Resident Evil 0 - Giờ Hành Động

Chương 5

Dịch giả: Lioncoeur

William Birkin vội vã đi ngang khu vực xử lý nước, hướng tới phòng điều khiển B ở tầng hầm thứ nhất, tiếng bước chân dội lại trong lòng hành lang làm lão rợn tóc gáy. Chỗ này lạnh lẽo và chết chóc y như một hầm mộ - theo lẽ thì nó không hề giống chút nào, ngoại trừ việc lão biết rằng có những thứ đang đi lang thang phía sau mấy cánh cửa mà mình vừa đi qua, rằng lão đang bị bao quanh bởi đủ loại dạng thức sống. Không hiểu sao, những tiếng vọng phát ra theo mỗi bước chân làm lão có cảm giác như đang vụng trộm, giống như tiếng ai đó đang gào thét trong nhà xác.

Thật sự là vậy. Họ còn chưa chết. Đồng nghiệp mình, bạn của mình…

Tỉnh lại đi. Nên nhớ là họ đều biết chuyện này có thể xảy ra, tất cả bọn họ. Suy cho cùng, đó là điều may mắn tồi tệ nhất.

Điều may mắn tồi tệ, cho tất cả họ. Lão và Annette đã ở trong khu nghiên cứu dưới thành phố lúc xảy ra vụ rò rỉ, đang hoàn tất việc thống kê chất tổng hợp mới.

Lão đến chỗ cầu thang nằm sau lưng khu B4 và bắt đầu leo lên, tự hỏi liệu Wesker có đang chờ mình không. Hẳn nhiên rồi. Birkin đã đến muộn vì không muốn rời khỏi công việc của mình chút nào, trong khi Albert Wesker là một kẻ kỹ tính và luôn đúng giờ. Một quân nhân. Một nhà nghiên cứu. Một kẻ mắc chứng rối loạn nhân cách chống xã hội.

Và có lẽ là kẻ duy nhất. Có lẽ chính hắn đã gây ra vụ này. Hoàn toàn có thể. Lòng trung thành chẳng là cái đinh gì với Wesker, và Birkin biết hắn đang tìm cách thoát ly khỏi Umbrella, mặc dù đã làm việc cho tập đoàn này một thời gian dài. Có điều, hai mươi năm quen biết Wesker đã dạy cho Birkin một điều, rằng gã này chẳng ngu tới mức tự mình hại mình. Nếu Wesker đã gây ra vụ tai nạn, hắn nhất định không quanh quẩn ở đây để chờ xem chuyện gì sẽ xảy ra kế tiếp.

Birkin leo đến đỉnh những bậc thang, quẹo cua rồi lại leo lên tiếp. Thang máy vẫn hoạt động, nhưng lão không dám liều. Ở đây đâu có ai giúp lão nếu gặp sự cố. Không ai ngoài Wesker, mà theo lão đoán, tay lãnh đạo đội S.T.A.R.S. đó đã về nhà rồi.

Trên đỉnh của dãy cầu thang thứ hai, Birkin nghe có tiếng động nhẹ phía sau cánh cửa dẫn tới tầng hầm thứ hai. Lão dừng bước, tưởng tượng ra những linh hồn khốn khổ đang nện vào cửa từ phía bên kia, không chừng đang dộng liên hồi cả thân hình vào đó một cách vô vọng, với mong muốn được giải thoát. Khi vụ lây nhiễm được phát hiện, những cách cửa bên trong tự động khóa trái, nhốt hầu hết các nhân viên bị nhiễm và các đối tượng thí nghiệm sổng chuồng. Lối đi chính khá an toàn, ít nhất là đến chỗ phòng điều khiển.

Birkin liếc qua đồng hồ, tiếp tục leo lên. Lão không muốn lỡ hẹn với Wesker, nếu như hắn vẫn còn ở đây.

Vậy nếu Wesker không làm chuyện này thì ai? Bằng cách nào? Tất cả đều cho đây là tai nạn; lão cũng vậy, cho đến cách đây vài giờ, khi Wesker gọi cho lão về đoàn tàu. Thêm một tai nạn nữa là điều khó tin. Có Chúa mới biết bao nhiêu người muốn phá hoại Umbrella, nhưng để khám phá được đường ngầm dẫn vào bất cứ một phòng thí nghiệm nào ở Raccoon đâu phải chuyện dễ.

Nếu… Wesker đã nói công ty muốn có dữ liệu thực sự về virus, không phải mô phỏng mà là thực hành đàng hoàng; biết đâu chính bọn họ đã làm rò rỉ, rồi gởi một đội quân đến để dọn dẹp những thứ chưa được dọn dẹp.

Hoặc có thể đây là kế hoạch của bọn nó để chiếm G-Virus. Gây ra hỗn loạn, rồi lẻn vào để đánh cắp.

Birkin nghiến răng. Đừng hòng. Bọn chúng còn chưa biết rằng lão đã đến rất gần, và sẽ không biết cho tới khi lão đã chuẩn bị xong xuôi. Lão đã giữ lấy những thứ bí mật để phòng ngừa, còn Annette đã hối lộ các giám sát viên để chúng lặn mất. Đã không ít lần, lão chứng kiến cảnh công ty giành lấy thành quả của một nhà khoa học chỉ vì muốn có kết quả tức thời, giao nó cho kẻ khác… và có ít nhất hai trường hợp mà tác giả của công trình nghiên cứu bị ám sát, để người đó không thể chuyển sang làm việc cho đối thủ cạnh tranh.

Không phải với ta. Không phải với G-Virus. Nó là thành quả cả đời của lão, thà lão tự tay hủy diệt nó còn hơn bị chiếm đoạt.

Lão đã đến phòng điều khiển, thực ra là một nơi dùng để giám sát, nó sử dụng chung không gian với hệ thống phát điện dự phòng của toàn khu vực, thật may là hiện tại khá yên lặng. Đèn đã tắt, nhưng khi vòng qua lối đi hẹp có mặt sàn dạng lưới, lão thấy Wesker đang ngồi trước màn hình giám sát, cái lưng nổi bật lên dưới ánh sáng màn hình. Như thường lệ, Wesker vẫn đeo kính râm, một điều luôn làm Birkin có cảm giác bị ức chế; gã vốn có thể nhìn được trong bóng tối.

Trước khi lão lên tiếng, Wesker đã vẫy tay gọi lão mà không thèm ngoảnh mặt lại.

”Nhìn này.”

Giọng hắn đầy vẻ uy quyền và thúc giục. Birkin nhanh chóng đến bên cạnh, tựa người vào bảng điều khiển để xem thứ đã làm Wesker quan tâm.

Sự chú ý của lão tập trung vào một khung cảnh ở khu huấn luyện, có lẽ là nơi lưu trữ phim ở tầng hai. Một thực tập viên đang đi lang thang quanh phòng, hiển nhiên đã bị nhiễm, đồng phục của gã lấm đầy máu và những chất dịch; trông gã ướt nhẹp, nhưng Birkin không nhận thấy có gì là khác thường cả.

”Tôi đâu có thấy –“ lão lên tiếng, nhưng Wesker đã ngắt lời.

”Chờ đã.”

Birkin quan sát gã thanh niên - một thanh niên không bao giờ già thêm nhờ có T-Virus – đang vấp vào cái bàn nhỏ nằm dọc phòng, rồi quay mình đi trở lại phía dãy máy tính, loạng choạng chẳng khác gì những vật chủ bình thường, mọi cử động của gã đều nằm trong phạm vi máy quay. Ngay khi lão vừa tính hỏi hắn định xem cái gì, thì lão trông thấy.

”Đó,” Wesker nói.

Birkin chớp mắt, không dám tin vào thứ vừa thấy. Lúc quay về phía dãy máy tính, tay của gã thanh niên kéo dãn ra, mỏng mảnh, vươn dài gần như hết chiều dài phòng, rồi thu lại như cũ. Mọi việc diễn ra chỉ trong một giây.

”Đây là lần thứ ba trong khoảng nửa giờ đồng hồ,” Wesker nói khẽ.

Tay thực tập viên vẫn tiếp tục đảo quanh căn phòng nhỏ, trở lại giống y như các nạn nhân vật vờ trong những màn hình khác.

”Một thí nghiệm mà chúng ta không biết tới ư?” Birkin ngờ vực hỏi. Cả hai đã bám trụ lâu hơn bất cứ ai ngoài bộ phận đầu não, thế mà vẫn không biết gì về việc này.

”Không.”

”Đột biến ư?”

”Cái này để ông trả lời mới đúng, ông là nhà khoa học mà,” Wesker đáp.

Birkin nghĩ ngợi một thoáng, rồi lắc đầu. ”Tôi nghĩ là có khả năng, nhưng… Không, tôi nghĩ không thể nào.”

Họ lặng lẽ quan sát thêm tên lính, nhưng gã chỉ tiếp tục băng ngang căn phòng; không có gì vươn dài hay biến đổi cả. Birkin không biết chính xác họ vừa chứng kiến cái gì, nhưng lão không thích cái đó chút nào. Trong những chuỗi phương trình phức tạp đã làm nên cuộc đời của lão, giữa công việc và gia đình, giữa thảm họa ở Raccoon và giấc mơ tạo nên loại virus hoàn hảo của lão, chuyện này thật không sao hiểu nổi. Một thứ gì đó rất mới mẻ.

Có tiếng sóng vô tuyến phá vỡ sự yên tĩnh, một giọng nam không rõ của ai vang lên. ”Ước tính đến nơi trong mười phút nữa. Hết.”

Chắc là đội thu dọn của Umbrella, về vụ đoàn tàu. Lúc gọi cho lão, Wesker có nói họ đang lên đường. Wesker nhấn nút. ”Xác nhận. Báo cáo khi nào tiếp cận mục tiêu. Hết.”

Hắn nhấn nút lần nữa, rồi cả hai quay lại quan sát tên lính vô danh, người nào cũng theo đuổi những suy tưởng riêng. Lão không biết ý Wesker thế nào, nhưng lão thì bắt đầu nghĩ nên trốn khỏi Raccoon là vừa.

oOo

”Rebecca.”

Cô ta không đáp lời mà cũng chẳng quay lưng, chỉ hạ vũ khí xuống. Billy ước mình có thể nói gì đó, nhưng rồi quyết định tốt hơn nên im lặng. Tình cảnh quá rõ ràng; người đàn ông nằm dưới sàn mặc quân phục S.T.A.R.S., có lẽ là bạn, và anh ta đã bị nhiễm.

Anh để cô yên tĩnh một lát, nhưng có lẽ khó mà chờ thêm nữa. Anh không chắc lắm, nhưng đoàn tàu dường như đang tăng tốc. Nếu cứ chạy như vậy, họ sẽ đối mặt với một vụ va chạm và không chừng bị mất mạng. Nếu có người đang điều khiển nó, họ cần biết đó là ai và tại sao.

”Rebecca,” anh lại gọi, lần này cô quay lại, đưa tay quệt nước nước mắt không chút e dè. Cô nhìn anh và chớp mắt.

”Có phải anh vừa nổ súng vài phút trước?”

Billy gật đầu, tính nặn ra một nụ cười mà không được. ”Một con bọ quái vật. Còn cô?”

”Chó,” cô đáp, rồi lau nốt chút nước mắt còn vương lại. ” Và… và một người tôi từng biết.”

Anh cựa mình một cách khó nhọc, cả hai cùng im lặng một thoáng. Rồi cô thở dài, vén mái tóc đang phủ ngang trán. ”Nói với tôi là anh tìm được thẻ đọc đi,” cô nói.

”Một thứ tương tự,” anh nói, tay giơ khẩu súng săn lên.

”Không được đâu,” cô nói, và lại thở dài. ”Nó có khóa từ tính, kiểu giống như của kho bạc ngân hàng.”

”Ngay trong khoang hành khách à?” Billy hỏi.

Rebecca nhún vai. ”Thì cái này thuộc sở hữu tư nhân mà. Của Umbrella.”

Tập đoàn dược phẩm. Bị ám ảnh bởi phiên tòa và bản tuyên án, nên Billy đã không nghĩ đến nơi mà anh sẽ bị hành quyết, giờ thì anh đã nhớ ra – Thành phố Raccoon, nơi gần nhất trong khu vực này có thành phố chính, là nơi siêu tập đoàn đã khởi nghiệp.

”Họ có xe lửa riêng à?”

Rebecca gật đầu. ”Mọi thứ quanh đây là của Umbrella. Văn phòng, nghiên cứu dược phẩm, phòng thí nghiệm…”

Hôm nay bọn tôi đã được biết về phòng thí nghiệm Arklay… và chúng tôi sẽ được gởi đến đó để kiểm tra vào tuần tới. Rừng Raccoon, Thành phố Raccoon, đều náu mình trong phạm vi núi Arklay.

Ý nghĩ của Rebecca cũng không khác mấy. ”Có phải anh nghĩ- “

”Tôi không biết nữa,” Billy nói. ”Dù gì thì bây giờ cũng chẳng thành vấn đề. Chúng ta vẫn phải mở được cái cửa đó.”

Cô quay về phía đoạn trước của đoàn tàu, dường như để suy nghĩ cho chính xác hơn, có lẽ nhờ không nhìn thấy người bạn của mình nữa. Cô nhìn xuống sàn, hạ giọng.

”Có một thi thể sau cửa, một người nam tay giữ chìa khóa.” cô nói. ”Không chừng nó mở được chỗ nào đó.”

”Chờ đây nhé,” Billy nói. Anh bước qua cạnh cô và tiến tới trước, dừng lại cuối hành lang. Cái xác hư hại của một nhân viên tàu đang nằm gục vào cánh cửa, chính là cái mà Rebecca cúi xuống lúc hai người gặp mặt lần đầu. Người đó vẫn đang nắm chặt chiếc chìa khóa bằng kim loại trong bàn tay cứng còng. Billy gỡ ra, giơ cao chìa khóa dưới ánh đèn lờ mờ. Có một cái nhãn đi kèm, ghi chữ TOA ĂN.

Cực kỳ hữu dụng, cám ơn rất nhiều. Anh ngả cái xác xuống, mất khoảng một phút để lục tìm trong áo khoát, thu được một bó thẻ và cả nắm kẹo bạc hà trong túi trước… Và túi bên kia, là vài cái chìa khóa gắn chung một chùm. Hai chiếc không đính nhãn, nhưng chiếc thứ ba có chữ TRƯỞNG TÀU được khảm vào kim loại. Billy nhét hết vào túi, rồi sau khi nghĩ ngợi một chốc, anh quỳ xuống, cẩn thận cởi bỏ áo khoác của cái xác, cảm giác tiếp xúc với lớp thịt nhớp nháp và lạnh ngắt khiến anh nhăn mặt lại. Nạn nhân khốn khổ ấy không có vẻ gì là nhiễm virus, ngoại trừ việc bị một hoặc nhiều người táp bằng răng; trông ông ta như một đống bẩn thỉu, mặt và tay bị mất nhiều mảng da lẫn thịt to tướng.

Billy quay lại chỗ Rebecca đang đứng, dùng áo khoác để phủ lên xác của người lính S.T.A.R.S.. Nó chỉ đủ che kín mặt và nửa thân trên, nhưng dù gì cũng giúp cô gái lấy lại tinh thần. Cô gật đầu tỏ vẻ biết ơn khi anh bước đến, nhưng không nói gì thêm.

”Cái chìa cô nói xài cho toa ăn, nơi mà chúng ta đã vào rồi,” anh nói, và rút chùm chìa khóa ra khỏi túi. ”Nhưng còn mấy cái này có thể có tác dụng.”

Họ đang đứng gần cánh cửa có gắn biển cho biết là phòng trưởng tàu. Billy kéo chiếc chìa có đánh dấu ra. Cùng với cái gật đầu của Rebecca, anh cắm nó vào lỗ khóa, mở ra một cách dễ dàng. Billy nâng súng lên trước khi đẩy cửa, sẵn sàng bắn bất cứ thứ gì không thông báo danh tính một khi họ chạm trán.

Không có gì cả. Billy thở phào nhẹ nhõm rồi bước vào trong. Rebecca dừng bước nơi ngưỡng cửa, súng hờm trong tay, mắt nhìn xuống cái bàn nhỏ vung vãi giấy tờ. Cô bới nó lên trong lúc Billy lục lọi xung quanh.

”Lịch hẹn, thư từ,… Có một thứ gọi là ‘Hướng dẫn thực hành đòn Hookshot,’” Rebecca nói. ”Biên bản bảo trì, ghi chú về khóa nhẫn, đại loại thế, mẫu đặt hàng nhà bếp…”

Billy mở cửa căn buồng nhỏ trong lúc Rebecca tiếp tục lục tung mớ hỗn độn trên bàn. Có vài chữ ký, bưu thiếp, và biên bản được đính vào mặt sau cánh cửa, sổ cái, một cái cặp có khóa, Billy nhón lấy cái cặp, lắc mạnh. Có thứ gì đó rất nhẹ kêu lục cục bên trong; biết đâu là tấm thẻ đọc? Không giống lắm, nhưng hy vọng thì đâu có sao.

Anh kiểm tra chỗ khóa, khẽ cau mày. Không có lỗ nào để cắm chìa, ngoại trừ một khối lõm vào đằng trước, dạng hình tròn, Anh thử lắc nhẹ chốt, thấy nó đã khóa kín. Có thể bứng cái này ra, nhưng nó được làm bằng vật liệu khá bền, nên sẽ tốn nhiều thời gian hơn mức cần thiết…

”Cô vừa nói về khóa nhẫn à?” Anh hỏi.

Rebecca đẩy mớ giấy qua một bên. ”Ah… Đây. Chỉ là một bản viết tay, ghi ‘Cách truy cập phòng hờ (Nguyên văn – Means of access in case), khóa nhẫn được tách ra, hai mảnh.’”

Phòng hờ cái gì? Anh đang định nhún vai thì cảm thấy một cơn phấn khích chạy qua người. In case còn có nghĩa là trong cặp. Tấm thẻ đọc dứt khoát đang nằm trong cặp. Anh nhìn kỹ cái lỗ khóa, thình lình nhớ lại chiếc nhẫn bạc khác thường tìm thấy trên cầu thang, trước khi đụng độ con quái vật bò cạp. Bề mặt lỗ khóa có vết khắc y như trên mặt nhẫn.

Nhưng nó còn ghi là hai mảnh, và-

”À, tôi có tìm được một chiếc nhẫn ở chỗ đuôi tàu,” Rebecca nói. Billy nhìn lên khi Rebecca kéo cái nhẫn vàng ra khỏi ngón trỏ, hiểu ngay rằng nó chính là mảnh còn lại.

”Tôi nghĩ chúng ta đã thắng,” Billy vừa nói vừa nở nụ cười, một nụ cười thật sự kể từ khi… từ khi nào anh cũng chẳng nhớ nổi. Thể nào cũng có radio trong phòng máy, và bảng điều khiển, không chừng có cả bản đồ chỉ cách thoát khỏi khu rừng.

Gần như chắc chắn họ sẽ thoát được, anh tin chắc vậy.

Anh không nghĩ thêm gì nữa.

oOo

Ai đó đã khởi động cái đoàn tàu chết tiệt. Có khả năng là một nhân viên vẫn còn sống, nhưng Wesker nghiêng về giả thiết là có một vật chủ loạn óc bị té vào bảng điều khiển. Dù thế nào thì phi công của chiếc trực thăng cũng chẳng bị ảnh hưởng, chẳng qua nó chỉ làm chậm thời gian tiếp cận một chút. Thì giờ là vàng bạc; vì nếu không được dừng lại, chuyến tàu sẽ đâm thẳng vào trung tâm huấn luyện, sẽ va chạm nếu không có người điều khiển, và là thứ hay ho nhất thu hút sự chú ý của cả một khu vực bị lây nhiễm đang khoanh vùng.

”Chúng tôi đang triển khai. Hết.”

Wesker chờ đợi. Hắn có thể nghe thấy tiếng trực thăng trên mặt đất, tiếng thả dây vun vút trong gió. Hắn ước gì mình cũng ở đó, đặt chân lên đoàn tàu chết tiệt khi nó đang tăng tốc lao đi trong màn đêm giông bão, vũ khí lăm lăm, với lũ nhiễm bệnh biết đi đang chờ được nằm xuống thành từng khối xương thịt tung tóe…

Birkin ngắt ngang giấc mộng đẹp của hắn, giọng lão đầy vẻ lo lắng trong lúc vươn bàn tay tái nhợt ra che microphone. ”Có chắc đây là virus không? Ý tôi là, liệu chúng ta có đang đối mặt với một vụ dàn cảnh, hoặc… hoặc là lỗi kỹ thuật? Tức là, chúng ta có bảo đảm được rằng nhóm này được gởi đến để thu xếp đoàn tàu?”

Wesker ngấm ngầm thở dài. William Birkin là một kẻ thông minh, nhưng luôn bị chứng hoang tưởng ám ảnh. Cái ý tưởng của lão thật trẻ con quá sức, khi cho rằng Umbrella đang muốn cuỗm lấy thành quả của lão.

”Chúng ta chắc chắn,” hắn đáp. ”Còn có thể là gì khác ngoài virus?”

Birkin hất đầu về phía màn hình, nơi có gã lính với cánh tay vươn dài. ”Có lẽ để làm chuyện gì đó với thứ này.”

Wesker nhún vai. Hẳn là một sự đột biến. Khác thường, nhưng thật khó tin nổi. ”Tôi không nghĩ vậy. Đừng lo, William. Không ai ở cấp cao biết về thứ G-Virus xuất sắc của ông đâu.” Không hoàn toàn, nhưng lúc này Wesker không rảnh để đi làm cái chuyện trấn an tinh thần. ”Còn vụ đoàn tàu… có lẽ T-Virus là quá đủ để giải thích cho những thắc mắc.”

Trông Birkin có vẻ chưa chịu tin. Cũng chẳng có gì kinh ngạc, vì Wesker cũng vậy. Nếu vụ lây lan trên đoàn tàu mà là tai nạn, hắn sẵn sàng đi đầu xuống đất.

”Biệt thự, phòng thí nghiệm, rồi đoàn tàu… Là ai đã làm?” Birkin khẽ hỏi. ”Và tại sao chứ?”

Một người trong cặp dọn dẹp lên tiếng. ”Chúng tôi đang xuống. Hết.” Rồi tiếng vù vù của cánh quạt trực thăng nhỏ dần, thay vào đó là tiếng rầm rập của đoàn tàu đang di chuyển.

Đến lúc rồi. ”Xuất sắc,” Wesker nói, rồi lấy tay che microphone lại để trả lời Brikin.

“Giờ không phải lúc để hỏi chuyện đó. Vấn đề là phải giải quyết việc này cho êm xuôi, không để nó lan rộng thêm nữa. Đoàn tàu phải bị phá hủy. Mọi bằng chứng phải bị tiêu hủy, William, chắc ông cũng hiểu điều đó. Không có vấn đề gì ở đây cả. Ông đừng gây thêm rắc rối.”

Hắn thả tay khỏi microphone. ”Các anh cách chi nhánh gần nhất bao xa? Hết”

”Không đầy mười phút, gần như – “

Wesker chờ, nhưng chỉ nghe thấy tiếng sóng vô tuyến. ”Sao? Nghe rõ trả lời? Hết”

Có tiếng rít the thé đáp lại, nghe muốn bể màng nhĩ. Wesker giật bắn người, nhìn thấy Birkin cũng nhăn mặt trước tiếng ồn –

- và có tiếng thét, cả hai người vừa lên tàu cùng thét liên hồi.

”Lạy Chúa, cái gì – “

”Chúa ơi!“

”Lôi nó ra khỏi tôi! Lôi nó ra!”

”Không! Khônggg! Khôngg!”

Có nhiều tiếng súng tắc nghẽn vang lên, bị át đi bởi tiếng gào đau đớn kinh hoàng - rồi mọi thứ im bặt, chỉ còn lại tiếng sóng vô tuyến.

Wesker nghiến chặt hàm răng, trong lúc Birkin sợ đến nỗi đánh bò cạp. Có vẻ như rốt cuộc cũng đã có vấn đề.

oOo

Cả hai đang đứng trước cánh cửa bị khóa, Rebecca cầm tấm thẻ đọc, cảm thấy chiến thắng này không hề tương xứng với những gì đã làm. Không biết có phải cô đã bị vắt kiệt hết cảm xúc không, nhưng quả thật nó chẳng phải là rắc rối gì lớn cho lắm, họ tìm được một cặp nhẫn, mở được chiếc cặp. Dù sao, cô cũng có cảm giác như họ vừa giải được bài toán về tượng Nhân sư Ai Cập.

Billy nhắc cô mau mở cửa, trong lúc hơi nghểnh đầu lên, vẫn đang nghe ngóng. Anh ta thề là đã nghe thấy tiếng trực thăng bên ngoài lúc họ chia ra đi tìm chiếc nhẫn, và có ai đó đã gào thét ngay sau đó. Rebecca lại chẳng nghe thấy gì cả. Anh ta hẳn cũng đang khó ở y như cô, nếu xét đến vấn đề –

- vấn đề là anh ta đang trên đường bị áp giải tới pháp trường. Cho nên đừng có so sánh. Dù có làm gì để giúp mày đi nữa, anh ta vẫn là kẻ thủ ác. Quên điều đó có thể phải trả giá bằng tính mạng.

Phải. Một khi cô tìm được phương tiện liên lạc, sự hợp tác giữa họ sẽ chấm dứt. Cô quét tấm thẻ qua khe đọc, tia sáng đỏ chuyển sang màu xanh. Cánh cửa kêu đánh tách một cái, và Billy mở nó ra.

Cánh cửa mở ra một lối đi có một phần lộ thiên, giữa tiếng tàu chạy gầm thét. Gió và sương mù táp vào mặt họ khi cả hai bước ra. Bên phải là một cái rương dụng cụ bị khóa, chạy dọc suốt chiều dài toa; bên trái chỉ có mỗi cái tay vịn và màn đêm hung tợn trôi qua vùn vụt. Ngay đằng trước là một toa tàu khác, có lẽ đầu tàu, thật khó nói chính xác trong bóng tối. Rebecca nắm lấy tay vịn khi thấy đoàn tàu chạy như bay trên đường ray, và –

Ôi.

Rebecca ngập ngừng, còn Billy tiến lên trước vài bước, khuỵu xuống bên cạnh một người đang nằm, không rõ nam hay nữ. Người thứ hai nằm cách đó chừng một mét; cả hai đều mang phục trang dùng để chiến đấu, khuôn mặt của họ được che phủ bởi cặp kính nhìn ban đêm.

Đội S.W.A.T. à? Họ lên đây hồi nào? Sao chỉ có hai người? Khi lại gần, cô thấy trên người cả hai đều có chất lỏng phát sáng, giống như cái thứ nhớp nháp đậm đặc mà lũ đỉa ở toa ăn để lại… còn trang bị của họ, loại dệt thép hiệu Kevlar, không có ghi ký hiệu. Không phải Sở cảnh sát Raccoon, cũng không phải quân đội.

Billy thì đang quan sát bức tường mắt lưới bên phải. Rebecca nhìn theo, phát giác đó là một thứ trông như cái lưới khổng lồ bám chắc vào cửa, treo lủng lẳng hàng ngàn cái kén trắng nhờ nhờ.

Trứng. Của lũ đỉa.

Rebecca rùng mình trong khi Billy đứng dậy, khẽ lắc đầu. Anh ta gần như phải hét lên giữa tiếng tàu chạy ồn ào.

”Không xong! Họ chết rồi!”

Rebecca đã chuẩn bị tâm lý trước, nhưng vẫn khó mà nuốt trôi sự thật đó. Cô bước qua và tự kiểm tra các thi thể xem có còn chút dấu hiệu nào của sự sống, chợt chú ý thấy có sự xuất huyết trên lớp da xanh xao. Billy nói đúng… và có lẽ cũng đúng về việc có nghe thấy tiếng thét. Hai cái xác vẫn còn âm ấm bất chấp cơn mưa,

Rebecca đứng lên nắm lấy tay vịn, nối bước Billy đi vào toa kế. Cô đang nghĩ không biết họ sẽ phải làm gì nếu cái cửa đó khóa, thì Billy đã đẩy nó ra.

Họ tránh xa cơn mưa để vào một khoang điều khiển tương đối nhỏ, sạch sẽ và ngăn nắp, nếu không tính đến một lớp mỏng cái chất phát sáng đang bao phủ bàn điều khiển đằng trước. Tiếng ồn ào vụt im bặt khi Rebecca đóng cánh cửa sau lưng lại, nhưng cô không chú ý tới điều đó bằng những ánh đèn đỏ nhấp nháy trên cái bàn điều khiển phát sáng.

Billy bước tới để nghiên cứu cái bảng điều khiển phức tạp một hồi, rối ấn lên một phím nằm trước cái màn hình nhỏ, nhưng nó vẫn im lìm. Anh quay lại nhìn cô một cách bất lực.

”Bị khóa,” anh nói.

Rebecca rút thẻ đọc ra khỏi túi. Không thấy mặt nào có ghi số cả, nên họ chẳng biết phải nhập cái gì vào. Cô đến bên cạnh anh, cố gắng phớt lờ tiếng mưa đập lên kính chắn gió và hình bóng chập choạng của khu rừng bên ngoài, rồi nhấn vài phím. Cảm giác như bàn phím bị khóa, vì chúng hoàn toàn không có vẻ gì là bị hỏng. Cô bắt đầu tìm thử coi có thứ gì ghi chữ KHẨN CẤP không.

”Nhìn này,” Billy nói, vói tay lên cái cần gạt nằm bên cạnh anh ta. Khi anh kéo nó, màn hình vi tính xuất hiện một loạt chữ chạy ngang.

THẮNG KHẨN CẤP - THIẾT BỊ ĐẦU VÀ ĐUÔI PHẢI ĐƯỢC KÍCH HOẠT TRƯỚC KHI THẮNG. PHỤC HỒI NĂNG LƯỢNG CHO THIẾT BỊ ĐUÔI?

Chính là bảng điều khiển cô đã thấy ở đuôi tàu. Billy nhanh chóng nhấn YES.

NĂNG LƯỢNG Ở THIẾT BỊ THẮNG ĐUÔI ĐÃ PHỤC HỒI.

”Ơn Chúa,” Rebecca nói. ”Dừng nó lại đi,” Đoàn tàu có vẻ đi nhanh hơn bao giờ hết, tiếng động cơ rầm rập nghe lớn hơn trước, lớn đến phát sốc.

Billy kéo cần. Nó chạy khá êm, rất êm, và thêm nhiều chữ hiện trên màn hình

PHẢI KÍCH HOẠT THẮNG ĐUÔI TRƯỚC KHI SỬ DỤNG THẮNG KHẨN CẤP.

”Chắc điên quá,” Billy cong môi lên. ”Không thể sử dụng thắng khẩn cấp trong phòng điều khiển sao?”

”Theo đúng thì được, chỉ là chúng ta không có quyền truy cập,” Rebecca nói. ”Chắc phải làm thủ công… Tôi có thấy thiết bị ở đuôi, ở phía sau toa cuối cùng. Tôi sẽ tới đó.”

Billy lắc đầu và nhìn ra màn đêm trôi vùn vụt bên ngoài. ”Không, để tôi. Không phải muốn coi thường cô, nhưng tôi nghĩ mình chạy nhanh hơn. Tìm xem nó có hệ thống liên lạc nào không? Tôi sẽ thông báo cho cô một khi hoàn tất.”

Hai người bắt đầu dò kiếm, nhưng bảng điều khiển quá phức tạp với hàng lô công tắc và bảng mạch, nên không biết chừng nào mới mò ra. Rebecca tính bảo anh ta thôi thì cứ chạy bộ vậy - với tốc độ chuyến tàu như vầy thì chạy chắc phải nhanh hơn bình thường – thì sực nhớ tới Edward.

”Bộ đàm của Edward,” cô nói. ”Anh ấy giữ nó trước khi - chắc nó vẫn còn trên mình anh ấy.”

Billy quay người đi về phía cửa. ”Tôi sẽ lấy nó dọc đường đi.”

”Cẩn thận,” cô nói.

Anh gật đầu, một lần nữa đưa mắt nhìn ra cửa sổ. ”Chuẩn bị sẵn sàng để thắng nhé. Tôi có cảm giác là chúng ta nhất định sẽ sớm dừng lại thôi, không kiểu này thì kiểu kia.”

Anh mở cửa, tiếng tàu ầm ĩ dội vào trong, và rồi đi mất.

Từng giây trôi qua. Rebecca đã chuẩn bị sẵn bộ đàm, và tay đặt lên cần gạt, mắt nhìn ra màn đêm lao vùn vụt bên ngoài. Đoàn tàu đang chạy rất nhanh theo một đường cong và cô nhắm chặt mắt lại, cầu cho cái thứ mất kiểm soát này còn nguyên trên đường ray, trong đầu tưởng tượng ra cảnh bánh xe cất lên rồi hạ xuống đường rãnh. Billy nói đúng; thế nào rồi họ cũng sẽ dừng lại, không kiểu này thì kiểu kia.

Sao lâu quá vậy? Chỉ mới có vài phút, nhưng như vậy là đủ lâu rồi. Cô chộp lấy bộ đàm, nhấn nút.

”Billy, tôi đây. Tình hình anh sao rồi. Hết.”

Không có gì cả.

”Billy?” Cô chờ, đếm từ từ đến năm, tim bắt đầu đập thình thịch. Cô có thể thấy đoạn đường cong thứ hai đang đến. ”Billy, tôi đây.”

Chết tiệt! Có thế anh ta không tìm được bộ đàm, hoặc đã quên bật nó lên. Hoặc có trục trặc với bộ điều khiển, anh ta không thể kích hoạt thiết bị.

Hoặc có thể anh ta đã chết. Bị một thứ gì đó chộp được.

Đoàn tàu lướt đi theo đường cong, và lần này thì khỏi phải tưởng tượng. Nó nghiêng đi một cách nặng nề, rồi lao đi còn nhanh hơn khi lấy lại thăng bằng, rồi lại nuốt lấy một đoạn đường cong nữa. Cô phải tự mình quay lại, không còn thì giờ nữa, nhưng đâu có cách nào khác –

”Rebecca, thắng đi!”

Rebecca thấy có bóng mờ vụt qua bên phải, chuyến tàu đi nhanh đến độ cô không biết nó là cái gì đến khi đã chạy qua – là một sân ga. Sân ga, tức là thứ duy nhất còn lại mà đoàn tàu này có thể vượt qua, nghĩa là có lẽ đã quá muộn.

”Giữ chắc!” cô hét vào bộ đàm, kéo mạnh cần gạt hết mức có thể, và có thứ gì đó ập tới cửa sổ trước, tối hơn cả màn đêm, một đường hầm. Hệ thống phanh đang hoạt động, kêu rít lên trong lúc đoàn tàu chồm vào bóng tối, đâm qua những rào chắn mỏng manh, gỗ bắn tung tóe ngoài kính chắn, rồi nghiêng đi lần nữa, lần này nó không lấy lại được thăng bàng.

Rebecca nghe thấy tiếng la của chính mình hòa trong tiếng tàu lật nghiêng, tiếng kim loại bị xé toạc, điện xẹt tứ phía như pháo bông dưới địa ngục. Vách tàu trở thành mặt sàn, và Rebecca té dúi vào đó trong lúc đoàn tàu đâm sầm vào một thứ rất cứng, rồi đèn đóm tắt phụt.