Sapiens: Lược Sử Loài Người

QUY LUẬT CỦA TÔN GIÁO

QUY LUẬT CỦA TÔN GIÁO

Trong một khu chợ trung cổ tại Samarkand, thành phố được xây dựng trên một ốc đảo Trung Á, các thương nhân Syria đang rờ tay trên những tấm lụa Trung Hoa mịn màng, những bộ lạc hung tợn từ vùng thảo nguyên thì bày bán từng toán nô lệ tóc rối bù mới đến từ cực tây, còn những chủ hàng bỏ túi mấy đồng tiền vàng bóng loáng in những ký tự kỳ quái và hình các ông vua lạ hoắc. Tại đây, một trong những ngã tư lớn giao cắt đông-tây, bắc-nam của thời đại đó, sự thống nhất của loài người là một thực tế mỗi ngày. Người ta cũng có thể quan sát quá trình tương tự khi quân đội Hốt Tất Liệt tập trung tiến đánh Nhật Bản vào năm 1281. Kỵ binh Mông Cổ trong những bộ trang phục bằng da và lông thú vai kề vai với đám bộ binh Trung Hoa đội nón tre, lính đồng minh Triều Tiên say xỉn gây gổ với đám thủy thủ xăm mình từ vùng biển Đông, công binh Trung Á mải nghe đến rớt hàm những câu chuyện ly kỳ của các nhà thám hiểm châu Âu, và tất cả đều tuân theo sự chỉ huy của một vị hoàng đế duy nhất.

Trong khi đó, xung quanh trung tâm ngôi đền thiêng Ka’aba ở Mecca, sự hợp nhất người với người lại được thể hiện bằng cách khác. Nếu bạn từng hành hương đến thánh địa Mecca, đi diễu quanh ngôi đền linh thiêng vào khoảng năm 1300, bạn có thể hòa mình cùng với đoàn người đến từ vùng Lưỡng Hà, áo choàng phất phơ trong gió, mắt lóe lên niềm hân hoan xuất thần, miệng lẩm nhẩm cầu nguyện 99 tên gọi của Allah. Đằng trước bạn có thể sẽ là một tộc trưởng Thổ Nhĩ Kỳ phong trần đến từ thảo nguyên châu Á, khập khiễng chống gậy và trầm tư vuốt râu. Ở một phía khác, trang sức vàng lấp lánh trên làn da đen bóng ấy có thể là một nhóm người Hồi giáo đến từ vương quốc Mali, châu Phi. Mùi thơm của cây đinh hương, nghệ, nhục đậu khấu và muối biển sẽ báo hiệu sự hiện diện của những người anh em đến từ Ấn Độ, hoặc có lẽ từ những hòn đảo gia vị bí ẩn ở phương Đông.

Ngày nay, tôn giáo thường được coi là một nguồn gốc của sự phân biệt đối xử, bất đồng và không thống nhất. Tuy nhiên, trên thực tế, tôn giáo là đặc điểm thống nhất nhân loại đứng hàng thứ ba, cùng với tiền tệ và các đế chế. Vì mọi trật tự xã hội và hệ thống phân cấp đều được tưởng tượng, nên tất cả chúng đều rất mong manh, và xã hội càng lớn thì nó lại càng dễ vỡ hơn. Vai trò lịch sử quan trọng của tôn giáo là mang tới tính chính đáng siêu phàm cho những cấu trúc mong manh này. Tôn giáo khẳng định rằng luật pháp của chúng ta không phải là kết quả của sự thất thường nơi con người, mà được sắc phong bởi một quyền lực tuyệt đối và tối thượng. Điều này ít nhất giúp cho một số điều luật cơ bản vượt lên mọi thách thức, do đó đảm bảo sự ổn định xã hội.

Vì vậy, tôn giáo có thể được định nghĩa là một hệ thống các quy chuẩn và giá trị con người được xây dựng dựa trên niềm tin vào một trật tự siêu nhiên. Khái niệm này liên quan đến hai tiêu chí đặc trưng:

1. Tôn giáo cho rằng có một trật tự siêu nhiên, không phải là sản phẩm của ý tưởng bất chợt hoặc thỏa thuận của con người. Bóng đá chuyên nghiệp không phải là một tôn giáo, vì mặc dù có các luật lệ, nghi thức và nghi lễ, nhưng mọi người đều biết rằng con người tự nghĩ ra bóng đá, và bất cứ lúc nào FIFA cũng có thể tảng kích thước của cẩu môn hoặc hủy bỏ các quy tắc việt vị.

2. Căn cứ vào trật tự siêu nhiên này, tốn giáo thiết lập các chuẩn mực và giá trị mà nó coi là bắt buộc. Nhiều người phương Tây ngày nay tin vào ma quỷ, các câu chuyện thần tiên và thuyết luân hồi, nhưng những niềm tin này không phải là nguồn gốc của các tiêu chuẩn đạo đức và hành vi. Và như vậy, chúng không cấu thành một tôn giáo.

Mặc dù tôn giáo có khả nâng hợp pháp hoá trật tự xã hội và chính trị rộng rãi, nhưng không phải tất cả các tôn giáo đều kích hoạt tiềm năng này. Để đoàn kết mọi người dưới sự bảo trợ của tôn giáo trên một vùng lãnh thổ rộng lớn có những nhóm người khác nhau sinh sống, một tôn giáo phải có ít nhất hai đặc tính. Đầu tiên, nó phải tán thành một trật tự siêu nhiên phổ quát, luôn luôn đúng ở mọi thời điểm và không gian. Thứ hai, nó phải nhấn mạnh vào việc truyền bá niềm tin này đến tất cả mọi người. Nói cách khác, nó phải mang tính phổ quát và truyền giáo.

Các tôn giáo nổi tiếng nhất của lịch sử, như Hồi giáo và Phật giáo, đều có tính phổ quát và truyền giáo. Do đó mọi người có xu hướng tin rằng tất cả các tôn giáo đều giống như vậy. Trong thực tế, phần lớn các tôn giáo cổ xưa mang tính cục bộ và cá biệt. Những tín đồ của tôn giáo này tin vào các vị thần địa phương và các linh hồn, không quan tâm việc cải đạo toàn bộ loài người. Theo như chúng ta biết, những tôn giáo phổ quát và mang mục đích truyền đạo bắt đầu xuất hiện chỉ trong thiên niên kỷ 1 TCN. Sự xuất hiện của chúng là một trong những cuộc cách mạng quan trọng nhất trong lịch sử, và đóng góp quan trọng cho sự thống nhất của nhân loại, giống như sự xuất hiện của các đế chế và tiền tệ toàn cầu.

Sự im lặng của bầy cừu

Khi thuyết vật linh là hệ thống tín ngưỡng chủ đạo, những chuẩn mực và giá trị của con người phải cân nhắc đến cả thế giới quan và lợi ích của vô số chúng sinh khác, chẳng hạn như động vật, thực vật, thần tiên và ma quỷ. Ví dụ, một bộ lạc cắt cỏ cho súc vật ở vùng thung lũng sông Hằng có thể đã thiết lập một quy tắc cấm mọi người chặt một cây vả cổ thụ to nào đó, vì sợ rằng thần cây vả sẽ trở nên tức giận và trả thù.

Một bộ lạc cổ xưa sinh sống ở thung lũng Indus có thể cấm người dân săn cáo đuôi trắng, vì có một con cáo đuôi trắng từng hé lộ cho một cụ bà khôn ngoan về nơi bộ lạc có thể tìm thấy những viên đá núi lửa quý giá.

Những tôn giáo này có thế giới quan mang đậm tính địa phương, và nhấn mạnh vào những đặc điểm độc đáo của các địa bàn, khí hậu và hiện tượng cụ thể. Hầu hết những người cắt cỏ cả đời chỉ sống trong một khu vực rộng không quá 1.000 km². Để tồn tại, cư dân của một thung lũng nào đó cần hiểu được trật tự siêu nhiên cai quản thung lũng của họ và điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp. Thật vô nghĩa khi cố gắng thuyết phục cư dân của một số thung lũng xa xôi nào đó tuân theo các quy tắc tương tự. Người bộ lạc Indus chẳng bận tâm đến việc phái các nhà truyền giáo đến thung lũng sông Hằng để thuyết phục người dân địa phương không được săn cáo đuôi trắng.

Cách mạng Nông nghiệp dường như đi kèm với một cuộc cách mạng tôn giáo. Người săn bắt hái lượm săn tìm những loại động thực vật hoang dã vốn được xem là có địa vị bình đẳng với người Homo sapiens. Việc con người săn cừu sẽ không khiến loài cừu trở nên thấp kém hơn anh ta, giống như việc loài hổ săn bắt con người không làm cho con người thấp kém hơn con hổ. Các sinh linh thông tri với nhau trực tiếp và thỏa hiệp các quy tắc quản lý môi trường sống chung của mình. Ngược lại, nông dân sở hữu, điều khiển động thực vật, và hiếm khi hạ mình giao tiếp với những gì thuộc sở hữu của họ. Do đó tác động tôn giáo đầu tiên của Cách mạng Nông nghiệp là biến cây trông và vật nuôi từ vị thế là những thành viên bình đẳng trên bàn tròn tâm linh trở thành vật sở hữu.

Nhưng điều này gây ra một vấn đề lớn. Nông dân có thể mong muốn quyền kiểm soát tuyệt đối với những con cừu của họ, nhưng họ biết rất rõ rằng quyền kiểm soát của họ bị giới hạn. Họ có thể nhốt cừu trong chuồng, thiến con đực và chọn cừu cái giống, nhưng họ không thể đảm bảo cừu cái được thụ thai và sinh ra cừu con khỏe mạnh, họ cũng không thể ngăn chặn được sự bùng phát các dịch bệnh chết chóc. Vậy làm thế nào để bảo vệ khả năng sinh sản của đàn gia súc?

Một giả thuyết hàng đầu về nguồn gốc của các vị thần cho rằng, các vị thần có được tầm quan trọng vì họ đưa ra giải pháp cho vấn đề này. Các vị thần như nữ thần sinh sản, thần bầu trời và thần y học đóng vai trò trung tâm khi thực vật và động vật mất đi khả năng nói chuyện, và vai trò chính của các vị thần là làm cầu nối giữa con người và các loài động thực vật câm lặng. Trên thực tế, phần lớn các thần thoại cổ đại là một hợp đồng pháp lý, trong đó con người hứa muôn đời thờ phụng các thần để đổi lấy quyền làm chủ với vật nuôi, cây trồng – những chương đầu của Sáng thế ký là một ví dụ điển hình. Trải qua hàng ngàn năm sau Cách mạng Nông nghiệp, nghi thức tế lễ chủ yếu bao gồm việc con người mang cừu, rượu vang và bánh ngọt hiến tế cho các thần linh, đổi lại các vị thần này hứa hẹn cho những vụ mùa bội thu và đàn gia súc mắn đẻ.

Cách mạng Nông nghiệp ban đầu có ảnh hưởng rất nhỏ đối với thực trạng của các thành viên khác trong hệ thống tín ngưỡng vật linh, chẳng hạn như đá, suối, ma quỷ. Tuy nhiên, các vật linh này cũng dần mất đi vị thế của nó, nhường chỗ cho các vị thần mới. Chừng nào còn sống cả đời trong những lãnh thổ diện tích vài trăm cây số vuông, chừng đó hầu hết nhu cầu của con người có thể được thần linh địa phương đáp ứng hết. Nhưng một khi các vương quốc và mạng lưới thương mại mở rộng, con người cần tiếp cận các thực thể có sức mạnh và uy quyền bao trùm toàn thể vương quốc hoặc toàn bộ lưu vực thương mại.

Nỗ lực để giải đáp cho những nhu cầu này dẫn đến sự xuất hiện của các tôn giáo đa thần (polytheistic, tiếng Hy Lạp: poly có nghĩa là nhiều, theos có nghĩa là thần). Những tôn giáo này hiểu rằng thế giới được điều khiển bởi một nhóm các vị thần đầy quyền năng, chẳng hạn như nữ thần sinh sản, thần mưa và thần chiến tranh. Con người có thể khẩn cầu các vị thần, và nếu các vị đó nhận được sự sùng kính và vật hiến tế, thì có thể rủ lòng ban cho mưa, chiến thắng và sức khỏe.

Thuyết vật linh đã không hoàn toàn biến mất vào thời điểm ra đời của đa thần giáo. Ác quỷ, thần tiên, ma mãnh, đá thần, suối nước thánh và cây thiêng vẫn là một phần không thể thiếu của hầu hết các tôn giáo đa thần. Những thần linh này có thể không quan trọng bằng các vị thần vĩ đại, nhưng đối với những nhu cầu trần tục của người dân bình thường thì vậy cũng là đủ. Trong khi hoàng đế ở kinh đô hiến tế hàng chục con cừu béo tốt cho vị thần chiến tranh vĩ đại, cầu nguyện cho chiến thắng trước những kẻ man rợ, thì bác nông dân trong túp lều của mình thắp một ngọn nến cầu thần cây vả, xin thần giúp chữa lành cho đứa con trai bị bệnh của mình.

Tuy nhiên, khi các vị thần hiển linh, tác động lớn nhất của các ngài không phải ở đàn cừu hay ma quỷ, mà chính là ở vị thế của Homo sapiens. Thuyết vật linh cho rằng con người chỉ là một trong rất nhiều sinh vật sống trên thế giới. Trong khi đó, thuyết đa thần lại ngày càng nhìn nhận thế giới như là một sự phản ánh của mối quan hệ giữa thần linh và con người. Những lời cầu nguyện, những hy sinh, những tội lỗi và những việc thiện của chúng ta xác định số phận của toàn bộ hệ sinh thái. Một cơn lũ khủng khiếp có thể quét sạch hàng tỉ con kiến, châu chấu, rùa, linh dương, hươu cao cổ và voi, chỉ vì một vài Sapiens ngu ngốc đã làm các vị thần nổi giận. Đa thần giáo qua đó tôn vinh không chỉ vị thế của các vị thần, mà của cả nhân loại. Những thành viên kém may mắn của các hệ thống duy linh cũ đánh mất vai trò của mình, trở nên thừa thãi hoặc là một vật trang trí câm lặng trong vở kịch vĩ đại về mối quan hệ của con người với các vị thần.

Lợi ích của việc sùng bái thần linh

Sau 2.000 năm bị độc thần giáo tẩy não, hầu hết người phương Tây đều xem đa thần giáo như một biểu tượng của sự mông muội và ấu trĩ. Đây là một định kiến bất công. Để hiểu được logic bên trong của đa thần giáo, ta cần phải nắm bắt ý tưởng trung tâm xây đắp lên niềm tin vào nhiều vị thần linh.

Đa thần giáo không nhất thiết phải tranh cãi về sự tồn tại của một thế lực hoặc bộ luật duy nhất điều khiển toàn bộ vũ trụ. Trong thực tế, đa số đa thần giáo và thậm chí cả vật linh công nhận quyền lực tối cao đứng đằng sau tất cả các vị thần, ma quỷ và đá thiêng khác nhau. Trong đa thần giáo Hy Lạp cổ điển, thần Zeus, Hera, Apollo và các vị thần khác đều chịu khuất phục trước quyền năng vô hạn và bao trùm lên tất cả – đó là Số phận (Moira, Ananke). Các vị thần Bắc Âu cũng là nô lệ cho số phận, cam chịu số phận diệt vong trong ngày tận thế Ragnarök (Hoàng hôn của các vị thần). Trong đa thần giáo của người Yoruba ở Tây Phi, thần linh đều được sinh ra từ một vị thần tối cao Olodumare, và là tôi tớ của vị thần này. Trong đa thần giáo Hindu, một nguyên lý duy nhất, Atman, kiểm soát vô số các vị thần linh, con người, thế giới sinh học và vật lý. Atman là bản ngã vĩnh cửu hay linh hồn của toàn bộ vũ trụ, cũng như của mỗi cá nhân và mọi hiện tượng.

Điểm cơ bản của đa thần giáo để phân biệt nó với độc thần giáo, đó là thế lực tối cao chi phối thế giới không có những vị lợi và thiên kiến, và do đó nó không quan tâm đến những ham muốn, mối bận tâm và lo lắng trần tục của con người. Như vậy, thật vô nghĩa khi cầu xin thế lực này ban cho chiến thắng trong cuộc chiến, ban cho sức khỏe hay ban cho mưa, bởi vì ưu thế là thế lực bao trùm, cho nên dẫu là vương quốc nào đó chiến thắng hay bại trận, dẫu là một thành phố thịnh vượng hay tàn lụi nào đó, dẫu là một người phục hồi hay qua đời nào đó, đều không có sự phân biệt. Người Hy Lạp đã không lãng phí bất kỳ đổ hiến tế nào cho Định mệnh (Fate), và người Hindu cũng không xây dựng đền thờ nào cho Atman.

Lý do duy nhất để đến với quyền lực tối cao của vũ trụ là từ bỏ hết mọi tham sân si và bằng lòng với cả cái hay cái dở – chấp nhận cả thất bại, nghèo đói, bệnh tật và cái chết. Vì vậy một số người theo đạo Hindu, được gọi là Sadhus hoặc Sannyasis, cống hiến cả đời mình cho việc hợp nhất với Atman, từ đó đạt được giác ngộ. Họ cố gắng nhìn nhận thế giới từ quan điểm của nguyên tắc cơ bản này để nhận ra rằng từ quan điểm vĩnh cửu của nó, tất cả những ham muốn và sợ hãi trần tục là những hiện tượng phù du, vô nghĩa.

Tuy nhiên, đa phần người Hindu ở Ấn Độ không phải là những người Sadhus. Họ chìm sâu trong mớ rối rắm của các lo toan thế tục mà Atman không giúp đỡ được gì nhiều. Để được hỗ trợ trong các vấn đề như vậy, người Hindu tiếp cận các vị thần với phần quyền lực nào đó. Chính vì quyền hạn của họ chỉ là một phần chứ không phải tất cả, nên các thần như Ganesha, Lakshmi và Saraswati đều có những vị lợi và thành kiến riêng. Do đó con người có thể thỏa hiệp một phần với các thế lực này, và trông cậy vào sự giúp đỡ của họ để giành chiến thắng trong các cuộc chiến tranh và phục hồi bệnh tật. Nhất định phải có rất nhiều quyền lực được chia nhỏ, bởi một khi bạn bắt đầu phân chia quyền lực bao trùm một thế lực tối cao, chắc chắn bạn sẽ có nhiều hơn một vị thần. Vì vậy ta có đa thần.

Thấu hiểu được đa thần sẽ cho phép khoan dung tôn giáo nhiều hơn. Một mặt, người theo thuyết đa thần tin vào một quyền năng tối cao và hoàn toàn không vị lợi, mặt khác cũng tin vào những quyền năng có thiên vị và thành kiến, các tín đồ của một vị thần này không gặp khó khăn gì trong việc chấp nhận sự tồn tại và quyền năng của các vị thần khác. Đa thần giáo về bản chất là cởi mở, và hiếm khi ngược đãi những kẻ “dị giáo” và “ngoại đạo”.

Ngay cả khi những người đa thần giáo chinh phục các đế chế lớn, họ cũng không cố gắng cải đạo những thần dân của mình. Người Ai Cập, La Mã và Aztec đã không gửi các nhà truyền giáo đến những vùng đất xa lạ để truyền bá việc thờ phụng thần Osiris, Jupiter hay Huitzilopochtli (vị thần tối cao của người Aztec), và chắc chắn càng không cử quân đội tới vì mục đích đó. Những dân tộc bị trị trên khắp đế chế được kỷ vọng sẽ thờ thần linh cùng các nghi lễ của đế chế, vì các vị thần và các nghi thức đó bảo vệ và hợp thức hoá cho đế chế. Tuy nhiên, họ không bị yêu cầu phải từ bỏ thần linh và nghi lễ bản địa của mình. Trong Đế chế Aztec, những người nô lệ có nghĩa vụ phải xây dựng các đền thờ thần Huitzilopochtli, nhưng chúng được xây dựng bên cạnh đền thờ các vị thần địa phương chứ không phải thay thế chúng. Trong nhiều trường hợp, chính tầng lớp ưu tú của đế chế tự tiếp nhận các vị thần và nghi lễ của người dân bị trị. Người La Mã thì vui vẻ thêm nữ thần châu Á Cybele và nữ thần Ai Cập Isis vào đền thờ bách thần của mình.

Vị thần duy nhất mà người La Mã từ lâu đã không chịu dung thứ là vị thần độc tôn và loan báo tin mừng của các tín đồ Ki-tô. Đế chế La Mã không yêu cầu các tín đồ Ki-tô từ bỏ tín ngưỡng và nghi lễ của họ, nhưng muốn họ tôn kính các thần linh bảo hộ đế chế và tôn kính Hoàng đế La Mã như thánh thần. Đây được xem là sự tuyên thệ cho lòng trung thành về mặt chính trị. Khi các tín đồ Ki-tô giáo kịch liệt phản đối điều đó, và tiếp tục từ chối tất cả các nỗ lực thỏa hiệp, người La Mã phản ứng bằng cách ngược đãi những người mà họ cho là phần tử lật đổ chính quyền. Và ngay cả điều này cũng chỉ được thực hiện nửa vời. Trong 300 năm từ sự kiện Chúa Jesus bị đóng đinh trên cây thập giá cho đến sự cải đạo của Hoàng đế Constantine, các hoàng đế La Mã theo thuyết đa thần đã khơi mào khoảng bốn cuộc thanh trừng tín đồ Ki-tô. Các nhà quản lý và thống đốc địa phương kích động một số hành động bạo lực chống lại người Ki-tô giáo. Tuy nhiên, nếu chúng ta cộng tất cả các nạn nhân của tất cả những cuộc thanh trừng đó lại, hoá ra trong ba thế kỷ, những người La Mã đa thần giết hại không nhiều hơn một vài nghìn tín đồ Ki-tô. Ngược lại, trong suốt 1.500 năm tiếp theo, có tới hàng triệu tín đồ Ki-tô bị giết bởi chính những người Ki-tô nhằm bảo vệ những luận giải có phần khác biệt về tôn giáo, tình yêu thương và lòng từ bi.

Những cuộc chiến tôn giáo giữa người Công giáo và Tin Lành càn quét châu Âu trong thế kỷ 16 và 17 đặc biệt khét tiếng. Tất cả những người tham chiến có liên quan đều chấp nhận vai trò thiêng liêng của Chúa Jesus và Phúc âm của ngài về lòng từ bi và tình yêu thương. Tuy nhiên, họ không đồng ý về bản chất của thứ tình yêu này. Người Tin Lành cho rằng tình yêu của Thiên Chúa lớn tới mức Thiên Chúa đã nhập thế bằng xác thịt, tự để cho mình bị tra tấn và đóng đinh, qua đó cứu rỗi các tội tổ tông và mở cánh cửa thiên đường cho tất cả những người tuyên xưng đức tin vào Ngài. Tín đồ Công giáo thì cho rằng đức tin đó là cần thiết nhưng chưa đủ. Để được lên thiên đường, các tín đồ phải tham gia vào các nghi lễ nhà thờ và làm việc thiện. Tín đồ Tin Lành bác bỏ điều này, cho rằng sự đổi chác làm tầm thường sự vĩ đại và tình yêu nơi Thiên Chúa. Kẻ nào nghĩ rằng cánh cửa lên thiên đường phụ thuộc vào những việc phúc thiện cá nhân chính là phóng đại tầm quan trọng của mình, chính là ngụ ý rằng sự khổ ải của Chúa Jesus trên thập tự giá và tình yêu của Người đối với nhân loại vẫn là chưa đủ.

Những tranh chấp về thần học trở nên bạo liệt tới mức vào thế kỷ 16 và 17, người Công giáo và Tin Lành giết hại hàng chục vạn tín đồ của nhau. Vào ngày 23 tháng Tám năm 1372, tín đồ Công giáo tại Pháp đề cao tầm quan trọng của phúc thiện, đã tấn công những cộng đồng Tin Lành để cao tình yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại. Trong cuộc tấn công này, được gọi là Thảm sát ngày lễ Thánh Bartholomew, có tới 5.000 đến 10.000 tín đồ Tin Lành đã bị giết hại trong vòng chưa đấy 24 giờ. Khi Giáo hoàng ở Rome nghe tin từ Pháp, ông vui mừng cho tổ chức lễ hội cầu nguyện ăn mừng sự kiện và cắt cử Giorgio Vasari trang trí một phòng của Vatican bằng bức bích họa về vụ thảm sát (căn phòng hiện đang giới hạn đối với du khách). Số người Ki-tô giáo bị chính những anh em Ki-tô hữu giết hại trong 24 giờ đó còn lớn hơn số nạn nhân này của Đế chế La Mã đa thần trong suốt thời gian tồn tại của nó.

Đấng tối cao là duy nhất

Theo thời gian, một số tín đồ đa thần giáo trở nên quá yêu mến một vị thần bảo hộ đặc biệt của họ tới mức ngày càng tách khỏi đa thần giáo cơ bản. Họ bắt đầu tin rằng vị thần của họ là vị thần duy nhất, và rằng trên thực tế Ngài là quyền lực tối cao của cả vũ trụ. Nhưng đồng thời họ vẫn tiếp tục xem Ngài là đấng có những vị lợi, thiên kiến riêng, và tin rằng họ có thể thỏa hiệp với Ngài. Chính điều đó đã sinh ra thuyết độc thần, và tín đồ của tôn giáo này khẩn cầu quyền năng tối cao của vũ trụ giúp họ khỏi bệnh, trúng xổ số và giành chiến thắng trong chiến tranh.

Độc thần giáo đầu tiên mà chúng ta biết đến xuất hiện ở Ai Cập vào khoảng năm 350 TCN, khi Pharaoh Akhenaten tuyên bố một trong các vị thần nhỏ trong bách thần Ai Cập, thần Aten, trên thực tế chính là Đấng tối cao cai trị vũ trụ. Akhenaten thể chế hoá tục thờ thần Aten thành quốc giáo và cố gắng kiểm soát việc thờ phụng mọi vị thần khác. Tuy nhiên, cuộc cách mạng tôn giáo của ông đã không thành công. Sau khi ông chết, tục thờ thần Aten bị bãi bỏ và quay lại với tục thờ bách thần như cũ.

Thuyết đa thần đâu đó vẫn tiếp tục đẻ ra các thuyết độc thần khác, nhưng chúng vẫn nằm ngoài lề, nhất là vì chúng không thể tiêu hoá nổi thông điệp phổ quát của mình. Ví dụ, Do Thái giáo cho rằng Đấng tối cao của vũ trụ có những vị lợi và thiên kiến, mà vị lợi chủ yếu của Ngài là đối với đất nước Do Thái tí hon và trong vùng đất heo hút của Israel. Do Thái giáo không có gì nhiều để hấp dẫn đối với các nước khác, và trong suốt sự tồn tại của mình, nó không phải là một tôn giáo có chủ trương truyền giáo. Giai đoạn này có thể được gọi là giai đoạn “độc thần cục bộ”.

Một sự đột phá lớn đã xảy ra với Ki-tô giáo. Đức tin này khởi nguồn từ một giáo phái Do Thái bí truyền có mục tiêu thuyết phục người Do Thái tin rằng Chúa Jesus thành Nazareth là đấng cứu thế mà họ hằng mong ngóng từ lâu. Tuy nhiên, một trong những nhà lãnh đạo đầu tiên của giáo phái, Thánh Paul thành Tarsus, lập luận rằng nếu quyền lực tối cao của vũ trụ có những vị lợi và thiên kiến, và nếu Ngài buộc phải nhập thế bằng xác phàm và chết trên thập giá để cứu độ nhân loại, thì đây là điều mà tất cả mọi người đều phải biết, chứ không chỉ riêng người Do Thái. Vì vậy cần phải loan báo tin mừng – Phúc âm – của Chúa Jesus – ra toàn thế giới.

Các lập luận của Paul đã gặp mảnh đất màu mỡ. Người Ki-tô giáo bắt đầu tổ chức các hoạt động truyền giáo rộng rãi nhắm đến tất cả mọi người. Ở một trong những bước ngoặt lạ lùng nhất của lịch sử, giáo phái Do Thái bí truyền này đã thống lĩnh trên toàn bộ Đế chế La Mã hùng mạnh.

Thành công của Ki-tô giáo được coi là mô hình cho một tôn giáo độc thần nữa xuất hiện ở bán đảo Ả-rập trong thế kỷ 7 – Hồi giáo. Giống như Ki-tô giáo, Hồi giáo khi sơ khai cũng là một giáo phái nhỏ bé ở một góc hẻo lánh của thế giới, nhưng trong một bất ngờ mang tính lịch sử còn lạ lùng và chóng vánh hơn, nó đã bứt phá khỏi sa mạc Ả-rập và chinh phục một đế chế rộng lớn trải dài từ Đại Tây Dương đến Ấn Độ. Từ đó về sau, tư tưởng độc thần đóng một vai trò trung tâm trong lịch sử thế giới.

Tín đồ độc thần giáo có xu hướng cuồng tín và truyền đạo hơn rất nhiều so với tín đồ đa thần giáo. Một tôn giáo mà công nhận tính hợp pháp của các tín ngưỡng khác thường có hàm ý rằng, hoặc là Đấng tối cao của tôn giáo đó không phải là quyền lực tối thượng của vũ trụ, hoặc là tôn giáo đó chỉ nhận được từ Đấng tối cao một phần chân lý phổ quát. Vì thường tin rằng mình đang nắm trong tay toàn bộ thông điệp của một và chỉ một Đấng tối cao mà thôi, nên tín đồ độc thần giáo đã bị thôi thúc phải báng bổ tất cả các tôn giáo còn lại. Trong hai thiên niên kỷ qua, tín đồ độc thần giáo vẫn không ngừng củng cố quyền hành của mình qua việc triệt tiêu bằng bạo lực đối với tất cả các tôn giáo cạnh tranh khác.

Biện pháp này có hiệu quả. Vào đầu thế kỷ 1, hầu như không có một tín đồ độc thần giáo nào trên thế giới. Khoảng năm 500, một trong những đế chế lớn nhất thế giới – Đế chế La Mã – trở thành một chính thể Ki-tô giáo, các nhà truyền giáo tất bật truyền bá Ki-tô giáo đến các vùng đất khác thuộc châu Âu, châu Á và châu Phi. Đến cuối thiên niên kỷ 1, hầu hết mọi người ở châu Âu, Tây Á, Bắc Phi là những tín đồ độc thần giáo, và các đế quốc từ Đại Tây Dương đến dãy Himalaya đều khẳng định họ được sắc phong bởi một Đấng vĩ đại duy nhất. Đến đầu thế kỷ 16, độc thần giáo thống trị ở hầu hết Á-Phi, trừ Đông Á và các vùng phía nam châu Phi, nó bắt đầu vươn các xúc tu tua tủa của mình về Nam Phi, châu Mỹ, châu Đại Dương. Ngày nay, hầu hết mọi người bên ngoài Đông Á tuân theo một độc thần giáo này hay một độc thần giáo khác, và trật tự chính trị toàn cầu được xây dựng trên những nền tảng độc thần giáo.

 

Bản đồ 5. Sự lan tỏa của Ki-tô giáo và Hồi giáo.

Song, cũng giống như thuyết vật linh vẫn tiếp tục tồn tại trong đa thần giáo, đa thần giáo vẫn tiếp tục tồn tại trong độc thần giáo. Về lý thuyết, khi một người tin rằng quyền lực tối cao của vũ trụ có những vị lợi và thiên kiến, vậy lý do trong việc thờ phụng những quyền lực cục bộ là gì? Ai sẽ muốn tiếp cận một công chức hạng thấp khi văn phòng tổng thống mở ra với bạn? Thật vậy, thần học độc thần có xu hướng phủ nhận sự tồn tại của tất cả các vị thần ngoại trừ một Đấng tối cao, đổ hỏa ngục và diêm sinh lên bất cứ ai dám thờ phụng những vị thần khác.

Song, luôn tồn tại một hố ngăn cách giữa lý thuyết thần học và thực tế lịch sử. Hầu hết mọi người nhận thấy rất khó khăn để tiêu hoá hoàn toàn ý tưởng về thuyết độc thần. Họ đã tiếp tục phân chia thế giới thành “chúng ta” và “chúng nó”, coi sức mạnh tối cao của vũ trụ quá xa xôi và xa lạ đối với nhu cầu trần tục của họ. Các tôn giáo độc thần đã trục xuất thần linh, vốn xuất hiện nơi cửa trước với rất nhiều sự phô trương, qua cửa sổ bên. Ví dụ, Ki-tô giáo cũng xây dựng những điện thờ riêng dành cho các thánh, với phần nghi lễ có khác nhau đôi chút so với những vị thần của đa thần giáo.

Cũng như thần Jupiter bảo vệ Rome và thần Huitzilopochtli bảo vệ Đế chế Aztec, mỗi vương quốc Ki-tô giáo có vị thánh bảo trợ của riêng mình, giúp nó vượt qua khó khăn và giành chiến thắng trong các cuộc chiến tranh. Anh đã được bảo vệ bởi Thánh George, Scotland bởi Thánh Andrew, Hungary bởi Thánh Stephen, và Pháp bởi Thánh Martin. Các thành phố thị trấn, các ngành nghề, và thậm chí cả bệnh tật – tất cả đều có vị thánh của riêng mình. Thành phố Milan đã có Thánh Ambrose, trong khi Thánh Mark che chở thành phố Venice. Thánh Almo bảo vệ người thợ cạo ống khói, còn Thánh Matthew lại giúp đỡ những người thu thuế khi lâm nạn. Nếu bạn bị đau đầu, bạn phải cầu nguyện Thánh Agathius, nhưng nếu bị đau răng thì nguyện cầu Thánh Apollonia hiệu quả hơn nhiều.

Các thánh Ki-tô giáo không chỉ đơn thuần giống như các vị thần trong đa thần giáo cũ. Thường thì họ chính là những vị thân cải trang. Ví dụ, nữ thần chính của văn minh Celtic ở Ireland trước khi có sự xuất hiện của Ki-tô giáo là Brigid. Khi Ireland đã được Ki-tô hoá, Brigid cũng được rửa tội. Bà trở thành Thánh Brigid, người cho đến nay vẫn là vị thánh được tôn kính nhất trong Công giáo ở Ireland.

Cuộc chiến giữa thiện và ác

Đa thần giáo không chỉ sinh ra các tôn giáo độc thần, mà còn cả những tôn giáo nhị nguyên. Những tôn giáo nhị nguyên tán thành sự tồn tại của hai sức mạnh đối lập: thiện và ác. Không giống như thuyết độc thần, nhị nguyên cho rằng cái ác có một sức mạnh độc lập, không được tạo ra bởi Chúa lòng lành, và cũng không thấp kém hơn. Nhị nguyên giải thích rằng toàn bộ vũ trụ là một chiến trường giữa hai lực lượng này, và do đó tất cả những gì xảy ra trong thế giới này là một phần của cuộc đấu tranh.

Thuyết nhị nguyên là một thế giới quan đầy hấp dẫn, vì nó có câu trả lời ngắn gọn và đơn giản cho Vấn đề Cái ác nổi tiếng, một trong những mối quan tâm cơ bản của tư tưởng con người. “Tại sao có cái ác tồn tại trên thế giới? Tại sao có đau khổ? Tại sao những điều xấu lại xảy ra với những người tốt?” Những người độc thần giáo phải rèn luyện trí tuệ để giải thích làm thế nào mà một Đấng tối cao toàn tri, toàn năng và toàn thiện lại cho phép quá nhiều đau khổ trên thế giới. Một lời giải thích nổi tiếng cho rằng đây là cách Đấng tối cao cho phép tự do ý chí trong con người. Nếu không có cái ác, con người không thể lựa chọn giữa cái thiện và cái ác, và do đó sẽ không có ý chí tự do. Tuy nhiên, đây là một câu trả lời không trực quan, bởi nó ngay lập tức đặt ra một loạt các câu hỏi mới. Tự do của ý chí cũng cho phép con người lựa chọn cái ác. Nhiều người thực sự chọn cái ác, và theo lời giải thích độc thần giáo chuẩn mực, lựa chọn này phải mang lại sự trừng phạt của Đấng tối cao trong kết quả cuối cùng của nó. Nếu Đấng tối cao biết trước rằng một người cụ thể sẽ sử dụng ý chí tự do của mình để lựa chọn cái ác, và kết quả là người đó sẽ chịu trừng phạt vì điều này bằng việc bị tra tấn đời đời trong địa ngục, vậy tại sao Đấng tối cao lại tạo ra người ấy? Các nhà thần học đã viết vô số sách để trả lời câu hỏi như vậy. Một số tìm thấy câu trả lời thuyết phục. Một số thì không. Có điều không thể phủ nhận là những người độc thần giáo đã trải qua quãng thời gian khó khăn để đối phó với Vấn đề Cái ác.

Đối với những người nhị nguyên, điều xấu xảy ra ngay cả với người tốt, vì thế giới không bị chi phối bởi một Đấng tối cao toàn tri, toàn năng và toàn thiện. Vẫn tồn tại một sức mạnh của cái ác độc lập bao trùm lên thế giới. Sức mạnh của cái ác tạo ra những điều xấu.

Quan điểm nhị nguyên cũng có nhược điểm riêng của nó. Đúng, nó cung cấp một giải pháp rất đơn giản để trả lời cho Vấn đề Cái ác, nhưng nó lại bối rối bởi Vấn đề Trật tự. Nếu thế giới đã được tạo ra bởi một Đấng tối cao duy nhất, hiển nhiên thế giới sẽ là nơi có trật tự, mọi thứ đều tuân theo những quy luật chung. Nhưng nếu Thiện và Ác đánh nhau giành quyền kiểm soát thế giới, ai sẽ là người thực thi các quy luật chi phối cuộc chiến vũ trụ này? Hai quốc gia đối địch có thể chiến đấu với nhau vì cả hai đều tồn tại trong không gian và thời gian, đều tuân theo những quy luật vật lý. Một tên lửa phóng đi từ Pakistan có thể bắn trúng mục tiêu trong lãnh thổ Ấn Độ vì các quy luật vật lý là giống nhau ở cả hai nước. Trong cuộc chiến giữa Thiện và Ác, luật pháp chung nào buộc cả hai bên phải tuân thủ, và ai là người ban hành luật pháp đó?

Vậy nên, độc thần giáo giải thích tốt trật tự, nhưng lại hoang mang trước cái ác. Thuyết nhị nguyên giải thích tốt cái ác, nhưng lại lúng túng trước trật tự. Có một cách thức hợp lý giải quyết bài toán này: lập luận rằng có một Đấng toàn năng duy nhất đã tạo ra toàn bộ vũ trụ – và đó là một Thượng đế ác. Nhưng không một ai trong lịch sử lại dung chứa một niềm tin như vậy.

Tôn giáo nhị nguyên phát triển mạnh mẽ trong hơn một ngàn năm. Vào khoảng thời gian giữa năm 1500 và 1000 TCN, một nhà tiên tri tên là Zoroaster (Zarathustra) hoạt động đâu đó ở Trung Á. Tín ngưỡng của ông được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, cho đến khi nó trở thành tôn giáo nhị nguyên quan trọng nhất – Bái hỏa giáo. Tín đồ Bái hỏa giáo nhìn thế giới như một trận chiến vũ trụ giữa thần thiện Ahura Mazda và thần ác Angra Mainyu. Con người phải giúp thần thiện trong trận chiến này. Bái hỏa giáo là một tôn giáo quan trọng trong Đế chế Ba Tư thời Achaemenid (năm 550-330 TCN) và sau này trở thành tôn giáo chính thức của Đế chế Ba Tư thời Sassanid (năm 224-651). Nó có tầm ảnh hưởng lớn đến hầu hết mọi tôn giáo ở Trung Đông và Trung Á sau này, và nó truyền cảm hứng cho một số tôn giáo nhị nguyên khác, chẳng hạn như Ngộ đạo giáo (Gnosticism) và Mani giáo (Manichaeanism).

Trong thế kỷ 3 và 4, Mani giáo lan rộng từ Trung Hoa đến Bắc Phi, và có những thời điểm, dường như đã đánh bại Ki-tô giáo để thống trị Đế chế La Mã. Song, Mani giáo đã để mất Rome về tay các tín đồ Ki-tô giáo, Đế chế Sassanid theo Bái hỏa giáo bị đẩy lùi bởi Hồi giáo độc thần, và làn sóng nhị nguyên dần lắng xuống. Hiện nay chỉ có một số ít cộng đồng theo thuyết nhị nguyên còn tồn tại ở Ấn Độ và Trung Đông.

Tuy nhiên, cơn thủy triều độc thần giáo đang dâng đã không thực sự quét sạch được chủ nghĩa nhị nguyên. Do Thái giáo, Ki-tô giáo và Hồi giáo độc thần hấp thụ rất nhiều tín lý và thực hành nhị nguyên, và một số trong những ý tưởng cơ bản nhất về những gì chúng ta gọi là “độc thần”, trên thực tế chính là nhị nguyên về nguồn gốc và tinh thần. Vô số tín đồ Ki-tô giáo, Hồi giáo và Do Thái giáo tin vào một thế lực tà ác mạnh mẽ mà người Ki-tô giáo gọi là Ác quỷ hay Satan, những kẻ có thể hoạt động độc lập, chiến đấu chống lại Chúa lòng lành, và phá hoại mà không được Chúa cho phép.

Làm thế nào một tín đồ độc thần giáo có thể tuân theo một niềm tin nhị nguyên như vậy? (Nhân tiện, chẳng có điều gì tương tự như thế trong Cựu Ước.) Theo logic, đó là điều không thể. Hoặc là bạn tin vào một Đấng toàn năng duy nhất, hoặc bạn tin vào hai sức mạnh đối lập, không bên nào là toàn năng. Tuy nhiên, con người có một khả năng tuyệt vời để tin vào những mâu thuẫn. Vì vậy, không có gì đáng ngạc nhiên khi mà hàng triệu tín đồ Ki-tô giáo, Hồi giáo và Do Thái giáo mộ đạo tin rằng, tại cùng một nơi và cùng một thời điểm, tồn tại cùng lúc một Đấng toàn năng và một Ác quỷ độc lập. Vồ số tín đồ Ki-tô giáo, Hồi giáo và Do Thái giáo đã tưởng tượng tới mức rằng Chúa lòng lành thậm chí còn cần sự giúp đỡ của chúng ta trong cuộc đấu tranh chống lại Ác quỷ, điều này tạo cảm hứng cho những lời kêu gọi thánh chiến và thập tự chinh.

Một khái niệm nhị nguyên quan trọng khác, đặc biệt là ở Ngộ đạo giáo và Mani giáo là sự phân biệt rõ ràng giữa thể xác và linh hồn, giữa vật chất và tinh thần. Ngộ đạo giáo và Mani giáo lập luận rằng Chúa lòng lành tạo ra tinh thần và linh hồn, trong khi vật chất và thân xác là sự sáng tạo của quỷ dữ. Theo quan điểm này, con người là hiện thân của một cuộc chiến giữa linh hồn tốt đẹp và thân xác xấu xa. Từ quan điểm độc thần, điều đó là vô nghĩa – tại sao lại phân biệt quá rạch ròi giữa thể xác và tâm hồn, hoặc vật chất và tinh thần? Và tại sao phải lập luận rằng vật chất và thể xác là xấu xa? Suy cho cùng, mọi thứ đã được tạo ra bởi cùng một Chúa lòng lành. Nhưng người độc thần giáo không thể không bị quyến rũ bởi khái niệm phân đôi của nhị nguyên, chính xác là do chúng đã giúp họ giải quyết các vấn đề của cái ác. Vì vậy, chính những phản đối này cuối cùng lại trở thành nền tảng tư tưởng của Ki-tô giáo và Hồi giáo. Niềm tin vào thiên đường (vương quốc của Chúa lòng lành) và địa ngục (vương quốc của ác quỷ) cũng có nguồn gốc từ quan điểm nhị nguyên. Không có dấu vết của niềm tin này trong Cựu Ước, và Cựu Ước cũng không bao giờ tuyên bố rằng linh hồn của con người tiếp tục tồn tại sau khi cơ thể chết đi.

Trên thực tế, độc thần giáo, như nó đã diễn ra trong lịch sử, là chiếc kính vạn hoa của những di sản độc thần giáo, nhị nguyên, đa thần giáo và tín ngưỡng vật linh, cùng núp bóng dưới một chiếc ô độc thần. Người Ki-tô giáo bình thường tin tưởng vào Thiên Chúa trong độc thần giáo, nhưng cũng tin vào Ác quỷ theo thuyết nhị nguyên, vào các vị thánh của thuyết đa thần, và các bóng ma của tín ngưỡng vật linh. Các học giả tôn giáo đặt tên cho sự kết hợp đồng thời này của các ý tưởng từ nhiều thuyết khác nhau, thậm chí là đối nghịch nhau, và sự kết hợp của các nghi lễ và thực hành có nguồn gốc khác nhau. Nó được gọi là chủ nghĩa hỗn tạp. Trên thực tế, thuyết hỗn tạp có lẽ là thứ tôn giáo vĩ đại duy nhất trên thế giới.

Quy luật tự nhiên

Tất cả các tôn giáo mà chúng ta đã thảo luận cho đến nay đều chia sẻ một đặc điểm quan trọng: chúng đều tập trung đức tin vào thần linh và thực thể siêu nhiên khác. Điều này có vẻ hiển nhiên đối với người phương Tây, chủ yếu quen thuộc với độc thần giáo và đa thần giáo. Tuy nhiên, trên thực tế, lịch sử tôn giáo của thế giới không chỉ gói gọn vào lịch sử của thần linh. Trong thiên niên kỷ 1 TCN, các tôn giáo hoàn toàn mới bắt đầu lan rộng khắp Á-Phi. Những kẻ mới đến, chẳng hạn như Jaina giáo và Phật giáo ở Ấn Độ, Đạo giáo và Nho giáo ở Trung Hoa, và chủ nghĩa khắc kỷ, chủ nghĩa hoài nghi, chủ nghĩa hưởng lạc ở Địa Trung Hải, được đặc trưng bởi sự coi thường thần linh.

Những tín ngưỡng này cho rằng trật tự siêu nhiên chi phối thế giới là sản phẩm của các quy luật tự nhiên chứ không phải ý chí và ý tưởng của thần linh. Một số tôn giáo tuân theo quy luật tự nhiên vẫn tiếp tục tán thành sự tồn tại của các vị thần, nhưng thần linh của họ là đối tượng của quy luật tự nhiên không khác gì so với con người, động vật và thực vật. Các thần linh này có vị trí riêng trong hệ sinh thái giống như voi và nhím cũng có nơi dành cho chúng, và không thể thay đổi các quy luật tự nhiên cũng giống như voi. Một ví dụ điển hình là Phật giáo, tôn giáo quan trọng nhất trong các tôn giáo thuận theo quy luật tự nhiên cổ xưa, và giờ vẫn là một trong những tín ngưỡng lớn.

Nhân vật trung tâm của Phật giáo không phải là một vị thần mà là một con người, Siddhartha Gautama (Tất-đạt-đa Cồ-đàm). Theo truyền thống Phật giáo, Gautama là người thừa kế của một vương quốc nhỏ thuộc Himalaya, vào khoảng năm 500 TCN. Vị hoàng tử trẻ đã bị ảnh hưởng sâu sắc trước các bằng chứng khổ đau xung quanh mình. Ông thấy rằng đàn ông và đàn bà, trẻ em và người già, tất cả họ đều đau khổ không chỉ do thiên tai bất chợt như chiến tranh và dịch bệnh, mà còn do sự lo lắng, thất vọng và bất mãn, mọi thứ dường như là một phần không thể tách rời của cuộc sống con người. Con người theo đuổi sự giàu có và quyền lực, tiếp nhận kiến thức và tài sản, sinh con trai và con gái, xây dựng nhà và cung điện. Tuy nhiên, dù có được điều gì, họ cũng không bao giờ thỏa mãn. Những người sống trong đói nghèo mơ ước được giàu có. Những người có một triệu muốn hai triệu. Những người có hai triệu lại muốn mười triệu. Ngay cả những người giàu có và nổi tiếng vẫn hiếm khi hài lòng. Họ cũng bị ám ảnh bởi những mối quan tâm và sự lo lắng không ngừng, cho đến khi bệnh tật, tuổi già và cái chết đưa đến một kết thúc cay đắng với họ. Mọi thứ mà ta đã tích lũy biến mất như làn khói. Cuộc sống là một cuộc chạy đua vô nghĩa. Nhưng làm thế nào để thoát khỏi điều đó?

Ở tuổi 29, Gautama đã trốn khỏi cung điện vào giữa đêm, bỏ lại đằng sau gia đình và tài sản. Ông ra đi như một người vô gia cư lang thang khắp miền Bắc Ấn Độ, tìm kiếm lối thoát khỏi khổ đau. Ông đã đến thăm các đạo tràng và quỳ dưới chân những bậc đạo sư đầy kinh nghiệm, nhưng vẫn chưa được giải thoát hoàn toàn – vẫn luôn tồn tại một số điều còn mắc mớ. Ông không nản lòng. Ông quyết tâm tự tìm hiểu nỗi khổ đau cho đến khi tìm thấy một phương pháp giải thoát hoàn toàn. Ông đã trải qua sáu năm thiền định về bản chất, về các nguyên nhân và phương pháp chữa trị cho nỗi thống khổ của kiếp người. Cuối cùng, ông đã nhận ra rằng đau khổ không phải bởi rủi ro, bởi bất công xã hội, hay bởi ý tưởng bất chợt của thần linh. Thay vào đó, đau khổ chính là do các hình mẫu hành vi trong tâm trí của chính mình.

Khám phá sâu sắc của Gautama là khi tâm trải nghiệm bất cứ điều gì, nó thường phản ứng với tham ái, mà tham ái luôn kéo theo sự bất mãn. Khi tâm trải nghiệm một cái gì đó khó chịu, nó khao khát thoát khỏi các day dứt và bực dọc. Khi tâm trải nghiệm một cái gì đó dễ chịu, nó khao khát rằng niềm vui sẽ vẫn duy trì và tăng thêm. Do đó, tâm luôn không hài lòng và bồn chồn. Chúng ta có thể thấy rõ điều này khi gặp những điều khó chịu, chẳng hạn như cơn đau. Chừng nào nỗi đau vẫn còn tiếp tục, chúng ta vẫn sẽ bất mãn và làm tất cả những gì có thể để tránh nó. Tuy nhiên, ngay cả khi chúng ta trải nghiệm những điều thú vị, chúng ta cũng chẳng bao giờ bằng lòng. Hoặc chúng ta lo sợ rằng niềm vui có thể biến mất, hoặc chúng ta hy vọng rằng nó sẽ táng thêm. Nhiều người vẫn hằng mong tìm kiếm tình yêu nhưng hiếm khi hài lòng khi họ tìm thấy nó. Một số trở nên lo lắng rằng người tình của họ sẽ bỏ đi; những người khác cảm thấy rằng họ đã an phận quá dễ dãi, và đáng lẽ họ có thể tìm thấy một ai đấy tốt hơn. Và tất cả chúng ta đều biết mọi người cố gắng để đạt được cả hai.

Những vị thần vĩ đại có thể mang mưa tới cho chúng ta, các tổ chức xã hội có thể cung cấp công lý và hệ thống chăm sóc sức khỏe tốt, và những lần tình cờ may mắn có thể biến chúng ta thành triệu phú, nhưng tất cả chúng đều không thể thay đổi các hình mẫu tư duy cơ bản của chúng ta. Do đó, ngay cả các vị vua vĩ đại nhất cũng phải cam chịu sống trong cảm giác lo lắng, không ngừng chạy trốn nỗi buồn và đau khổ, mãi mãi đuổi theo những thú vui lớn hơn.

 

Bản đồ 6. Sự lan toản của Phật giáo

Gautama thấy rằng có một cách để thoát khỏi cái vòng luẩn quẩn này. Nếu khi tâm trải nghiệm một cái gì đó dễ chịu hay khó chịu, tâm chỉ đơn giản thấu hiểu sự vật như nó vốn vậy, thì sẽ khống có đau khổ. Nếu bạn gặp nỗi buồn mà không mong nỗi buồn biến mất, bạn tiếp tục cảm thấy nỗi buồn nhưng bạn không đau khổ vì nó nữa. Nỗi buồn thực sự cũng có nhiều giá trị. Nếu bạn từng trải qua niềm vui mà không muốn rằng niềm vui kéo dài và nhân lên nữa, bạn vẫn tiếp tục cảm thấy niềm vui mà không mất đi sự bình an trong tâm hồn.

Nhưng làm thế nào để bạn khiến tâm trí chấp nhận mọi thứ như chúng vốn là, mà không hề có sự thèm muốn nào khác? Làm sao chúng ta chấp nhận nỗi buồn như nỗi buồn, niềm vui như niềm vui, nỗi đau chỉ là nỗi đau? Gautama phát triển một tập hợp kĩ thuật thiền định nhằm huấn luyện tâm trí trải nghiệm thực tế như nó vốn vậy, mà không hề thèm muốn. Những bài tập này huấn luyện tâm trí tập trung tất cả

Sự chú ý của nó vào câu hỏi: “Tôi đang trải nghiệm điều gì vào lúc này?” hơn là vào “Tôi mong muốn được trải nghiệm gì?” Khó mà đạt được trạng thái tâm trí này, nhưng không phải là không thể.

Gautama đặt những kĩ thuật thiền định này trong một bộ quy tắc đạo đức, để khiến mọi người tập trung vào trải nghiệm thực tế, tránh rơi vào những thèm muốn và hoang tưởng. Ông hướng dẫn đệ tử tránh sát sinh, không tà dâm và không trộm cắp, do những hành vi đó chắc chắn sẽ thổi bùng ngọn lửa tham ái (với quyền lực, niềm vui nhục dục, hoặc sự giàu có). Khi ngọn lửa được dập tắt, tham ái được thay thế bởi một trạng thái mãn nguyện hoàn hảo và thanh thản, được gọi là niết bàn (nghĩa đen của từ đó là “dập lửa”). Những người đã đạt tới niết bàn sẽ được giải thoát hoàn toàn khỏi mọi khổ đau. Họ trải nghiệm thực tế một cách hết sức rõ ràng, thoát khỏi những hoang tưởng và ảo mộng. Mặc dù họ rất có thể sẽ vẫn gặp phải khó chịu và đau đớn, nhưng những trải nghiệm như vậy không làm họ đau khổ. Một người không thèm muốn thì sẽ không phải chịu đau khổ.

Theo truyền thống Phật giáo, Gautama tự mình chứng được niết bàn và đã được giải thoát khỏi đau khổ. Từ đó về sau ông được gọi là “Phật”, có nghĩa là “Người giác ngộ”. Đức Phật dành phần còn lại của cuộc đời mình để giải thích những khám phá của ông cho người khác để mọi người có thể được giải thoát khỏi đau khổ. Ông tóm gọn những lời dạy của mình trong một quy luật duy nhất: đau khổ phát sinh từ tham ái; cách duy nhất để giải thoát hoàn toàn khỏi đau khổ là giải thoát hoàn toàn khỏi tham ái; và cách duy nhất để được giải thoát khỏi tham ái là huân tập tâm trí trải nghiệm thực tế như nó là.

Quy luật này, gọi là Pháp, được các Phật tử coi như một định luật tự nhiên phổ quát. Vấn đề “đau khổ phát sinh từ tham ái” luôn tồn tại và có ở khắp mọi nơi là đúng, cũng giống như trong vật lý hiện đại, E luôn luôn bằng mc². Phật tử là những người tin vào quy luật này và biến nó thành điểm tựa trong tất cả các hoạt động của họ. Mặt khác, niềm tin vào thần linh có tầm quan trọng thứ yếu đối với họ. Nguyên tắc đầu tiên của độc thần giáo là: “Đấng tối cao luôn hiện hữu. Vậy Ngài muốn những gì từ con?” Nguyên tắc đầu tiên của Phật giáo là “Đau khổ luôn tồn tại. Làm thế nào để tôi thoát khỏi nó?”

Phật giáo không phủ nhận sự tồn tại của thần linh – họ được mô tả như các thực thể quyền năng, có thể đem đến những cơn mưa và chiến thắng – nhưng họ không có ảnh hưởng gì tới quy luật rằng đau khổ phát sinh từ tham ái. Nếu tâm trí của một người thoát khỏi tất cả tham ái, không thần linh nào có thể làm cho anh ta đau khổ. Ngược lại, một khi tham ái phát sinh trong tâm trí của một người, tất cả thần linh trong vũ trụ cũng không thể cứu anh ta khỏi đau khổ.

Song, giống như độc thần giáo, các tôn giáo theo luật tự nhiên thời tiền hiện đại như Phật giáo không bao giờ thực sự thoát khỏi việc thờ phụng thần linh. Phật giáo nói với mọi người rằng họ nên hướng tới mục tiêu tối hậu là giải thoát hoàn toàn khỏi đau khổ, thay vì dừng lại ở những mục tiêu trong đời như sự thịnh vượng về kinh tế và quyền lực chính trị. Tuy nhiên, 99% Phật tử không thể tới được niết bàn, và thậm chí nếu họ hy vọng sẽ làm được như vậy trong một số kiếp sau, thì họ vẫn dành phần lớn cuộc sống hiện tại của mình để theo đuổi những thành tựu trần tục. Vì vậy, họ vẫn tiếp tục tồn thờ các vị thần khác nhau, chẳng hạn như các vị thần Hindu ở Ấn Độ, các vị thần Bon ở Tây Tạng, và các vị thần Shinto tại Nhật Bản.

Hơn nữa, theo thời gian, một vài tông phái Phật giáo phát triển thành một hệ thống các chư Phật và Bồ Tát. Đây là những thực thể người và không phải người có khả năng đạt đến sự giải thoát hoàn toàn khỏi đau khổ, nhưng từ bỏ sự giải thoát này vì lòng từ bi, để cứu giúp vô số chúng sinh vẫn còn bị mắc kẹt trong vòng luân hồi đau khổ. Thay vì thờ lạy các vị thần, nhiều Phật tử bắt đầu thờ các bậc giác ngộ, yêu cầu họ giúp đỡ không chỉ trong việc đạt tới niết bàn, mà còn trong việc xử lý các vấn để trần tục. Do đó, chúng ta tìm thấy nhiều tượng Phật và Bồ Tát khắp Đồng Á, họ dành thời gian mang mưa đến, chấm dứt bệnh dịch, và thậm chí giành chiến thắng trong những cuộc chiến đẫm máu – để đổi lấy những lời cầu nguyện, những vòng hoa đầy màu sắc, trầm hương thơm và những đồ cúng bằng gạo và kẹo bánh.

Sự tôn thờ con người

300 năm qua thường được mô tả như thời đại phát triển của chủ nghĩa thế tục, trong đó tôn giáo ngày càng mất đi tầm quan trọng của nó. Nếu chúng ta đang nói về các tôn giáo hữu thần, thì điều này phần lớn là chính xác. Nhưng nếu chúng ta nói về các tôn giáo theo quy luật tự nhiên thì thời hiện đại hoá ra lại là kỷ nguyên của lòng nhiệt thành mãnh liệt đối với tôn giáo, những nỗ lực truyền giáo chưa từng có và các cuộc chiến tranh tôn giáo đẫm máu nhất trong lịch sử. Thời hiện đại đã chứng kiến sự nổi lên của một số tôn giáo mới theo quy luật tự nhiên, chẳng hạn như chủ nghĩa tự do, chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa phát xít. Những tín điều này không thích được gọi là tôn giáo, và tự coi chúng là những ý thức hệ. Nhưng đó chỉ là về mặt ngữ nghĩa mà thôi. Nếu tôn giáo là một hệ thống các chuẩn mực và giá trị con người được xác lập dựa trên niềm tin vào một trật tự siêu nhiên, thì những chủ nghĩa kia cũng giống như một tôn giáo không khác gì Hồi giáo.

Tôn giáo là một hệ thống các chuẩn mực và giá trị con người được xác lập dựa trên niềm tin vào một trật tự siêu phàm. Thuyết tương đối không phải là một tôn giáo, bởi vì ít nhất cho đến nay, không có bất cứ chuẩn mực và giá trị con người nào được tạo nên dựa trên thuyết đó. Bóng đá không phải là một tôn giáo, vì không ai lập luận rằng các quy tắc của nó lại phản ánh những sắc lệnh siêu phàm. Hồi giáo, Phật giáo đều là các tôn giáo, bởi tất cả chúng đều là các chuẩn mực và giá trị con người được tạo nên dựa vào niềm tin vào một trật tự siêu phàm. (Lưu ý có sự khác biệt giữa “siêu phàm” và “siêu nhiên”. Các quy luật tự nhiên Phật giáo và các quy luật lịch sử là siêu phàm, bởi chúng không do con người tạo ra. Tuy nhiên, chúng cũng không phải là siêu nhiên).

 

Chúng ta có thể phân chia các tín điều tôn giáo thành những tôn giáo lấy thần thánh làm trung tâm và những ý thức hệ vô thần, được cho rằng dựa trên quy luật tự nhiên. Nhưng sau đó, để thống nhất, chúng ta sẽ lại cần phải phân mục lại ít nhất một số phái như Phật giáo, Đạo giáo và chủ nghĩa khắc kỷ là những hệ tư tưởng hơn là tôn giáo. Ngược lại, chúng ta nên lưu ý rằng niềm tin vào thần linh vẫn tồn tại trong nhiều hệ tư tưởng hiện đại, và một số trong đó, đặc biệt là chủ nghĩa tự do, sẽ không còn nhiều ý nghĩa nếu không có niềm tin này.

Không thể tiến hành khảo sát lịch sử của tất cả các tín điều hiện đại mới đây trong phần này, nhất là vì không có ranh giới rõ ràng giữa chúng. Chúng không kém phần hỗn loạn so với thuyết độc thần và Phật giáo phổ thông. Cũng giống với việc một Phật tử có thể thờ phụng các vị thần Hindu, một tín đồ độc thần giáo có thể tin vào sự tồn tại của quỷ Satan, người Mỹ điển hình ngày nay vừa là người theo chủ nghĩa dân tộc (tin vào sự tồn tại của Mỹ với một vai trò đặc biệt trong lịch sử), vừa là người theo chủ nghĩa tư bản thị trường tự do (tin rằng sự cạnh tranh mở và việc theo đuổi lợi ích cá nhân là những cách tốt nhất để tạo ra một xã hội thịnh vượng), vừa là một nhà nhân văn tự do (tin rằng con người đã được tạo hoá ban cho họ một số quyền bất khả xâm phạm nhất định). Chủ nghĩa dân tộc sẽ được thảo luận trong Chương 18. Chủ nghĩa tư bản – thành công nhất trong các tôn giáo của lịch sử hiện đại – được mô tả ở toàn bộ Chương 16, trong đó giải thích những niềm tin và nghi thức chính của nó. Trong những trang còn lại của chương này, tôi sẽ đề cập đến các tôn giáo nhân văn.

Các tôn giáo hữu thần tập trung vào việc thờ cúng thần linh. Tôn giáo nhân văn thờ nhân loại, hay đúng hơn là Homo sapiens. Chủ nghĩa nhân văn là một niềm tin, rằng Homo sapiens có một bản chất độc đáo và linh thiêng, mà về cơ bản khác với bản chất của tất cả các loài động vật và mọi hiện tượng khác. Những người theo chủ nghĩa nhân văn tin rằng chính bản chất độc đáo của Homo sapiens là điều quan trọng nhất trên thế giới, và nó quyết định ý nghĩa của mọi điều xảy ra trong vũ trụ. Cái tốt lành tối thượng chính là điều tốt đẹp có ở Homo sapiens. Phần còn lại của thế giới và tất cả các sinh vật khác tồn tại chỉ để phục vụ cho lợi ích loài người.

Tất cả những người nhân văn chủ nghĩa tôn thờ nhân loại, nhưng họ không đồng ý với định nghĩa của nó. Chủ nghĩa nhân văn đã chia thành ba nhóm đối thủ, tranh cãi về định nghĩa chính xác của từ “nhân loại”, cũng giống như các giáo phái Ki-tô chiến đấu về định nghĩa chính xác của Thiên Chúa. Ngày nay, phái nhân văn quan trọng nhất là chủ nghĩa nhân văn tự do, tin rằng “nhân tính” là phẩm chất của mỗi cá nhân, và sự tự do của mỗi cá nhân mang tính linh thiêng. Theo chủ nghĩa tự do, bản chất thiêng liêng của nhân tính ẩn chứa trong mỗi và mọi cá nhân Homo sapiens. Bản chất cốt lõi bên trong mỗi cá nhân mang lại ý nghĩa cho thế giới, và là nguồn gốc cho mọi uy quyền về đạo đức và chính trị. Nếu chúng ta gặp phải một tình trạng khó xử về đạo đức hay chính trị, chúng ta nên nhìn sâu bên trong và lắng nghe tiếng nói bên trong của mình – tiếng nói của nhân tính. Các điều răn chủ yếu của chủ nghĩa nhân văn tự do được dùng để bảo vệ quyền tự do của tiếng nói bên trong này, chống lại sự xâm phạm hoặc tổn hại. Những điều răn này được gọi chung là “nhân quyền”.

Chính điều này được xem là lý do khiến chủ nghĩa nhân văn tự do phản đối việc tra tấn và án tử hình. Trong thời kĩ đầu của châu Âu hiện đại, kẻ giết người được cho là vi phạm và làm mất ổn định trật tự vũ trụ. Để mang vũ trụ trở lại cân bằng, cần phải tra tấn và công khai trừ khử tội phạm, để mọi người có thể thấy trật tự được tái lập. Tham dự buổi hành quyết khủng khiếp là một trò tiêu khiển ưa thích của người dân London và Paris trong thời đại của Shakespeare và Molière. Ở châu Âu hiện nay, việc giết người được xem là một sự vi phạm tính chất thiêng liêng của nhân tính. Để lập lại trật tự, người châu Âu ngày nay không tra tấn và tử hình tội phạm. Thay vào đó, họ trừng phạt kẻ giết người theo cách thức mà họ xem là “nhân đạo” nhất có thể, do đó bảo vệ và thậm chí xây dựng lại sự linh thiêng nhân bản của hắn. Bằng cách vinh danh bản chất con người của kẻ giết người, mọi người được nhắc nhở về sự thiêng liêng của nhân tính, và trật tự được phục hồi. Bằng việc bảo vệ kẻ giết người, chúng ta sửa lại điều mà kẻ đó đã làm sai.

Mặc dù chủ nghĩa nhân văn tự do thần thánh hoá con người, nhưng nó vẫn không phủ nhận sự tồn tại của Đấng tối cao, và trên thực tế nó được hình thành dựa trên những niềm tin độc thần. Niềm tin của chủ nghĩa nhân văn vào bản chất tự do và thiêng liêng của mỗi cá nhân là một di sản trực tiếp của niềm tin Ki-tô về sự tự do và linh hồn cá nhân vĩnh cửu. Nếu không viện dẫn đến linh hồn vĩnh cửu và Đấng tạo hoá, chủ nghĩa tự do sẽ khó giải thích sự đặc biệt của mỗi Sapiens.

Một giáo phái quan trọng khác là chủ nghĩa nhân văn xã hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa xã hội tin rằng con người có bản chất tập thể chứ không phải cá nhân. Họ không coi tiếng nói bên trong của mỗi cá nhân là thiêng liêng mà nhìn nhận Homo sapiens với tư cách một loài. Trong khi chủ nghĩa nhân văn tự do tìm kiếm tự do càng nhiều càng tốt cho mỗi cá nhân, thì chủ nghĩa nhân văn xã hội chủ nghĩa tìm kiếm sự bình đẳng giữa mọi người. Theo những nhà xã hội chủ nghĩa, bất bình đẳng là sự báng bổ tệ hại nhất chống lại sự thiêng liêng của nhân loại, bởi vì nó coi trọng các đặc tính ngoại vi của con người hơn những bản chất phổ quát của loài. Ví dụ như khi coi những người giàu có đặc quyền hơn người nghèo, điều đó có nghĩa là chúng ta coi trọng tiền bạc hơn các bản chất phổ quát khác của tất cả con người, một thứ mà với người giàu và người nghèo là giống nhau.

Cũng giống như chủ nghĩa nhân văn tự do, chủ nghĩa nhân văn xã hội chủ nghĩa được xây dựng trên cơ sở thuyết độc thần. Quan điểm cho rằng mọi người đều bình đẳng là một phiên bản cải tiến của thuyết độc thần, trong đó mọi linh hồn đều bình đẳng trước Đấng tối cao. Giáo phái nhân văn duy nhất đã thực sự bị tách khỏi thuyết độc thần truyền thống là chủ nghĩa nhân văn tiến hoá, mà đại diện nổi tiếng nhất là chủ nghĩa xã hội quốc gia Đức. Cái phân biệt giữa Đức quốc xã với các giáo phái nhân văn khác nằm ở một định nghĩa khác của khái niệm ‘nhân tính”, chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi thuyết tiến hoá. Trái ngược với các nhà nhân văn khác, Đức quốc xã tin rằng nhân loại không phải là một cái gì đó phổ quát và vĩnh cửu, mà là một giống loài có thể thay đổi, có thể phát triển hoặc thoái hoá. Con người có thể tiến hoá thành những cá nhân siêu việt, hoặc suy thoái thành một giống nòi yếu kém.

Tham vọng chính của Đức quốc xã là bảo vệ loài người khỏi sự thoái hoá và khuyến khích sự tiến hoá tích cực của nó. Đây là lý do khiến Đức quốc xã cho rằng chủng tộc Arya, hình thức tiên tiến nhất của nhân loại, phải được bảo vệ và nuôi dưỡng, trong khi các hình thức thoái hoá của Homo sapiens như người Do Thái, người La Mã, người đồng tính và các bệnh nhân tâm thần cần phải được cách ly và thậm chí là tiêu diệt. Đức quốc xã giải thích rằng bản thân loài Homo sapiens xuất hiện khi một quần thể “cao cấp” của người cổ đại tiến hoá, trái lại quần thể “kém cỏi” như Neanderthal đã bị tuyệt chủng. Những quần thể người khác nhau này lúc đầu không khác gì những chủng tộc khác nhau, nhưng phát triển độc lập theo những con đường tiến hoá riêng của họ. Điều này cũng có thể xảy ra một lần nữa. Theo Đức quốc xã, Homo sapiens vốn được chia thành nhiều chủng tộc khác nhau, với những phẩm chất độc đáo của riêng mình. Một trong số đó, chủng tộc Arya có những phẩm chất tốt nhất – tính duy lý, vẻ đẹp, tính toàn vẹn, sự siêng năng. Do đó, chủng tộc Arya có tiềm nâng để biến con người thành siêu nhân. Các chủng tộc khác, chẳng hạn như người Do Thái và da đen là phiên bản hiện đại của Neanderthal, sở hữu những phẩm chất thấp kém hơn. Nếu cho phép họ nhân giống, và đặc biệt là kết hôn với người Arya, họ sẽ kéo tụt tất cả các quần thể người và đẩy Homo sapiens đến chỗ tuyệt chủng.

Các nhà sinh học đã vạch trần thuyết chủng tộc của Đức quốc xã. Đặc biệt, nghiên cứu di truyền được tiến hành sau năm 1945 đã chứng minh rằng không có mấy sự khác biệt giữa các giống người so với những gì Đức quốc xã mặc nhiên công nhận. Nhưng những kết luận này còn tương đối mới. Với nền tảng của tri thức khoa học những năm 1933, niềm tin của Đức quốc xã hầu như không quá điên rồ. Sự tồn tại của các chủng tộc người khác nhau, tính ưu việt của chủng tộc da trắng, và sự cần thiết phải bảo vệ và nhân giống chủng tộc cao cấp này đã tồn tại rất phổ biến trong niềm tin của giới tinh hoa nhất phương Tây. Các học giả trong những trường đại học uy tín nhất của phương Tây, sử dụng các phương pháp khoa học chính thống vào thời đại đó, công bố các nghiên cứu được cho là đã chứng minh rằng những thành viên của chủng tộc da trắng là thông minh hơn, đạo đức hơn và giỏi chuyên môn hơn so với chủng tộc người châu Phi hoặc Ấn Độ. Các chính trị gia ở Washington, London và Canberra đương nhiên cho rằng đó là sứ mệnh của họ để ngăn chặn việc xâm nhập và thoái hoá của các chủng tộc da trắng, bằng cách như hạn chế nhập cư từ Trung Quốc hoặc thậm chí Italy tới các quốc gia “Arya” như Mỹ và Úc.

Các tôn giáo nhân văn – các tôn giáo sùng bái nhân tính

Chủ nghĩa nhân văn tự do Chủ nghĩa nhân văn xã hội chủ nghĩa Chủ nghĩa nhân văn tiến hoá

Homo sapiens có một bản chất độc đáo và thiêng liêng, khác hẳn với bản chất của các loài sinh vật và các hiện tượng khác. Sự tốt đẹp tối thượng chính là sự tốt lành của nhân tính.

“Nhân tính” mang nghĩa cá nhân và tồn tại trong mỗi cá nhân Homo sapiens. “Nhân tính” mang nghĩa tập thể và tồn tại bên trong loài Homo sapiens như một toàn thể. “Nhân loại” là một loài có thể bị biến đổi. Con người có thể bị suy thoái thành giống nòi kém cỏi hoặc tiến hoá thành những cá nhân siêu việt.

Điều răn tối thượng là bảo vệ cái lõi bên trong và sự tự do của mỗi cá nhân Homo sapiens. Điều răn tối thượng là bảo vệ sự công bằng trong thế giới Homo sapiens. Điều răn tối thượng là bảo vệ loài người khỏi sự thoái hoá thành những giống nòi kém cỏi, và khuyến khích sự tiến hoá của con người thành những cá nhân siêu việt.

Những nguyên tắc này không dễ dàng thay đổi chỉ vì nghiên cứu khoa học mới được công bố. Sự phát triển của xã hội học và chính trị học là những đầu kéo thay đổi mạnh mẽ hơn. Theo nghĩa này, Hitler không chỉ tự đào mộ cho mình mà còn tự đào mộ chôn chủ nghĩa phân biệt chủng tộc nói chung. Khi phát động Thế chiến II, ông ta đã khiến các kẻ thù của mình tạo ra sự phân biệt rõ ràng giữa “chúng ta” và “chúng nó”. Sau đó, chính vì hệ tư tưởng quốc xã là vô cùng kỳ thị chủng tộc, nên nó đã bị bài xích ở phương Tây. Nhưng thay đổi cần có thời gian. Người da trắng ưu việt vẫn là một hệ tư tưởng chủ đạo trong nền chính trị Mỹ, ít nhất cho đến những năm 1960. Chính sách của người Úc da trắng trong đó hạn chế nhập cứ đối với người da màu đến Úc vẫn có hiệu lực cho tới năm 1973. Thổ dân Úc đã không nhận được quyền lợi chính trị công bằng cho tới những năm 1960, và hầu hết đã bị ngăn cản đi bỏ phiếu trong các cuộc bầu cử vì họ bị coi là không phù hợp với vai trò công dân.

 

Hình 29. Một poster tuyên truyền của Đức quốc xã cho thấy phía trên bên phải là một “người Arya thuần chủng” và bên trái là một “con lai”.

Việc Đức quốc xã ngưỡng mộ cơ thể của con người là điều hiển nhiên, giống như nỗi sợ hãi của họ rằng những chủng tộc thấp kém hơn có thể làm ô uế và gây ra sự thoái hoá đối với loài người.

Đức quốc xã không thù ghét nhân loại. Họ chống lại chủ nghĩa nhân văn tự do, nhân quyền và chủ nghĩa cộng sản chính bởi họ khâm phục con người và tin tưởng vào tiềm năng to lớn của loài người. Nhưng theo logic tiến hoá của Darwin, họ lập luận rằng chọn lọc tự nhiên phải được phép loại bỏ những cá nhân không thích hợp, và chỉ để những cá nhân thích nghi tốt nhất được sống sót và sinh sản. Bằng việc giúp đỡ những cá thể yếu, chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa cộng sản không chỉ cho phép các cá nhân không thích hợp được tồn tại, mà còn cho họ cơ hội thực sự để sinh sản, do đó phá hoại chọn lọc tự nhiên. Trong một thế giới như vậy, những người thích nghi tốt nhất sẽ không tránh khỏi bị chết chìm trong một biển những cá thể thoái hoá không thích nghi được. Loài người sẽ trở nên kém thích nghi hơn qua từng thế hệ – cuối cùng có thể dẫn đến tuyệt chủng.

 

Hình 30. Một tranh vẽ của Đức quốc xã năm 1933. Hitler được diễn tả như một nhà điêu khác, người tạo ra các siêu nhân. Một trí thức tự do đeo kính đứng cạnh bàng hoàng trước bạo lực cần có để tạo ra siêu nhân. (Lưu ý sự vinh danh mang tính khơi gợi về cơ thể con người).

Một cuốn sách giáo khoa sinh học bằng tiếng Đức xuất bản năm 1942 giải thích trong một chương về “Các quy luật của tự nhiên và nhân loại”, rằng quy luật tự nhiên tối cao là tất cả các loài đang bị kiểm tỏa trong một cuộc đấu tranh không thương xót để giành giật sự sống. Sau khi mô tả cách thức các loài thực vật đấu tranh để giành lãnh thổ, cách thức loài bọ cánh cứng đấu tranh để tìm kiếm bạn tình, vân vân, cuốn sách kết luận:

Cuộc chiến sinh tồn thực sự khó khăn và không hề khoan nhượng, nhưng đó là cách duy nhất để duy trì sự sống. Cuộc chiến này loại bỏ mọi thứ không thích hợp với cuộc sống, và chọn ra mọi thứ có khả năng sống sót… Những quy luật tự nhiên là không thể đảo ngược; các sinh vật sống chứng minh các quy luật này bằng chính sự sống còn của mình. Chúng không hề khoan nhượng. Những kẻ chống đối lại chúng sẽ bị xóa sổ. Sinh học không chỉ cho chúng ta biết về động vật và thực vật, mà còn cho chúng ta thấy những quy luật cần tuân thủ trong cuộc sống này, và rèn giũa ý chí của mình để sống và chiến đấu theo những quy luật đó. Ý nghĩa của cuộc sống là một cuộc đấu tranh. Khốn thay cho những kẻ tội lỗi dám chống lại những quy luật này.

Tiếp theo đó là một trích dẫn từ Mein Kampf. “Người nào cố gắng chống lại logic sắt của tự nhiên, nghĩa là chống lại các nguyên tắc mà anh ta phải cảm ơn vì được sống như một con người. Chiến đấu chống lại tự nhiên là mang về sự hủy diệt cho chính mình”.

Vào buổi bình minh của thiên niên kỷ 3, tương lai của chủ nghĩa nhân văn tiến hoá rất mờ mịt. Đã 60 năm sau khi kết thúc cuộc chiến tranh chống lại Hitler, sự nối kết giữa chủ nghĩa nhân văn với tiến hoá và chủ trương dùng biện pháp sinh học để “nâng cấp” Homo sapiens vẫn là điều cấm kị. Nhưng ngày nay các dự án này đang thịnh hành trở lại. Không ai nói về khả năng tiêu diệt những chủng tộc thấp hèn hoặc những nhóm người kém cỏi hơn, nhưng rất nhiều người đang cố gắng vận dụng kiến thức sinh học ngày càng gia tăng về con người để tạo ra những siêu nhân.

Đồng thời, một hố sâu khổng lồ được mở ra giữa các nguyên lý của chủ nghĩa tự do cá nhân và những phát hiện mới nhất của khoa học đời sống, một hố sâu mà chúng ta không thể lờ đi được nữa. Hệ thống chính trị và tư pháp tự do của chúng ta được thành lập dựa trên niềm tin rằng mỗi cá nhân có một bản chất bên trong thiêng liêng, không thể phân chia và bất biến, mang lại ý nghĩa cho thế giới, và đó là nguồn gốc của tất cả các uy quyền đạo đức và chính trị. Đây là một hoá thân của niềm tin Ki-tô truyền thống rằng có một tâm hồn tự do và vĩnh cửu ẩn giấu trong mỗi cá nhân. Tuy nhiên, trong hơn 200 năm qua, khoa học đời sống đã tàn phá triệt để niềm tin này. Các nhà khoa học nghiên cứu hoạt động bên trong cơ thể con người không tìm thấy linh hồn đó. Càng ngày, họ càng cho rằng hành vi của con người được xác định bởi các hoóc-môn, gen và khớp thần kinh, chứ không phải là ý chí tự do – chính những sức mạnh này cũng xác định hành vi của tinh tinh, chó sói, và kiến. Hệ thống tư pháp và chính trị của chúng ta đã rất nỗ lực để chôn giấu những khám phá bất tiện dưới tấm thảm. Nhưng thật thà mà nói, liệu chúng ta có thể giữ vững bức tường ngăn cách giữa ngành sinh học với ngành luật và khoa học chính trị bao lâu nữa?