olivia đặt trên cánh tay mình. Chàng cúi xuống.

“Mặt anh có cái vẻ đó kìa?” nàng hạ giọng nói.

“Vẻ gì cơ?”

“Vẻ có lỗi.”

“Những người này,” chàng nói. “Cha ta. Những gì ông đã làm.”

“Phải, em biết.” Nàng siết chặt cánh tay chàng. “Chúng ta cần phải bàn về chuyện này. Nhưng để sau đã.”

Nàng cẩn thận đặt lá thư vào lại cái tráp. Nàng toan đóng nắp tráp thì chợt ngừng lại rồi mở ra.

“Gì vậy em?” chàng hỏi.

“Có cái gì ở góc tráp,” nàng nói. “Một đồng xu, em nghĩ thế. Hoặc...” Nàng mỉm cười. Những ngón tay mảnh dẻ của nàng chụp lấy vật đó và lấy nó ra.

Đó là một cái nhẫn, trông qua thì có vẻ là nhẫn của phụ nữ: một cái nhẫn vàng đính rất nhiều đá đỏ mài tròn, hồng ngọc và ngọc hồng lựu. Màu của những viên đá ấy tiệp với màu tóc nàng.

Nàng giơ nó lên để những người đứng trước thấy được. Họ truyền lời cho những người đứng sau.

Những tiếng ôôô... aaa và lời chúc tụng vang lên khắp nơi.

Trong góc, anh em nhà Rankin gầm gừ không yên.

Nàng nhìn lên chàng. “Anh thấy không? Đây là một khoảnh khắc vui vẻ, hạnh phúc, cho tất cả mọi người, trừ hai tên côn đồ kia. Thưởng thức đi nào.”

Mấy tiếng sau

Lisle đứng trong hộc cửa sổ nhìn ra trời đêm. Vài ngôi sao lấp lánh giữa bầu trời đầy mây.

Sau khi mọi người ngừng tán tụng về kho báu, còn họ đã cất đặt cái hòm vào lại trong xe ngựa rồi trở về lâu đài cùng đám đông - suốt chặng đường đó chàng nghe thêm nhiều chuyện tương tự những chuyện chàng đã nghe thấy ở quán rượu Crooked Crook - thì đêm đã khuya lắm rồi. Ngay cả hai quý bà cũng đã lên giường.

Chàng cho tống Roy và Jock vào ngục tối, để xử tội sau.

Còn một việc nữa cần giải quyết.

Chàng đã phải đương đầu với rất nhiều khó khăn ở Ai Cập - sự bất mãn của dân làng và công nhân, trộm cướp và lừa đảo và tấn công, vân vân. Sập hố khai quật. Thuyền chìm. Kẻ xấu xâm phạm. Bệnh tật tràn lan. Đó là cuộc sống của chàng. Nó thú vị, thậm chí nhiều khi rất vui.

Giờ đây...

Một tiếng gõ cửa khe khẽ khiến chàng giật mình.

Chàng rời khỏi hộc cửa sổ ra mở cửa.

Olivia đứng trước mặt chàng. Nàng mặc bộ váy ngủ trắng toát với vô số thứ trang điểm rườm rà - nơ, dải rút, đăng ten. Tóc nàng buông xõa, rủ xuống bờ vai với một vẻ lộn xộn vô cùng quyến rũ.

Chàng kéo nàng vào rồi đóng cửa lại.

Rồi chàng đổi ý, mở cửa và cố đẩy nàng ra.

“Anh quyết định đi,” nàng nói.

“Em tới phòng ngủ của một người đàn ông giữa đêm hôm khuya khoắt, mặc mỗi váy ngủ, và em đề nghị anh ta quyết định ư?”

Chuyện đó đã xảy ra bao lâu rồi nhỉ?

Nhiều ngày rồi lại nhiều ngày và hàng thiên niên kỷ.

“Chúng ta cần nói chuyện,” nàng nói.

Chàng kéo nàng vào lại trong phòng rồi khép cửa lại. “Để anh giải thích cho em điều này,” chàng nói. “Một cô gái ăn mặc phong phanh vào phòng đàn ông là tự chuốc lấy rắc rối đấy.”

“Đúng thế,” nàng nói.

“Điều đó mãi mãi không thay đổi,” chàng nói.

Chàng trút bỏ chiếc áo ngủ.

“Ối,” Olivia kêu lên.

Ánh lửa tạo thành những giọt hồng ngọc long lanh trên mái tóc rối của nàng. Da nàng sáng bừng như trăng tròn. Mùi hương thoang thoảng của nàng lửng lơ giữa không gian.

Chàng xốc nàng lên rồi bế tới chiếc giường cao. Ghì nàng xuống, chàng đưa một tay hất tung đống chăn ga. Rồi đặt nàng xuống một bên giường.

“Được thôi,” nàng nói. “Chúng ta sẽ nói chuyện sau.”

“Ồ, phải. Chúng ta có rất nhiều chuyện để nói đấy,” chàng nói. Họ có cả cuộc đời để nói.

Nàng đưa tay lên vuốt ve ngực chàng. “Anh tuyệt quá,” nàng nói.

“Em cũng vậy,” chàng đáp.

Chàng quỳ giữa hai chân nàng.

“Em không biết phải nói thế nào với anh về nỗi sung sướng này,” nàng nói.

“Em có thể viết thư cho anh,” chàng nói. “Sau này.”

Chàng nắm lấy áo choàng và váy ngủ của nàng giật ra hai bên. Chàng nhìn vào đôi chân nàng.

“Anh thích chân em à,” nàng nói.

“Thích đến mê dại,” chàng đáp. Chàng cúi xuống hôn vào cẳng chân nàng, như để bày tỏ lòng kính trọng.

“Ôi,” nàng rên rỉ. “Anh là kẻ ranh mãnh. Đồ độc ác không tim...”

“Tồi tệ,” chàng lẩm bẩm. “Đừng quên tồi tệ.”

Chàng trượt tay vào đùi nàng, mơn trớn, vuốt ve. Nàng ngả đầu ra sau.

Chàng kéo váy ngủ của nàng lên cao hơn. Chàng lần ngón tay lên trên, rồi nhẹ nhàng phủ lên nơi mềm mại giữa hai chân nàng.

“Ôi, tay anh, tay anh.” Nàng ấp tay mình lên tay chàng, khuyến khích, “Ôi Chúa ơi. Em phải làm gì đây?”

Nàng đưa đầu gối lên. Nàng bứt dây áo choàng rồi cởi phăng ra. Nàng lôi váy ngủ qua đầu rồi ném qua một bên.

Những sợi tóc màu đồng rủ xuống vai nàng.

Thật dễ tưởng tượng ra cảnh nàng khỏa thân nhảy dưới trăng đêm trên sa mạc.

“Đủ rồi,” nàng nói. “Thứ vô nghĩa này đủ rồi. Em sẽ không bao giờ ngoan ngoãn. Anh không thể bắt em ngoan.”

“Đó là việc cuối cùng mà anh...”

“Lại đi anh,” nàng nói.

Chàng lên giường, quỳ trước mặt nàng. Nàng chộp lấy hai tay chàng và đặt lên ngực nàng.

Chàng cúi xuống hôn nàng, một nụ hôn dài ngọt ngào. Chàng xoa nắn ngực nàng còn nàng vòng tay quanh cổ chàng và ngửa đầu ra sau, tạo một khoảng trống cho chàng vuốt ve nàng như chàng muốn và như nàng muốn.

Nàng cũng âu yếm chàng, hai bàn tay mơn trớn khắp cánh tay, lưng, rồi xuống thấp hơn nữa. Chàng rên rỉ nghẹn lời.

Nàng ngước mắt nhìn chàng.

“Em chơi xong chưa?” chàng hỏi giọng nghèn nghẹn.

“Chưa được một nửa đâu.” Nàng khẽ đẩy chàng. Chàng hiểu ý nên nhấc người ra. Nàng trèo lên người chàng.

“Em biết có thể làm thế này,” nàng nói. “Em đã xem tranh.”

Chàng bật cười.

Họ hòa nhịp cùng nhau, một nhịp điệu hối hả và dữ dội, như thể đây lại là lần đầu tiên, như thể họ đã đợi cả ngàn năm, gom góp tất cả cho một đêm này, và đây là cơ hội duy nhất, cuối cùng của họ.

Chàng quan sát nàng, cúi xuống người chàng, đôi mắt xanh thẫm như màn đêm, mái tóc hoang dại của nàng lắc lư trước mặt.

“Anh yêu em nhiều lắm,” chàng nói.

Chàng kéo nàng xuống, để hôn nàng, để ôm nàng thật chặt khi họ hòa nhịp với nhau, nhanh hơn và mạnh hơn cho tới khi chẳng còn nơi nào để đi. Cơn sung sướng ào ạt ập đến cuốn phăng họ. Và rồi đột nhiên thế giới trở nên thật yên tĩnh.

Một lúc rất rất lâu trôi qua.

Rồi nàng trượt xuống khỏi người chàng, lăn qua một bên giường. Chàng nhìn lên bức màn, lắng nghe hơi thở chầm chậm của nàng.

Nàng đặt tay lên ngực chàng, nơi vẫn còn nhấp nhô liên hồi. Vẫn chưa thật sự hồi tỉnh, nhưng chàng biết rõ một điều, rất rõ.

Chàng đặt tay lên bàn tay nàng. “Anh yêu em nhiều lắm,” chàng nói.