Sapiens: Lược Sử Loài Người

TRẬN LỤT

TRẬN LỤT

Trước Cách mạng Nhận thức, loài người sống hoàn toàn trên một vùng đất rộng lớn thuộc lục địa Á-Phi. Đúng là họ đã định cư trên một vài hòn đảo bằng cách bơi qua những quãng đường ngắn hoặc vượt qua chúng bằng những chiếc bè gỗ tự chế. Ví dụ, con người đã định cư ở đảo Flores cách đây tận 850.000 năm. Tuy nhiên, họ vẫn chưa dám khám phá biển khơi và chưa một ai vươn tới được châu Mỹ, châu Úc và những hòn đảo xa xôi như Madagascar, New Zealand và Hawaii.

Rào cản biển khơi đã ngăn trở không chỉ con người mà còn rất nhiều loài động thực vật Á-Phi vươn tới “Thế giới Bên ngoài”. Kết quả là các sinh vật ở những vùng đất xa xôi như châu Úc và Madagascar đã tiến hoá một cách biệt lập trong hàng triệu triệu năm, có hình dạng và tính chất rất khác với họ hàng của chúng ở Á-Phi. Trái đất đã bị phân chia thành các hệ sinh thái riêng biệt, mỗi hệ được hình thành bởi một nhóm các loài động thực vật riêng biệt. Homo sapiens đang sắp sửa chấm dứt sự đa dạng sinh học này.

Tiếp theo sau Cách mạng Nhận thức, Sapiens đã nắm được kĩ thuật, các kĩ năng tổ chức, và thậm chí có thể lên cả kế hoạch để thoát ra khỏi Á-Phi và định cư ở Thế giới Bên ngoài. Thành tựu đầu tiên của họ là chiếm đóng châu Úc cách đây khoảng 45.000 năm. Các chuyên gia vấp phải nhiều khó khăn để lý giải thành tựu này. Để vươn tới châu Úc, loài người đã phải vượt qua nhiều eo biển, một số rộng hơn 100 km, và khi tới nơi họ phải thích nghi gần như lập tức với một hệ sinh thái hoàn toàn mới.

Giả định hợp lý nhất cho rằng, cách đây khoảng 45.000 năm, Sapiens sống ở quần đảo Indonesia (một nhóm các đảo riêng rẽ nhau và tách biệt khỏi châu Á bởi các eo biển nhỏ hẹp) đã phát triển những cộng đồng chuyên đi biển đầu tiên. Họ đã học đóng và điều khiển những con thuyền đi biển, trở thành những ngư dân, thương nhân và nhà thám hiểm đường dài. Điều này đã mang đến sự biến đổi chưa từng thấy về năng lực và lối sống của loài người. Các loài động vật có vú khác đã từng vượt biển như hải cẩu, bò biển, cá heo, đã phải tiến hoá trong hàng liên đại để phát triển các cơ quan chuyên biệt và một cơ thể hoạt động theo nguyên lý thủy động lực học. Sapiens ở Indonesia, con cháu của loài vượn sống ở đồng cỏ châu Phi, đã trở thành những thủy thủ vượt Thái Bình Dương mà không cần phát triển chân có màng và chờ cho mũi mình chuyển lên đỉnh đầu giống như cá voi. Thay vào đó, họ đóng thuyền và học cách điều khiển chúng. Chính những kĩ năng này đã giúp họ đến định cư tận châu Úc.

Thực tế là các nhà khảo cổ học vẫn chưa tìm được bè mảng, mái chèo, hoặc làng chài có niên đại cách đây tận 45.000 năm (rất khó phát hiện chúng, do mực nước biển dâng cao đã chôn vùi dải đất ven biển Indonesia cổ đại dưới hàng trăm mét nước). Tuy nhiên, có những bằng chứng gián tiếp mạnh mẽ ủng hộ cho giả thuyết này, đặc biệt là sự kiện hàng ngàn năm sau khi định cư ở châu Úc, Sapiens đã lan sang rất nhiều các hòn đảo nhỏ và biệt lập về phía Bắc của châu Úc. Một số hòn đảo như Buka và Manus cách đất liền nơi gần nhất 200 km theo đường thủy. Thật khó tin rằng ai đó đã có thể tiếp cận và định cư tại Manus mà không cần những con thuyền tinh vi và kĩ năng dùng buồm. Như từng đề cập, có bằng chứng vững chắc về sự giao thương thường xuyên bằng đường biển giữa một số hòn đảo như New Ireland và New Britain.

Hành trình của những người đầu tiên tới châu Úc là một trong những sự kiện quan trọng trong lịch sử, ít nhất là quan trọng ngang với hành trình của Columbus tới châu Mỹ, hoặc cuộc thám hiểm Mặt trăng Apollo 11. Lần đầu tiên, con người có thể rời khỏi hệ sinh thái Á-Phi. Quả thực, đây cũng là lần đầu tiên một loài động vật to lớn có vú sống trên cạn có thể đi từ Á-Phi tới châu Úc. Quan trọng hơn nữa là những gì mà những người tiên phong đã làm ở thế giới mới này. Thời điểm mà những người sân bắt hái lượm lần đầu đặt chân lên bờ biển của châu Úc chính là thời điểm mà Homo sapiens leo lên bậc cao nhất trong chuỗi thức ăn ở một vùng đất rộng lớn, và từ đó về sau trở thành một loài sinh vật tàn bạo nhất trong biên niên sử Trái đất.

Trước đó, con người đã thể hiện một vài sự thích nghi và hành vi sáng tạo, nhưng ảnh hưởng của họ lên môi trường không đáng kể. Họ đã chứng tỏ sự thành công ấn tượng trong việc chuyển đến và thích nghi với các môi trường sống khác nhau mà không làm thay đổi nhiều môi trường đó. Những người khai hoang ở châu Úc, hay chính xác hơn là những người đi xâm chiếm, không chỉ thích nghi mà còn làm thay đổi hệ sinh thái của châu Úc đến mức không còn nhận ra được.

Vết chân của những người đầu tiên trên bờ biển châu Úc đẩy cát ngay lập tức đã bị những con sóng cuốn đi xa. Song, khi những kẻ xâm chiếm tiến sâu vào đất liền, họ đã để lại một dấu chân khác, thứ sẽ không bao giờ bị xóa nhòa. Khi đi sâu hơn, họ đã bắt gặp một thế giới lạ kỳ với những sinh vật chưa từng được biết đến, bao gồm những con kangaroo nặng 200 kg cao 2 mét, những con sư tử có túi to bằng con hổ ngày nay – loài động vật ăn thịt lớn nhất của lục địa này. Những con gấu túi lớn đến mức khó mà vuốt ve và tạo cảm mến đang gây ra tiếng sột soạt trên cây, những con chim không bay được to gấp đôi đà điều đang chạy hết tốc lực trên vùng đồng bằng. Những con rắn và thằn lằn giống như con rồng dài 5 mét trườn dưới đất ngầm. Loài gấu túi diprotodon khổng lồ nặng khoảng 2,5 tấn lang thang trong các khu rừng. Không kể các loài chim và bò sát, tất cả những động vật này đều là loài thú có túi, như loài kangaroo sinh ra những con non như bào thai nhỏ bé, non nớt rất cần được bảo vệ và được bú mẹ trong cái túi ở trước bụng. Những động vật có túi, thuộc loài có vú hầu hết không được biết đến ở châu Á và châu Phi, nhưng ở châu Úc chúng là loài thống trị ở vị trí cao nhất.

Trong khoảng vài ngàn năm, hầu hết những con thú khổng lồ này đều biến mất. Trong 24 loài động vật của châu Úc có cân nặng trên 50 kg, 23 loài đã tuyệt chủng. Một số lượng lớn các loài động vật nhỏ hơn cũng đã biến mất. Chuỗi thức ăn của toàn bộ hệ sinh thái châu Úc bị phá vỡ và bị sắp xếp lại. Đây là một trong những sự biến đổi quan trọng nhất của hệ sinh thái châu Úc trong hàng triệu năm. Và tất cả có phải là tội lỗi của Homo sapiens hay không?

Cáo buộc phạm tội

Một số học giả cố gỡ tội cho chúng ta, đổ trách nhiệm cho sự thay đổi thất thường của khí hậu (vật tế thần thông thường trong những trường hợp như vậy). Song, thật khó tin rằng Home sapiens hoàn toàn vô tội. Có ba chứng cớ làm suy yếu bằng chứng tội phạm của “khí hậu” và ám chỉ đến tổ tiên của chúng ta trong việc tiêu diệt quần thể động vật to lớn của châu Úc.

Thứ nhất, mặc dù thời tiết châu Úc có biến đổi ít nhiều trong 45.000 năm qua, nhưng sự biến đổi này không quá rõ rệt. Thật khó có thể hiểu nổi làm thế nào mà chỉ riêng những hình thái thời tiết mới mẻ lại gây ra được sự tuyệt chủng nghiêm trọng đến vậy. Ngày nay, chúng ta thường giải thích mọi thứ là do biến đổi khí hậu. Nhưng thực tế là khí hậu Trái đất không bao giờ đứng yên. Nó luôn trong trạng thái thay đổi không ngừng. Mỗi sự kiện trong lịch sử đều xảy ra trong bối cảnh của sự biến đổi khí hậu nào đó.

Đặc biệt, hành tinh của chúng ta đã trải qua nhiều chu kỳ ấm lên và lạnh đi. Trong hàng triệu năm qua, trung bình cứ 100.000 năm lại có một thời kỳ băng hà. Thời kỳ băng hà cuối cùng xảy ra trong khoảng từ 15.000 đến 75.000 năm trước đây. Không có gì bất thường đối với thời kỳ băng hà, khi nó có hai đỉnh điểm giống nhau, đỉnh đầu tiên cách đây khoảng 70.000 năm và đỉnh thứ hai khoảng 20.000 năm. Loài gấu túi diprotodon khổng lồ xuất hiện ở châu Úc cách đây khoảng 1,5 triệu năm và đã sống sót thành công trong ít nhất 10 thời kỳ băng hà trước. Nó thậm chí còn sống sót trong đỉnh đầu tiên của thời kỳ băng hà cuối cùng, cách đây khoảng 70.000 năm. Vậy thì tại sao nó lại biến mất cách đây 45.000 năm? Tất nhiên nếu loài diprotodon là loài động vật to lớn duy nhất xuất hiện ở thời điểm này, có thể đó chỉ là sự may mắn. Nhưng hơn 90% quần thể động vật của châu Úc đã biến mất cùng với loài diprotodon. Đây là bằng chứng gián tiếp, nhưng khó có thể tưởng tượng được rằng chỉ do sự trùng hợp ngẫu nhiên, Sapiens đã tới châu Úc đúng thời điểm mà tất cả các loài động vật đều chết vì giá lạnh.

Thứ hai, khi biến đổi khí hậu gây ra sự tuyệt chủng hàng loạt, các sinh vật sống dưới biển thường cũng bị tổn thương nặng nề y như các sinh vật trên cạn. Sự dính dáng của con người có thể dễ dàng lý giải tại sao làn sóng tuyệt chủng đã phá hủy hoàn toàn quần thể động vật trên cạn khổng lồ của châu Úc, trong khi lại không tác động nhiều đến quần thể động vật của các đại dương xung quanh. Dù năng lực hàng hải đang phát triển, Homo sapiens vẫn là mối đe dọa chính trên mặt đất.

Thứ ba, sự tuyệt chủng hàng loạt có tính chất tương tự như vụ giết hại điển hình này ở châu Úc, xuất hiện đi xuất hiện lại trong nhiều thiên niên kỷ tiếp theo, bất cứ khi nào con người định cư ở phần khác của Thế giới Bên ngoài. Trong những trường hợp như vậy, tội lỗi của Sapiens là không thể chối cãi được. Ví dụ, quần thể động vật khổng lồ ở New Zealand – đã sống sót khá tốt trong biến đổi khí hậu 45.000 năm trước – phải chịu đựng tai họa tàn phá ngay khi những con người đầu tiên đặt chân lên hòn đảo này. Maoris, những người đầu tiên định cư ở New Zealand đã tiếp cận quần đảo này cách đây khoảng 800 năm.

Trong vòng vài thế kỷ, đại đa số quần thể động vật khổng lồ ở đây đã bị tuyệt chủng, bên cạnh đó là 60% các loài chim.

Số phận tương tự cũng giáng xuống loài voi ma-mút ở đảo Wrangle thuộc vùng biển Bắc cực (200 km về phía bắc bờ biển Siberia). Loài voi ma-mút đã phát triển cực thịnh trong hàng triệu năm trên hầu hết các vùng ở Bán cầu Bắc, nhưng khi Homo sapiens lan đến – ban đầu là Âu-Á, sau đó là Bắc Mỹ – loài voi ma-mút đã phải rút lui. Khoảng 10.000 năm lại đây, không hề tìm thấy một cá thể voi ma-mút nào trên thế giới, ngoại trừ tại một vài hòn đảo xa xôi ở Bắc cực, dễ thấy nhất là đảo Wrangle. Loài voi ma-mút ở Wrangle còn phát triển thịnh thêm vài thế kỷ nữa rồi đột nhiên biến mất cách đây khoảng 4.000 năm, khi những con người đầu tiên đặt chân lên hòn đảo này.

Liệu sự tuyệt chủng ở châu Úc có phải là một sự kiện cá biệt hay không? Vì còn nghi ngờ nên chúng ta chưa thể buộc tội loài người. Nhưng hồ sơ lịch sử đã chỉ ra Homo sapiens có vẻ là thủ phạm giết hại hàng loạt hệ sinh thái.

Những người khai hoang ở châu Úc đều sở hữu kĩ thuật của Thời kỳ Đồ đá. Làm thế nào mà họ có thể gây ra một thảm họa sinh thái như vậy? Có ba lý giải hoàn toàn phù hợp dưới đây.

Lý giải thứ nhất là các loài động vật có kích thước lớn – những nạn nhân đầu tiên của sự tuyệt chủng ở châu Úc – sinh sản rất chậm. Thời kỳ thai nghén kéo dài, số lượng con của mỗi lần sinh rất ít, và sự gián đoạn giữa các thai kỳ cũng rất dài. Kết quả là nếu con người giết hại thậm chí chỉ một cá thể gấu túi diprotodon cứ mỗi vài tháng, thì số lượng cá thể bị chết sẽ nhiều hơn số được sinh ra. Trong vòng vài ngàn năm sau đó, con diprotodon cuối cùng sẽ biến mất, cùng với toàn thể giống loài của nó.

Trong thực tế, vì có kích thước lớn, diprotodon và các loài động vật khổng lồ khác ở châu Úc thường không quá khó săn, chúng sẽ bị tấn công hoàn toàn bất ngờ bởi những kẻ ám sát hai chân. Các loài người khác nhau đều đã đi lang thang để kiếm mồi và tiến hoá ở Á-Phi trong vòng 2 triệu năm. Họ mài giũa một cách chậm chạp kĩ năng của mình và bắt đầu theo đuổi các loài động vật có kích thước lớn cách đây khoảng 400.000 năm. Những loài thú có kích thước lớn ở châu Á và châu Phi đã học cách để lẩn trốn con người, vì vậy khi loài động vật ăn thịt to lớn mới toanh – Homo sapiens – xuất hiện ở Á-Phi, những loài động vật có kích thước lớn đã biết làm thế nào để giữ khoảng cách đối với các sinh vật trông có vẻ giống như chúng này. Ngược lại, các loài động vật khổng lồ ở châu Úc lại không có thời gian để học cách trốn chạy. Con người trông không có vẻ đặc biệt nguy hiểm. Họ không có hàm răng dài sắc nhọn, và một cơ thể lực lưỡng uyển chuyển. Vì vậy khi một con diprotodon, loài động vật có túi to lớn nhất từng bước đi trên Trái đất, lần đầu tiên nhìn thấy những con vượn có vẻ yếu đuối này, nó chỉ liếc nhìn và quay trở lại gặm lá cây. Những loài động vật này đáng lẽ phải biết sợ loài người, nhưng trước khi kịp làm vậy, chúng đã phải ra đi.

Lý giải thứ hai là vào thời điểm Sapiens vươn đến châu Úc, họ đã rất thành thạo việc sử dụng lửa để làm nông nghiệp. Đối mặt với một môi trường xa lạ và đầy đe dọa, họ đã cố tình đốt cháy những khu vực bao la rộng lớn có nhiều đám cây không thể vượt qua được, những khu rừng rậm rạp, để tạo ra những vùng đồng cỏ thoáng rộng, nơi sẽ thu hút những con vật dễ dàng hơn và cũng phù hợp với nhu cầu của họ hơn. Vì vậy, họ đã thay đổi hoàn toàn hệ sinh thái của nhiều vùng đất rộng lớn thuộc châu Úc chỉ trong một vài thiên niên kỷ ngắn ngủi.

Một tập hợp bằng chứng ủng hộ cho quan điểm này là hồ sơ về những loài thực vật hoá thạch. Khoảng 45.000 năm trước đây, bạch đàn rất hiếm ở châu Úc. Nhưng sự xâm chiếm của Homo sapiens đã mở đầu cho thời kỳ hoàng kim của loài này. Vì loài cây này có thể chịu lửa rất tốt, nên chúng đã phát tán đi rất xa và rộng trong khi các loài cây mọc đơn lẻ và cây bụi khác đã biến mất.

Sự biến đổi của thảm thực vật đã ảnh hưởng tới các loài động vật ăn thực vật và các loài động vật ăn thịt ăn chúng. Loài gấu túi tồn tại bằng cách ăn lá cây bạch đàn, chúng nhai tóp tép một cách hạnh phúc trên đường đi đến các vùng lãnh thổ mới. Hầu hết các loài động vật khác đều phải chịu khổ lụy rất nhiều. Nhiều chuỗi thức ăn ở châu Úc đã bị bẻ gãy, khiến cho những mắt xích yếu nhất bị tiêu diệt.

Lý giải thứ ba cho rằng việc sử dụng lửa làm nông nghiệp đóng một vai trò quan trọng trong sự diệt vong này. Nhưng phải nhấn mạnh là chúng ta không thể hoàn toàn lờ đi vai trò của khí hậu. Những sự biến đổi khí hậu đã khuấy động châu Úc khoảng 45.000 năm trước đây, gây mất ổn định hệ sinh thái và làm cho nó đặc biệt dễ bị tổn thương. Trong những trường hợp thông thường, hệ thống có thể hồi phục, như đã xảy ra nhiều lần trước kia. Tuy nhiên, con người xuất hiện tại chính thời điểm quan trọng này và đẩy hệ sinh thái mỏng manh đó xuống vực thẳm. Sự kết hợp giữa biến đổi khí hậu và nạn săn bắt của con người đã gây ra tác hại lớn với các loài động vật to xác, bởi chúng bị tấn công từ các góc độ khác nhau. Thật khó tìm một chiến lược sinh tồn tốt để đối phó cùng lúc với nhiều mối đe dọa.

Khi chưa có thêm bằng chứng mới, không có cách nào để lựa chọn giữa ba kịch bản trên. Nhưng chắc chắc đã có những lý do hợp lý để tin rằng nếu Homo sapiens không bao giờ đi xuống Vùng Dưới, những nơi này vẫn sẽ là quê hương của những con sư tử có túi, diprotodon và kangaroo khổng lồ.

Hồi kết của loài lười

Sự tuyệt chủng của quần thể động vật khổng lồ châu Úc có thể là biểu hiện quan trọng đầu tiên mà Homo sapiens đã để lại trên hành tinh chúng ta. Tiếp sau nó là một thảm họa sinh thái thậm chí còn khủng khiếp hơn. Lần này xảy ra ở châu Mỹ. Homo sapiens là loài người đầu tiên và duy nhất có thể tiếp cận những vùng đất rộng lớn ở Bán cầu Tây, đặt chân đến đây khoảng 16.000 năm trước, tức là vào hoặc khoảng năm 14000 TCN. Những người châu Mỹ đầu tiên đến đây bằng đường bộ, họ có thể làm được điều này vì ở thời điểm đó, mực nước biển đủ thấp để đất nhô lên, có thể làm cầu nối liền vùng Đông bắc Siberia với vùng Tây bắc Alaska. Điều đó không phải dễ dàng – hành trình này rất gian khổ, có lẽ còn khó khăn hơn cả chuyên vượt biển tới châu Úc. Để có thể vượt qua, lần đầu tiên Sapiens phải học cách trụ vững trước điều kiện cực kỳ giá rét của phía bắc Siberia, khu vực Mặt trời không bao giờ chiếu sáng trong mùa đông và nhiệt độ có thể tụt xuống mức -50° c.

Không có loài người nào trước đây thành công trong việc xâm nhập vào những nơi giống như phía bắc Siberia. Kể cả Neanderthal vốn đã thích nghi tốt với môi trường sống lạnh giá cũng chỉ sống ở những vùng đất tương đối ấm áp hơn, xa hơn nữa về phía nam. Nhưng Homo sapiens, có cơ thể thích nghi tốt với điều kiện sống ở vùng đồng cỏ châu Phi hơn là những vùng đất băng giá và tuyết trắng, đã tìm ra các giải pháp tài tình. Khi các bầy Sapiens lang thang hái lượm di cư đến những vùng khí hậu lạnh hơn, họ học cách làm ra những đôi giày đi tuyết và những bộ quần áo giữ nhiệt hiệu quả hơn, làm từ những lớp da và lông thú được khâu lại với nhau bằng kim. Họ phát triển những thứ vũ khí mới và kĩ thuật tinh vi, giúp họ có thể lần theo dấu vết và giết được các con voi ma-mút cũng như những con thú to lớn khác ở miền cực Bắc. Do kĩ thuật săn bắt và quần áo giữ nhiệt được cải tiến, nên Sapiens đã dám mạo hiểm vào sâu và sâu hơn nữa những vùng đất băng giá. Và khi di chuyển về phương bắc, thì quần áo, chiến lược sân bắt và các kĩ năng sinh tồn khác của họ lại tiếp tục được cải tiến.

Nhưng tại sao họ lại gánh lấy khổ cực? Tại sao lại chọn việc tự lưu đày mình đến Siberia? Có thể một vài bầy nào đó bắt buộc phải di cư tới phương bắc do các cuộc chiến tranh, do sức ép về dân số hoặc do các thảm họa thiên nhiên. Một số khác bị quyến rũ bắc tiến bởi những lý do tích cực hơn, ví dụ như chất đạm động vật. Các vùng đất ở Bắc cực luôn có đẩy những loài động vật to lớn, thịt tươi rói như tuần lộc và voi ma-mút. Mỗi con voi ma-mút là một nguồn cung cấp thịt khổng lồ (ở nhiệt độ băng giá, thịt có thể giữ đông để sử dụng dần), có vị ngon béo, bộ lông ấm áp và bộ ngà quý giá. Những phát hiện ở Sungir đã chứng tỏ rằng, những người săn voi ma-mút không chỉ sống được ở vùng phương bắc lạnh giá mà còn phát triển rất mạnh. Thời gian trôi đi, những bầy người này ngày càng tỏa đi xa hơn và rộng hơn, săn đuổi voi ma-mút, voi ráng kiếm, tê giác và tuần lộc. Khoảng nám 14000 TCN, cuộc săn đuổi này đã đưa một số người từ vùng Đông bắc Siberia tới Alaska. Tất nhiên, họ không biết rằng mình đã khám phá ra một thế giới mới. Vì cũng như voi ma-mút, với con người thì Alaska chỉ là Siberia mở rộng mà thôi.

Ban đầu, những dòng sông băng đã cản trở con đường từ Alaska tới phần còn lại của châu Mỹ, khiến chỉ những người tiên phong đầu tiên do bị cô lập mới đi nổi để khám phá những vùng đất xa hơn ở phía nam. Tuy nhiên, khoảng năm 12000 TCN, sự ấm lên toàn cầu đã làm tan băng và mở ra một lối đi dễ dàng hơn. Sử dụng hành lang mới, loài người đã di chuyển ồ ạt về phía nam, tỏa ra toàn bộ lục địa. Mặc dù thoạt tiên đã thích nghi với việc săn bắt những loài thú to lớn, nhưng họ đã sớm điều chỉnh trước sự đa dạng đáng ngạc nhiên của các vùng khí hậu và hệ sinh thái. Con cháu của người Siberia đã sinh sống trong những khu rừng rậm rạp ở phía đông nước Mỹ, những vùng đầm lầy ở châu thổ Mississippi, những sa mạc ở Mexico, những khu rừng nhiệt đới oi bức ở Trung Mỹ. Một số đã dựng nhà ở lưu vực sông Amazon, số khác đào bới đất ở thung lũng núi Andes hoặc những cánh đồng hoang rộng rãi thuộc Argentina. Và tất cả chỉ xảy ra trong một hoặc hai thiên niên kỷ! Khoảng năm 10000 TCN, con người đã sinh sống ở hầu hết các vùng phía nam châu Mỹ, đảo Tierra del Fuego ở đỉnh phía nam lục địa. Cuộc tấn công ồ ạt chớp nhoáng của loài người từ bên này sang bên kia của châu Mỹ đã chứng tỏ sự khéo léo có một không hai và khả năng thích nghi tuyệt vời của Homo sapiens. Cho đến nay, không có loài động vật nào có thể thích nghi nhanh chóng với nhiều môi trường sống khác nhau như vậy, hầu như sử dụng cùng một bộ gen ở mọi nơi.

Việc định cư của Sapiens ở châu Mỹ khó mà không đổ máu. Nó để lại đằng sau một vệt dài các nạn nhân. 14.000 năm trước, quần thể động vật châu Mỹ phong phú hơn rất nhiều so với ngày nay. Khi những người châu Mỹ đầu tiên hành quân về phía nam, từ Alaska vào sâu trong những vùng đồng bằng thuộc Canada và phía tây của Mỹ, họ bắt gặp những con voi ma-mút, voi răng kiếm, những loài gặm nhấm có kích thước bằng loài gấu, những đàn ngựa và lạc đà, những con sư tử to quá khổ và hàng tá những loài động vật to lớn khác, những loài mà ngày nay hoàn toàn không được biết đến; trong đó có những con mèo đáng sợ với răng sắc như những lưỡi kiếm cong, và những con lười khổng lồ nặng trên 8 tấn và cao 6 mét. Nam Mỹ là quê hương của những bầy thú còn kỳ lạ hơn thuộc loài động vật có vú, bò sát và chim. Châu Mỹ là một phòng thí nghiệm vĩ đại cho các thử nghiệm về tiến hoá, một nơi mà các loài động thực vật chưa từng được biết đến ở châu Á, châu Phi có thể tiến hoá và phát triển hưng thịnh.

Nhưng không còn nữa. Trong vòng 2.000 năm từ khi Sapiens tới đây, hầu hết các loài động vật độc nhất vô nhị này đã ra đi. Theo ước tính hiện nay, trong khoảng thời gian ngắn đó, Bắc Mỹ đã bị mất ba phần tư của 47 loài động vật có vú khổng lồ, Nam Mỹ mất 50 trong số 60 loài. Loài mèo răng kiếm sau 30 triệu năm hưng thịnh đã biến mất, cũng như loài lười khổng lồ, loài sư tử to quá khổ, loài ngựa châu Mỹ bản địa, loài lạc đà châu Mỹ bản địa, những loài gặm nhấm khổng lồ và loài voi ma-mút. Hàng ngàn loài động vật có vú nhỏ hơn, các loài bò sát, các loài chim và thậm chí cả côn trùng, ký sinh trùng đều đi đến tuyệt chủng (khi những con voi ma-mút chết sạch, loài ve ký sinh trên chúng cũng theo đó mà đi vào quên lãng).

Trong hàng thập kỷ, các nhà cổ sinh vật học, khảo cổ học về động vật – những người luôn tìm kiếm và nghiên cứu những gì còn sót lại của các loài động vật – đã lùng sục các vùng đồng bằng và vùng núi của châu Mỹ để tìm xương hoá thạch của loài lạc đà cổ đại, phân hoá thạch của loài lười mặt đất khổng lồ. Khi họ tìm thấy thứ cần tìm, những vật quý giá này được đóng gói cẩn thận và gửi tới các phòng thí nghiệm, tại đó từng mảnh xương, từng viên sỏi phân (tên khoa học của phân hoá thạch) được nghiên cứu và xác định niên đại một cách tỉ mỉ. Sau nhiều lần, những phân tích này đều mang lại cùng một kết quả: những viên sỏi phân động vật mới nhất, những mảnh xương lạc đà gần đây nhất đều có niên đại vào thời kỳ con người tràn tới châu Mỹ, khoảng từ năm 12000 đến 9000 TCN. Chỉ có một khu vực các nhà khoa học đã phát hiện ra những viên sỏi phân có niên đại gần hơn: trên một số hòn đảo vùng Caribe, đặc biệt là tại Cuba và Hispaniola, họ tìm thấy phân của những con lười có niên đại vào khoảng năm 5000 TCN. Đây chính xác là thời điểm những người đầu tiên tiếp cận vùng biển Caribe và định cư tại hai hòn đảo lớn này.

 

Hình 9. Những hình ảnh dựng lại hai con lười mặt đất khổng lồ (Megatherium) và phía sau chúng là hai con tatu khổng lồ (Glyptodon) nay đã bị tuyệt chủng. Những con tatu này ước tính dài 3 mét và nặng trên 2 tấn, trong khi đó những con lười mặt đất thì cao khoảng 6 mét và nặng tới 8 tấn.

Một lần nữa, một số học giả đã cố gắng gỡ tội cho Homo sapiens, đổ lỗi cho sự biến đổi khí hậu (điều khiến họ phải thừa nhận rằng, do một vài lý do bí hiểm, khí hậu ở những hòn đảo vùng Caribe này vẫn không thay đổi trong 7.000 năm, trong khi phần còn lại của Bán cầu Tây thì ấm lên). Nhưng không thể né tránh những viên sỏi phân ở châu Mỹ. Chúng ta là thủ phạm. Không có cách nào phủ nhận được sự thật. Thậm chí nếu biến đổi khí hậu đã tiếp tay cho chúng ta, thì phần đóng góp của loài người vẫn cứ mang tính quyết định.

Con thuyền Noah

Nếu chúng ta kết hợp sự tuyệt chủng hàng loạt ở châu Úc với châu Mỹ, thêm vào đó là những sự tuyệt chủng quy mô nhỏ hơn diễn ra khi Homo sapiens tỏa đi khắp Á-Phi – ví dụ như sự tuyệt chủng của tất cả các loài người khác – và những sự tuyệt chủng xuất hiện khi người hái lượm định cư ở những hòn đảo xa xôi như Cuba, thì không thể tránh khỏi một kết luận rằng làn sóng thuộc địa hoá đầu tiên của Sapiens là một trong những thảm họa sinh thái lớn nhất và nhanh nhất ập đến thế giới động vật. Chịu ảnh hưởng nặng nề nhất là những sinh vật lớn có lông. Vào thời kỳ Cách mạng Nhận thức, Trái đất là ngôi nhà của khoảng 200 loài động vật có vú trên cạn to lớn, nặng trên 50 kg. Vào thời kỳ Cách mạng Nông nghiệp, chỉ còn lại khoảng 100 loài. Homo sapiens đã làm một nửa các loài động vật có kích thước lớn của hành tinh này bị tuyệt chủng, khá lâu trước khi con người phát minh ra bánh xe, chữ viết và công cụ bằng sắt.

Bi kịch sinh thái này đã được đưa trở lại sân khấu vô số lần sau Cách mạng Nông nghiệp. Hồ sơ khảo cổ của nhiều hòn đảo đã nói lên cùng một câu chuyện buồn. Bi kịch mở ra với một cảnh cho thấy sự giàu có và phong phú của các loài động vật có kích thước lớn khi chưa có dấu vết của con người. Trong cảnh hai, Sapiens xuất hiện, căn cứ vào mảnh xương người, mũi giáo, hoặc mảnh gốm vỡ… Cảnh ba theo sau rất nhanh, trong đó đàn ông đàn bà đứng choán hết sân khấu trung tâm, còn những con thú lớn nhất, cùng những con nhỏ hơn, đã biến mất.

Hòn đảo lớn Madagascar cách lục địa châu Phi khoảng 400 km về phía đông là một ví dụ nổi tiếng. Trải qua hàng triệu năm cô lập, một quần thể độc nhất vô nhị các loài thú đã tiến hoá tại đây. Trong đó có loài chim voi, một loài chim lớn nhất thế giới không biết bay, cao 3 mét và nặng gần nửa tấn, và loài vượn cáo – loài linh trưởng lớn nhất thế giới. Những con chim voi và vượn cáo khổng lồ, cùng hầu hết các loài động vật to lớn khác trên đảo Madagascar, đều đột nhiên biến mất khoảng 1.300 năm trước đây – đúng thời điểm những người đầu tiên đặt chân lên đảo.

Ở Thái Bình Dương, làn sóng tuyệt chủng chính bắt đầu vào khoảng năm 1500 TCN, khi nông dân Polynesia định cư ở quần đảo Solomon, Fiji và New Caledonia. Họ đã giết, trực tiếp hoặc gián tiếp, hàng trăm loài chim, côn trùng, ốc sên, và những cư dân địa phương khác. Từ nơi đây, làn sóng tuyệt chủng lan dần tới phía đông, phía nam và phía bắc, vào sâu trong trung tâm Thái Bình Dương, trên đường đi phá hủy hoàn toàn hệ sinh thái độc nhất vô nhị của Samoa và Tonga (năm 1200 TCN), quần đảo Marquis (năm 1), đảo Easter, quần đảo Cook và Hawaii (năm 500), và cuối cùng là New Zealand (năm 1200).

Những thảm họa sinh thái tương tự đã xảy ra trên hầu hết hàng ngàn hòn đảo trải khắp các vùng biển Đại Tây Dương, Ấn Độ Dương, Bắc cực và Địa Trung Hải. Các nhà khảo cổ học đã phát hiện ra rằng, thậm chí ở những hòn đảo bé nhất cũng có bằng chứng cho thấy sự tồn tại của các loài chim, côn trùng, ốc sên đã sinh sống hàng bao thế hệ, chỉ biến mất khi những nông dân đầu tiên đặt chân đến. Chỉ còn một ít đảo cực kỳ hẻo lánh mới thoát khỏi sự chú ý của loài người cho đến thời kỳ hiện đại, và những đảo này vẫn còn giữ được nguyên vẹn quần thể động vật của chúng. Quần đảo Galapagos là một ví dụ điển hình, vẫn chưa có người ở cho đến tận thế kỷ 19, vì vậy vẫn bảo tồn được quần thể động vật độc nhất của chúng, trong đó có loài rùa khổng lồ giống loài diprotodon cổ đại, không biết sợ người.

Làn sóng Tuyệt chủng Thứ nhất, đi cùng với sự xuất hiện rộng khắp của người hái lượm, đã được tiếp nối bằng Làn sóng Tuyệt chủng Thứ hai, kèm theo sự có mặt khắp nơi của nông dân, và cho chúng ta một viễn cảnh quan trọng về Làn sóng Tuyệt chủng Thứ ba do các hoạt động công nghiệp ngày nay gây ra. Đừng tin vào những người ôm cây,* họ khẳng định rằng tổ tiên chúng ta chung sống hài hòa với thiên nhiên. Rất lâu trước Cách mạng Công nghiệp, Homo sapiens đã giữ kỷ lục trong số tất cả sinh vật với thành tích tận diệt hầu hết các loài động vật và thực vật. Chúng ta nổi tiếng mờ ám như một loài sinh vật giết chóc nhất trong biên niên sử sinh học.

Chắc là nếu có thêm nhiều người nhận thức được về Làn sóng Tuyệt chủng Thứ nhất và Thứ hai, họ sẽ bớt thờ ơ với Làn sóng Thứ ba mà họ đang là một phần trong đó. Nếu chúng ta biết mình đã tiêu diệt bao nhiêu loài sinh vật, chúng ta sẽ có động lực hơn trong việc bảo vệ những loài còn sống sót. Điều này đặc biệt liên quan đến những loài động vật to lớn sống ở đại dương. Không giống như những bản sao trên cạn của chúng, những loài động vật biển to lớn chịu tác động tương đối ít từ Cách mạng Nhận thức và Cách mạng Nông nghiệp. Nhưng nhiều trong số chúng đang bên bờ vực tuyệt chủng do tình trạng ô nhiễm công nghiệp và lạm dụng quá mức nguồn tài nguyên biển của con người. Nếu những điều này tiếp tục xảy ra với tốc độ như hiện tại, các sinh vật như cá voi, cá mập, cá ngừ và cá heo sẽ đi vào quên lãng giống như loài diprotodon, loài lười mặt đất và voi ma-mút. Trong mọi loài sinh vật có kích thước lớn trên thế giới, loài duy nhất còn sống sót trước cơn lũ người chính là con người và những loài động vật nông trại, giống như những nô lệ chèo trên con thuyền Noah.