Rắc rối với ngày valentine

Chương 2

Hồi mới mười ba tuổi, thi thoảng Kate hay đến thị trấn Gospel, Idaho chơi. Là một đứa trẻ, cô rất thích đi bộ trong những khu bảo tồn hoang dã và bơi ở hồ Fish Hook. Cô yêu thích làm phụ việc ở M&S Market, tiệm tạp hóa nhở của ông bà. Nhưng khi trở thành thiếu nữ, việc quanh quẩn bên ông bà không còn hay ho nữa, thế nên cô chỉ đến thăm trong những dịp rất hiếm hoi.

Lần gần đây nhất Kate đến Gospel là để dự đám tang bà. Ngẫm lại, chuyến đi đó chỉ là một ký ức đau buồn.

Chuyến đi này không còn đau buồn như thế. Nhưng khoảng khắc nhìn thấy ông, cô biết sẽ không có gì ngăn cô ở lại.

Stanley Caldwell mở một tiệm tạp hóa bán thực phẩm. Ông mổ thịt tươi và mua các sản phẩm tươi sống dù đến giừo ông vẫn ăn đồ ăn đóng gói sẵn mỗi tối. Swanson Hungry Man 1 . Gà tây hay thịt thái lát.

Ông giữ ngôi nhà sạch sẽ, nhưng sau hai năm những kỷ vật về Tom Jones vẫn bừa bộn trong nhà. Kate thấy thật kỳ lạ vì bà mới là người cuồng Tom Jones, chứ không phải ông. Thực tế, ông đã rất cố gắng tỏ ra cho bà thấy rằng ông ủng hộ nỗi ám ảnh của bà, nhưng không phải là chia sẻ. Cũng như việc bà không chia sẽ với tình yêu săn bắn của ông vậy.

Melba Caldwell còn chi nhiều tiền cho Tom hơn ông Stanley dùng cho săn bắn. Mỗi mùa hè, ông của Kate lái xe đưa bà cô, giống như một chuyến hàng hương về miền đất thánh, tới Las Vegas và khách sạn MGM Grand để toàn tâm tham dự buổi biểu diễn. Và mỗi năm, thay vì vài mẫu giấy hay thìa sữa 2 , Melba thường mang thêm một đôi quần lót trong túi xách.

Kate từng hộ tống bà tới xem một buổi diễn của Tom vài năm trước. Một lần là quá đủ. Khi ấy cô đã mười tám, và chứng kiến bà rút phắt đôi quần lót lụa đỏ chói ném thẳng lên sân khấu. Việc ấy làm cô tởn tới già luôn. Chúng bay trong không trung như cánh diều rồi rớt xuống thành đống quanh chỗ đặt micro của Tom. Thậm chí tới tận bây giờ, sau những năm tháng qua, hình ảnh Tom gạt mồ hôi trên trán cùng với những cái quần lót của bà vẫn làm cô ám ảnh, hằn sâu một vết nhăn ngay giữa trán cô.

Bà Kate đã mất được hai năm, nhưng không có thứ gì của bà bị đóng gói và bỏ đi. Những món đồ lưu niệm rẻ tiền của Tom Jones vẫn ở khắp nơi. Cứ như thể ông cất giữ ký ức về bà qua những cái gạt tàn, cốc Delilan và hình nộm nho nhỏ dễ thương. Như thể đánh mất những thứ đó cũng có nghĩa là hoàn toàn đánh mất ký ức về bà.

Ông không chịu thuê người giúp việc ban ngày cho cửa hàng, dù ông hoàn toàn có điều kiện. Chị em sinh đôi Aberdeen và Jenny Plummer thay nhau trực ca tối. Cửa hàng đóng cửa vào Chủ Nhật. Sự khác biệt duy nhất là giờ đây Kate làm cùng ông ở M&S thay vì bà Melba.

Ông là người lạc hậu đến nỗi vẫn ghi chép sổ sách bằng tay trong một quyển sổ cái lớn. Ông ghi số liệu bán hàng và kho dự trữ trong những quyển sổ sắp xếp theo màu sắc khác nhau từ những năm 1960. Tuyệt nhiên ông không chịu đặt chân sang thế kỷ 21 và mua một cái máy vi tính. Dụng cụ văn phòng hiện đại duy nhất của ông là một cái máy tính.

Nếu mọi thứ không thay đổi, ông sẽ chìm đắm mãi trong công việc. Kate tự hỏi liệu đó có phải điều cô thầm mong muốn hay không. Cô đến Gospel để nghỉ ngơi, để trốn tránh cuộc sống một thời gian. Khi nhìn gương mặt phiền muộn của ông cùng với cảnh sống còn não nề hơn, cô biết sẽ chẳng có cách nào rời xa ông cho tời khi ông sống bình thường trở lại. Không phải chỉ là để lại làm việc.

Giờ cô đã ở Gospel được hai tuần, nhưng chỉ mất có hai ngày để nhận ra Gospel thực sự không thay đổi nhiều kể từ ngày cô còn là một cô bé. Vẫn là những vòng quay nhàm chán ở Gospel, những việc đơn điệu ngày qua ngày, những việc Kate thấy ngạc nhiên khi nhận ra chúng đã cuốn hút cô. Biết rõ những người hàng xóm sẽ cho bạn cảm giác yên bình. Và dù cho những người hàng xóm kia đều đã khóa súng, nạp đạn, thì cũng thoải mái hơn nếu biết họ không khoái việc bắn giết bừa bãi.

Chí ít là chưa tới mùa xuân. Giống như những con gấu đen lang thang ở vùng hẻo lánh, thị trấn gần như ngủ đông suốt những tháng mùa đông. Khi mùa săn bắn thường niên kết thúc vào cuối thu, không có nhiều việc để làm cho tới khi tuyết tan.

Kate có thể nói dân thị trấn có thái độ yêu ghét rõ ràng với những khách du lịch và dè chừng với bất cứ ai không có tấm biển “khoai tây nổi tiếng” Idaho 3 gắn trên ba-đờ-xốc xe. Họ ngờ vực dân California và còn hơn thế với bất cứ ai không sinh ra và lớn lên ở Idaho .

Sau ngần ấy năm, Gospel vẫn chỉ có hai quán ăn. Ở Cozy Corner Café, món đặc biệt trong ngày vẫn là gà rán và gà thái lát rán. Thị trấn có hai tiệm tạp hóa. Tiệm M&S là tiệm nhỏ hơn, chỉ có một quầy thanh toán. Ở ngoại vi thị trấn, hai nhà thờ khác nhau đặt trên cùng một con phố. Một không theo đạo giáo nào, một theo giáo hội Mormon. Gospel có năm quán bar, bốn cửa hàng bán súng và đồ câu cá.

Cửa hàng mới duy nhất trong thị trấn là một hiệu bán đồ thể thao đặt ở chỗ từng là hiệu thuốc, ngay bên kia bãi đỗ xe tính từ tiệm M&S. Căn nhà gỗ cũ kỹ đã được tân trang, tu sửa lại. Một dòng chữ lớn màu vàng đề “Sutter Sports” ngay bên trên hình con cá bằng kính màu gắn trên cánh cửa sổ lớn ở mặt tiền. Một tấm biển đề Đóng Cửa Tới Tháng Tư treo ngay cánh cửa ra vào bằng kính, khung đồng.

Theo như ông Stanley nói thì Sutter không bán súng. Không ai biết tại sao. Dù sao thì đây là Gospel, thiên đường súng ống của thế giới. Nơi bọn trẻ có thể sở hữu thẻ hội viên NRA 4 trước cả khi có bằng lái xe. Nơi tất cả những xe tải nhỏ đều có giá súng cùng những miếng tem dán ghi dòng chữ “CHÚNG CHỈ LẤY ĐƯỢC SÚNG CỦA TA KHI TƯỚC NÓ TỪ NHỮNG NGÓN TAY CHẾT CỨNG CỦA TA”. Mọi người ngủ với súng ngắn treo nơi đầu giường và nhét trong ngăn kéo để đồ lót. Họ lấy làm tự hào rằng không có công dân Gospel nào bị sát hại bằng súng từ cuối thế kỷ, sau khi hai nam sinh trường Hansen bắn chết một gái bán dâm tên là Fenchy.

Cũng từng có vụ nố súng năm 95 khi viên cảnh sát trưởng già của thị trấn tự sát. Nhưng chuyện đó chẳng đáng quan tâm vì việc bạn tự sát thực sự không phải một tội ác đáng bị trừng trị. Và dù sao cũng chẳng ai thích thú nhắc đến chương riêng lẻ đó của thị trấn.

Hầu như mọi thứ trong M&S Market đều tương tự như những thứ Kate nhớ từ hồi còn thơ ấu. Bộ sừng con hươu đựu mười hai sao mà ông cô bắn hạ được năm 79 vẫn treo phía trên máy đếm tiền cũ kỹ đã sờn. Xung quanh máy pha cà phê, những cuộc trò chuyện hết từ người chủ bí mật của Sutter Sports sang ca phẫu thuật thay hôn của Iona Osborn.

- Cô không thể béo như thế mà không gặp vấn đề về hông được. – Ada Dover nói, trong khi Kate ấn nút máy tính tiền, rồi ấn nút Cộng Thêm.

- Dạ vâng. – Cô ậm ừ, tay nhét một hộp đào mơ vào cái túi tạp hóa bằng nhựa.

Thậm chí âm thanh trong cửa hàng cũng tương tự. Từ phòng sau, cô có thể nghe tiếng rì rì của máy cắt thị và tiếng loa trên đầu, Tom Jones hát về việc được chạm vào thảm cỏ xanh nơi quê nhà. Sự hiện diện của bà Melba vẫn vảng vất đâu đây trong M&S, từ thứ âm nhạc kinh khủng tới bức tranh nhung vẽ Tom treo ở văn phòng. Có một thứ duy nhất thực sự thay đổi bên trong cửa hàng của Melba Caldwell từ ngày bà mất, đó là “dòng suối” các bà góa đang câu kéo chồng bà, ông Stanley .

- Iona lẽ ra nên đến Weight Watchers 5 từ lâu rồi. Cô đã bao giờ thử đến Weight Watchers chưa?

Kate lắc đầu. Đuôi tóc cọ cọ vào bờ vai áo sơ mi đen. Tuần trước cô thay đĩa Tom Jones bằng Matchbox Twenty 6 . Nhưng được nửa chừng đoạn hai bài “Phiền muộn”, ông lại bỏ đĩa đó ra, cho đĩa của Tom vào. Nghe Ada lan man kể chuyện còn Tom hát i ỉ bên tai. Kate thấy đầu óc hơi choáng váng.

- Thực sự nhờ đó mà vóc dáng tôi mới gọn gàng thế này đấy. Cả Fergie cũng thế. Là bạn tốt của Iona , tôi đã cố gắng thuyết phục bà ấy ít nhất cũng thu xếp vài buổi gặp gỡ ở trang trại. – Ada lắc đầu, nheo mắt lại. – Bà ấy nói có, nhưng rồi chẳng bao giờ làm theo. Nếu nghe tôi, bà ấy đã giảm được cái khối thịt thừa đó đi và sẽ không phải thay hông như thế.

- Có lẽ cơ thể bà ấy trao đồi chất không tốt lắm.

Theo như ông cô nói thì hàng ngày Ada Dover vẫn đến vào tầm trưa, trang điểm, sửa soạn quần áo đầu tóc rất gọn gàng. Không còn nghe ngờ gì chuyện đó, bà ta đang có ý muốn lấy ông Stanley Caldwell làm ông chồng thứ ba đây mà.

- Bà ấy nên mua một cái xe đạp địa hình ở tiệm đồ thể thao đằng kia.

Bây giờ có Kate ở đây, ông cô luôn kiếm việc để làm ở phòng sau, tránh mặt Ada và đội quân hùng hậu các bà góa đang nhăm nhe đặt ông trong tầm ngắm. Ông cũng để cô đi giao hàng mỗi khi các bà góa gọi điện đặt. Kate cũng không thông cảm cho chuyện đó lắm. Cô không thích bị moi móc thông tin về ông mình, Cô có những việc hay ho để làm hơn là đứng nghe Myrtle Lake lảm nhảm về bệnh đau gót chân kinh khủng.

- Có khi bà Iona nên đi bộ. – Kate gợi ý, trong lúc với hộp bánh Wheat Thins nhét vào bao.

- Dĩ nhiên rồi, thậm chí nếu Iona muốn mua một cái xe địa hình, bà ấy cũng không thể. Chủ cửa hàng kia chắc đang ở Carribe, tắm nắng như một con thằn lằn. Mẹ cậu ta làm y tá ở đằng kia, tại phòng khám. Bà ta không phải dân ở đây. Minnesota , tôi nghĩ vậy. Kín tiếng lắm. – Ada thọc tay vào túi xách rút ví ra. – Tôi không biết tại sao cậu ta mở cửa hàng ở Gospel. Cậu ta chắn chắn có thể bán được nhiều xe đạp và các thứ khác ở Sun Valley hơn. Cậu ta cũng không bán súng. Không biết tại sao, nhưng đó là một người Minnesota cơ mà. Tự do và ngang ngược.

Kate tự hỏi một người Minnesota phải làm gì nếu không bán súng ống hay ngang ngược, nhưng cô quá mải cưỡng lại cảm giác rùng mình đang chạy dọc sống lưng để có thể hỏi . Sun Valley . Khung cảnh bẽ bàng nhất trong đời cô. Nơi cô say xỉn rồi gã gẫm một gã đàn ông lên giường. Một lần trong đời cô cố gắng kiềm chế và nhắm mắt đưa chân, nhưng lại gục ngã bởi một gã đàn ông gần như bỏ chạy mất dép khỏi cô.

- Cậu ta đẹp trai lắm, nhưng không thấy mon men tới giường cô nào bao giờ. Ai cũng biết Dixie Howe đang cố hết sức để câu cậu ta, nhưng cậu ta không thích. Dĩ nhiên tôi không đổ lỗi cho cậu ta vì tránh mặt Dixie . Dixie được tặng một món quà để nhuộm tóc, nhưng trông cô ta còn xơ xác hơn cả con la của Dì Sally.

- Có thể anh ta không thích phụ nữ. – Kate vừa nói vừa nhấn nút Cộng Tiền. Người đàn ông ở Sun Valley cũng không thích phụ nữ. Anh ta là một gã ghét đàn bà. Chí ít, đó là những gì Kate muốn tự an ủi bản thân.

- Đồng tính chăng? – Ada hít một hơi.

Không. Dù Kate muốn tin gã ngốc kia là một tên đồng tính, và đó là lý do gã cự tuyệt lời gạ gẫm của cô, nhưng cô thực sự không nghĩ vậy. Cô rất giỏi nhìn người nên không thể bỏ qua những dấu hiệu đó. Không, hắn ta chỉ là một gã đàn ông thích làm nhục phụ nữ và khiến họ tự thấy xấu hổ về bản thân. Như thế, hoặc là hắn ta bị rối loạn cương. Kate mỉm cười, có khi là cả hai cũng nên.

Ada im lặng trong giây lát rồi lại nói:

- Rock Hudson bị gay, con trai Rupert Everett cũng thế. Con trai Regina , Tiffer cũng gay, nhưng trông không bắt mắt lắm. Nó tham gia một buổi biểu diễn của dân gay ở mạn Boise . Nó hát “Đừng Mưa trong Buổi Diễu Hành Của Tôi”, nhưng dĩ nhiên là nó cũng không thắng. Đám giả gái cũng có những quy chuẩn riêng của chúng đấy. – Bà ta rút một cây bút ra, bắt đầu viết séc. – Regina đã cho tôi xem ảnh rồi. Tôi thề, Tiffer đội tóc giả, son phấn vào trông cũng chỉ được như mẹ nó. Mà Regina thì trông giống Charles Nelson Riley hơn là Barbara Streisand 7 . Kể ra thì cũng đáng tiếc và đáng xấu hổ nếu cậu con nhà Sutter kia cũng gay nốt. Nhưng nó giải thích vì sao cậu ta không chịu cưới vợ và chẳng bao giờ hẹn hò ai.

Ada xé tờ séc đưa cho Kate:

- Cháu gái bà Myrtle Lake , Rose, cũng theo đuổi cậu ta. Rose trẻ trung, dễ thương lắm, nhưng cậu ta cũng chưa bao giờ ăn nằm với con bé ấy.

Kate tự hỏi sao Ada lại biết nhiều về chủ tiệm đò thể thao kia đến thế. Kate có thể tìm được thông tin tương tự một cách dễ dàng, nhưng cô là một thám tử tư có đào tạo đàng hoàng. Ada quản lý của nhà nghỉ The Sandman và hiển nhiên là một người rất bận rộn.

Ada rời cửa hàng, Kate liền khóa máy tính tiền rồi đi ra đằng sau. Căn phòng ám mùi thịt tươi lẫn mùi thuốc tẩy mà ông cô vẫn dùng để vệ sinh dụng cụ và thớt. Cuối phòng là lò nướng bánh nhỏ của cửa hàng, nơi bà cô thường làm bánh ngọt, bánh quy và bánh mì nướng. Cái lò được phủ kín. Đã không ai dùng nó hơn hai năm nay rồi.

Ông Stanley ngồi bên cái bàn trắng dài, đóng gói xong những tảng thịt bò và sáu khay bọc nhựa xanh. Trên tường phía trên đầu ông treo những bảng hướng dẫn cắt thịt tương tự như trong ký ức thơ ấu của Kate. Ngoài cái lò nướng bỏ đi, mọi thứ vẫn không có gì thay đổi có khi tới vài thập kỷ. Ông đã già hơn và yếu đi nhiều. Bà đã ra đi. Kate không biết tại sao ông không bán cửa hàng hay thuê ai đó điều hành thay ông.

- Ada về rồi. – Kate nói. – Giờ ông có thể ra ngoài rồi đấy.

Stanley Caldwell ngước lên nhìn, đôi mắt nấu ánh lên một nỗi buồn u ám từ trong tim.

- Ông không trốn, Katie à.

Cô khoanh tay, tựa lưng vào những hộp giấy cần đưa vào nhà kho. Ông là người duy nhất trên đời gọi cô là Katie, như thể cô vẫn còn là một cô bé. Cô vẫn nhìn ông, cho tới khi một nụ cười kẽ làm bộ ria mép bạc của ông nhúc nhích.

- Được rồi, có thể là ông trốn. – Ông thừa nhận khi đứng lên, cái bụng phệ tì vào tạp dề dính máu. – Nhưng bà ta lắm lời quá. Bà ta làm ông đau hết cả đầu.

Ông tháo tạp dề, ném lên bàn làm việc.

- Ông không thể chịu được một người đàn bà quá lắm điều. Đó là một điểm ông thích ở bà cháu. Bà ấy không bao giờ nói lảm nhảm một mình.

Chuyện này không hoàn toàn đúng cho lắm. Bà Melba thích buôn dưa lê chẳng kém ai trong thị trấn này. Và chưa đầy hai tuần Kate đã nhận ra rằng mọi người ở Gospel kèm thêm chuyện buôn dưa lê vào bữa ăn hằng ngày cứ như đó là món thứ năm không thể thiếu trong khẩu phần. Thịt. Rau quả. Bánh mì. Bơ sữa.

- Thế bà phụ giúp việc cho cảnh sát trưởng thì sao ạ? Bà ấy có vẻ tốt, lại không lắm điều như bà Ada .

- Đó là Hazel.

Stanley bê những túi thịt bò, Kate lẽo đẽo theo sau khi ông đem chúng ra cửa hàng để bày. Sàn nhà lát gỗ đã mòn vẫn kẽo kẹt như ký ức của Kate hồi còn nhỏ. Tấm biển “Cảm ơn đã mua hàng” vẫn treo trên cửa. Kẹo ngọt và kẹo gôm vẫn bán ở gian đầu. Nhưng giờ đây, kẹo một xu đã tăng lên thành mười xu, còn bwóc đi của ông chủ cửa hàng chậm chạp hơn, lưng còng hơn, và đôi bàn tay đã nhăn nheo.

- Hazel cũng tốt. – Ông nói khi hai người dừng bước trước cửa tủ đông lạnh. – Nhưng bà ấy không phải bà cháu.

Tủ để thịt có ba ngăn, chai làm bốn khu vực: thịt gà, thịt bò, thịt lợn và thịt đã đóng gói, thứ ông cô luôn gọi là “thịt treo”. Trong đầu Kate, “thịt treo” có nghĩa hoàn toàn khác. Cô vốn đến từ Vegas, nơi bạn có thể thấy Ngài Thịt Treo “nhảy múa” ở Olympic Gardens năm tối một tuần.

- Ông đã bao giờ nghĩ tới chuyện nghỉ ngơi chưa ạ? – Kate hỏi khi cô dựng thẳng những túi bánh mì Ballpark Franks. Chủ đề đã thường trực trong đầu cô, và cô chỉ chờ thời điểm thích hợn để nói ra. – Ông nên nghỉ ngơi thư giãn và tận hưởng thay vì thái thịt tới khi tay ông phồng rộp lên.

Ông nhún vai:

- Bà cháu và ông cũng thường nói về chuyện nghỉ hưu. Ông bà định mua một cái xe lưu động rồi du hành khắp đất nước. Mje cháu cũng giục ông làm thế, nhưng ông chưa kịp thực hiện.

- Ông có thể ngủ muộn như ông muốn và không phải lo chuyện thịt cừu của bà Hansen đã đủ dày chưa, hay chuyện hết rau diếp chẳng hạn.

- Ông muốn bán cho mọi người những miếng thịt hoàn hảo. Ông vẫn còn giỏi chuyện đó. Và nếu ông không có nơi nào để đi mỗi sáng, có thể ông sẽ không bao giờ rới khỏi giường.

Nỗi buồn làm tim Kate đau nhói. Cô cùng ông quay lại phòng trong. Ông chỉ cho cô cách lắp cuộn tem dán vào súng đính giá tiền. Mỗi món hàng đều có một tem giá, thậm chí cả khi giá được in rõ ràng bởi nhà sản xuất. Cô chỉ ra việc không cần thiết đó, nhưng ông đã quá quen với việc này nên không thể thay đổi. Những giấc mơ của ông về tương lai đã chết cùng với bà Kate, và ông không thay thế chúng nữa.

Chuông cửa trước vang lên.

- Lần này tới ông ra nhé. – Kate tủm tỉm cười. – Chắc hẳn là một bà nào khác trong số các bà đến tán tỉnh ông đấy.

- Ông không thích bị phụ nữ tán tỉnh đâu. – Stanley càu nhàu, bước ra khỏi phòng.

Dù thế nào thì Stanley Caldwell vẫn là người đàn ông độc thân số một với các bà luống tuổi ở Gospel. Có thể đây là lúc ông phải dừng việc trốn tránh cuộc đời. Có lẽ cô có thể giúp ông dứt ra khỏi những giấc mơ xa xưa và bắt đầu xây dựng những mơ ước mới.

Kate mở một thùng củ cải đường bằng dao khui hộp rồi cầm lấy súng đính giá. Cô chưa bao giờ thực sự là một người mơ mông. Cô là con người hành động. Thay cho những giấc mơ, cô có những ý tưởng cực kỳ kỳ quặc. Nhưng, mới đây cô đã học được bài học. Những ý tưởng của cô tốt hơn nên được cất giữ cẩn thận trong đầu, nơi chúng không thể tiêu tan vì bị từ chối.

Cô chắc chắn là người đàn bà duy nhất trong lịch sử bị cự tuyệt ở một quán bar. Và cô chưa sẵn sàng bắt đầu một giấc mơ tốt đẹp trong đầu chỉ sau hai tuần như bây giờ. Không một tay chơi sành điệu nào kẹp theo cô đằng sau mô tô của anh ta nữa. Hoàn toàn không người đàn ông tuyệt vời nào nữa. Gã ngốc ở Sun Valley không những đã làm nhục cô mà còn giết chết luôn cả cuộc sống mộng mơ của cô.

Cô gắn một miếng dán thử lên nắp hộp rồi quay lại làm việc với dãy hộp đầu tiên. Từ loa gắn trên tủ ướp lạnh trong tường, tiếng Tom Jones gào lên dở ẹc bài “Honky Tonk Woman”, bài hát Kate thấy ghê tởm ở rất nhiều mức độ khác nhau. Ngay lúc này đây, chuyện một bài hát nói về một ả đàn bà trong quán rượu rẻ tiền dẫn một gã đàn ông “lên lầu làm tình” đích thực là chủ đề nhảm nhí nhất trên đời với cô.

- Kate, lại đây. – Ông gọi ầm lên.

Vừa làm nốt việc dán giá lên hàng hộp cuối cùng cô vừa ngẫm nghĩ. Từ lớp mười hai, khi bạn trai cô mời cô gái khác đi chơi, Kate đã trải qua một lần tổn thương đánh vào lòng tự trọng của mình. Cô đã quên chuyện đó, rồi cô cũng sẽ quên chuyện đã xảy ra ở Sun Valley . Dù sao, ngay lúc này đây, niềm an ủi duy nhất là cô sẽ không bao giờ phải nhìn thấy gã ngốc ở quán Duchin lần nữa.

Cô đi từ gian trong ra chỗ ông. Ông đang đứng cạnh một thùng hàng, nói chuyện với một người đàn ông quay lưng về phía Kate. Anh ta mặc áo chùm đầu trượt tuyết màu xanh da trời, ống tay áo dài màu đen. Một tay anh ta xách sữa, tay kia là hộp granola 8 . Mái tóc rối màu nâu chờm cổ áo khoác. Anh ta cao hơn cả chiều cao một mét chín của ông cô. Anh ta ngửa cổ cười phá lên vì nghe ông cô nói gì đó, sau đó quay lại, và nụ cười anh ta tắt ngấm. Từ một khoảng cách quá gần, ánh mắt xanh sâu thẳm của anh ta bắt gặp ánh mắt cô, thậm chí còn rực rỡ hơn trong ánh sáng ban ngày. Lông mày anh ta trĩu xuống, giữa bộ râu Fu Manchu hoàn hảo, đôi môi anh ta hé mở.

Bước chân Kate chùn lại rồi dừng hẳn. Mọi thứ trong cô dường như cũng ngừng hoạt động. Trừ duy nhất máu, thứ đang rút dần khỏi đầu cô khiến tai cô lùng bùng. Ngực cô thắt lại, như lần đầu tiên cô nhìn thấy anh ta, cô tự hỏi liệu có phải ý nghĩ về anh ta đã đem anh ta lại đây hay không. Chỉ duy nhất lần này, không có cảm giác ran ran. Không có ham muốn nào làm tóc cô dựng lên. Chỉ có cảm giác kỳ quặc trong đầu cô giống như cô có thể ngất xỉu.

Ngay lúc này, Kate ước gì cô ngất lịm đi rồi tỉnh dậy ở nơi nào đó, nhưng cô không có được cái may mắn ấy. Và thế là trong khi cô đang đứng đó ước mình có thể ngất đi, cô chắn chắn anh ta đang nhớ lại từng chi tiết cái đêm cô gã gẫm anh ta lên giường. Cái đêm anh ta từ chối cô thẳng thừng như thể một việc dễ dàng nhất anh ta từng làm.

- Đây là Rob Sutter. Cậu ấy là chủ cửa tiệm đồ thể thao chỗ hiệu thuốc hồi xưa áy. Rob, đây là cháu gái duy nhất của tôi, Katie Hamilton. Tôi không nghĩ là hai người biết nhau.

Đó là những gì ông cô đang nói, nhưng qua tiếng ù ù trong tai Kate, cùng với tiếng Tom Jones lảm nhảm bài hát về người đàn bà trong quán rượu rẻ tiền, cô nghe thấy thứ khác. Đừng nghĩ ngợi, chỉ là tôi không ngủ với phụ nữ gặp ở quán bar thôi . Câu nói vang vọng trong đầu cô như cả nghìn mũi kim châm tê buốt. Sự im lặng giữa họ dường như kéo dài vô tận vì cô chờ anh ta nói với ông cô rằng họ đã gặp nhau. Nói với ông rằng cháu gái ông là một đứa nát rượu và hư hỏng. Súng đính giá rơi tuột khỏi tay cô, đập đánh thịch xuống sàn nhà.

Anh ta liếc mắt lại nhìn Stanley .

- Không. Chúng cháu chưa biết nhau. – Anh ta nói.

Khi anh ta quay lại phía Kate, sự ngạc nhiên cô thấy trên khuôn mặt anh ta biến mất, thay vào đó là một nụ cười nhoẻn kỳ lạ.

- Rất vui được gặp cô, Katie.

- Là Kate. – Cô cố gắng kiềm chế cơn đau thắt trong lồng ngực. – Chỉ co ông gọi tôi là Katie thôi.

Anh ta bước lại gần, cúi xuống nhặt cây súng đính giá lên. Anh đèn trên trần chiếu qua chỏm tóc anh ta làm ánh lên những sợi vàng óng. Tiếng sột soạt từ ống tay áo khoác anh ta phá vỡ không gian im lặng giữa hai người.

- Cô tới thị trấn được lâu chưa? – Anh ta hỏi, giọng trầm và dịu dàng như cô vẫn nhớ, chỉ khác lần này khôgn làm cô có cảm giác như cocktail rượu rum.

Anh ta có biết cô đã ở thị trấn được bao lâu. Anh ta có ý gì đây?

- Cũng được hai tuần.

- Vậy là chúng ta đã không có duyên gặp nhau rồi. Tôi đi trượt tuyết với mấy chiến hữu hai tuần trước.

Cô biết điều đó, dĩ nhiên là thế. Và anh ta cũng biết cô biết. Nhưng nếu anh ta muốn giả vờ như họ chưa từng gặp nhau, nói như thế cũng tốt hơn với cô. Cô nhìn xuống bàn tay anh ta đang cầm súng đính giá đưa về phía cô. Nhãn hiệu Arc’s teryx nổi bật trên nền trắng cổ tay áo dán của anh ta.

- Cảm ơn. – Cô nói, nhận lấy súng đính giá.

Đầu ngón tay cô vô tình khẽ chạm vào tay anh ta, cô lùi một bước, rụt tay lại bên sườn. Ánh mắt cô dán vào khóa kéo áo khoác anh ta.

- Thật ngạc nhiên khi tới đây lại thấy ai đó ngoài ông Stanley đang làm việc. – Anh ta nói.

Cô chớp mắt, chăm chú nhìn vào đôi mắt xanh lục của anh ta. Chẳng có gì hết. Không mảy may châm chọc hay nhận ra. Ban đầu anh ta trông có vẻ ngạc nhiên. Giờ thì không có gì hết, và cô không thể chắc liệu anh ta đang giả vờ hay không nữa. Có lẽ nào anh ta không nhận ra cô không? Không, đó chắc chắn chỉ là mong muốn của cô thôi. Cô không bao giờ được may mắn như thế.

- Cũng đến lúc ông ấy cần sự giúp đỡ rồi.

- À vâng. – Cô lầm rầm, đầu óc phân tâm bởi muôn vàn ý nghĩ.

Cô đã say. Anh ta chắc hẳn cũng thế. Có thể sự ngạc nhiên cô thấy trên mặt anh ta vài phút trước chỉ là sự ngạc nhiên khi thấy ai đó ở bên ông cô, làm việc trong M&S. Chúa biết cả thị trấn đều kinh ngạc khi thấy cô.

- Nó đến giúp tôi trông nom cửa hàng. – Stanley đứng bên cạnh, vỗ nhẹ vai cháu gái. – Nó là một con bé ngoan đấy.

Rob Sutter liếc nhìn ông cô rồi chầm chậm quay sang nhìn cô chăm chú. Cô đợi anh ta cười phá lên, hay ít nhất cũng là nhoẻn cười. Anh ta không làm thế. Cô thấy thư giãn hơn một chút. Có thể tay Rob này là một tay bợm nhậu. Cô có thể may mắn như thế sao? Vài người đàn ông đánh vợ họ rồi nổ súng trong nhà. Khi tỉnh dậy trong phòng giam, họ không hiểu nổi sao mình lại bị bắt. Họ ngồi thừ ra, hai tay ôm đầu và không tài nào nhớ nổi mọi chuyện. Kate chưa bao giờ tin chứng mất trí nhớ do cồn. Có thể cô đã sai. Có thể ông chủ tiệm đồ thể thao bị vậy. Có thể anh ta đã quá say.

Lẽ ra cô nên thấy đôi chút bực bội vì quá dễ dàng bị lãng quên như vậy. Nhưng lúc này, tất cả cô thấy là tia hy vọng le lói rằng cô đã gặp may, còn anh ta làm một tay nát rượu.

Con bé ngoan, thật vớ vẩn . Rob Sutter lấy tay kia kéo khóa áo khoắc, chuyển trọng tâm sang chân trái. Gái ngoan không ai lại lãng phí thời gian đi mồi chài đàn ông ở quán bar.

- Cô định ở lại Gospel bao lâu? – Anh hỏi.

Lần cuối anh nhìn thấy cô ta, cô ta xõa tóc. Bóng mượt, như ngọn lửa bập bùng. Anh thích tóc xõa như thế hơn.

Hai má tái nhợt của cô ta đã hồng hào trở lại. Cô ta nghiêng đầu sang một bên. Anh có thể đọc được trong đầu cô ta nghĩ gì. Cô ta đang tự hỏi liệu anh có nhớ cô ta không đây mà.

- Chừng nào ông còn cần tôi. – Cô ta quay sang ông Stanley . – Cháu đi dán nốt giá cho đống củ cải đường. Nếu ông cần gì, cứ gọi nhé.

Như thể Rob có thể quên được việc cô ta gạ anh xem cặp mông trần của cô ta vậy. Cô ta quay đi, ánh mắt Rob nhích từ đuôi tóc đuôi ngựa lúc lắc trên bờ vai cô ta, qua phần áo sơ mi đen bó sát tới phần mông căng tròn bên trong lớp quần đen. Không, anh đâu có quên cô ta. Hình ảnh cô ta trong nền ánh sáng mờ ảo ở Duchin vẫn lưu lại trong anh ta sau khi anh đã rời quán bar. Đêm đó anh mơ về mái tóc nâu vàng mềm mại và đôi mắt nâu sậm. Về đôi chân thon dài và đôi tay cuốn lấy anh. Về cảm giác yêu đương quá đỗi mãnh liệt, quá thật, đến nỗi suýt nữa anh đạt cực khoái ngay trong giấc ngủ. Rất lâu rồi chuyện đó không xảy ra với anh. Một người đàn ông đâu muốn quên một chuyện như thế. Ít nhất là ngay tức thì.

- Thực ra tôi cũng đâu cần con bé giúp. – Stanley lên tiếng. – Nhưng dù sao có nó ở bên cũng tốt.

Rob quay lại nhìn ông chủ hiệu tạp hóa. Anh không chắc chắn lắm, nhưng anh nghĩ mình thấy ánh mắt ông Stanley sáng lên khi nói với anh về cháu gái. Tia sáng nhỏ nhoi anh chưa từng nhìn thấy trước kia. Anh quý Stanley Caldwell, và anh cũng rất tôn trọng ông.

- Cô ấy đang sống với ông ạ?

- Ừ. Nó chiều tôi lắm, nhưng tôi cố gắng không để thế. Nó đâu thể ở với tôi mãi. Một ngày nào đó gần đây, nó sẽ phải quay về với cuộc sống riêng của nó chứ.

Rob với lấy một quả táo rồi bước về phía quầy.

- Cô ấy ở đâu ạ? – Anh hỏi.

Anh đã sống ở Gospel đủ lâu nên hiểu rằng không mất nhiều thời gian để biết chuyện đời của một người, dù bạn có thích thú lắng nghe hay không. Và trong trường hợp này, anh cũng hơi tò mò.

- Katie ở Las Vegas . – Stanley vừa đáp vừa vòng ra sau quẩy với lấy sữa, granola và táo.

Khi Rob đút tay vào ví, anh ta tự hỏi liệu có phải Kate Hamilton là một vũ công ở sòng bạc chăng. Cô ta cao ráo đấy chứ. Cô ta cũng có bộ ngực vừa vặn với những bộ đồ thiếu vải đó. Nhớ lại những ngày rong chơi của anh, chắc hẳn cô ta cũng chỉ là loại đàn bà anh từng nếm trải. Cao ráo. Bốc lửa. Dễ dài.

- Nó là thám tử tư. – Stanley nói thêm trong khi đặt hộp granola vào một cái túi nhựa.

Câu nói đó làm Rob kinh ngạc. Không khác gì khi anh quay lại và thấy cô ta đứng cách anh vài bước, trông ngơ ngác giống như anh vậy. Anh đưa Stanley mười đô.

- Trông cô ấy chẳng giống bất cứ thám tử nào cháu từng gặp cả. – Anh nói, và anh có biết vài người.

- Thế nên nó mới khá. – Stanley khoe. – Phụ nữ nói chuyện với nó vì nó giống họ. Còn đàn ông nói với nó vì chúng ta đâu thể cưỡng lại một người phụ nữ đẹp mà.

Giờ Rob đã làm khá tốt trong việc cưỡng lại sự quyến rũ của phụ nữ. Xinh đẹp hay thế nào đi nữa. Chuyện đó thật không dễ dàng gì, không bao giờ dễ cả, nhưng anh nghĩ đã vượt qua được. Sự thèm khát không ngừng – cho tới khi một cô gái tóc hung đỏ gạ gẫm anh. Rời khỏi Kate Hamilton là một trong những chuyện khó khăn nhất anh từng làm trong một quãng thời gian rất dài. Anh để hóa đơn vào ví rồi nhét vào túi quần sau.

- Đây là chía khóa cửa hàng cậu. – Stanley nói, đóng ngăn kéo để tiền lại. – Có hai cái hộp gửi qua UPS cho cậu lúc cậu đi vắng. Hôm qua, tôi nhặt cho cậu thư rơi ở sàn nhà nữa.

- Ông không phải làm vậy đâu ạ. – Rob nhận chìa khóa cừa hàng mình, móc lại vào chùm chìa khóa. Trước khi anh đi trượt tuyết, Stanley đã đề nghị nhận chuyển hàng cho anh. – Dù sao cháu cũng rất cảm kích vì chuyện đó. Cháu có cái này tặng ông đây.

Anh mở khóa túi ngực bên trong áo khoác, lấy ra một con mồi câu giả.

- Đây là con nhộng cháu làm trước khi đi . Đám cá cầu vồng không thể cưỡng lại mấy tên này đâu.

Stanley cầm con mồi giơ lên ánh đền ngắm nghía. Đầu ria mép ông nhích lên.

- Đẹp quá. Nhưng cậu biết là tôi không câu mồi giả mà.

- Dạ chưa thôi. – Anh nói, cầm lấy túi hàng. – Cháu đang định rủ ông đây. Gặp ông sau nhé, ông Stanley .

- Gặp cậu sau. Cho tôi gửi lời chào mẹ cậu nhé.

- Chắc rồi ạ. – Rob nói, quay đầu bước ra khỏi cửa hàng.

Mặt trời buổi sáng đã lên cao, rọi sánh sáng trắng gay gắt qua những viền mây. Anh thọc tay vào túi áo khoác tìm kính râm. Vừa đeo cặp kính hiệu Rèvos lên, tức thì hai mắt kính xanh làm dịu ngay ánh mặt trời chói chang.

Anh đỗ chiếc Hummer đen ở ô đầu tiên nên dễ dàng chui vào ghế trước. Anh không quan tâm người ta nghĩ gì về chiếc Hummer của mình. Mẹ anh hay các nhà môi trường học cũng vậy thôi. Anh thích chỗ để chân và cả khoảng không phía sau vai. Anh không thấy trong xe Hummer quá rộng rãi. Chật chội. Như thể anh chiếm quá nhiều không gian. Anh thích dung tích của nó. Sự thật là nó thừa sức vượt qua tuyết hay những đoạn đường đá sỏi lầy lội. Và tất nhiên, anh thích việc anh có thể vượt lên qua các xe khác trên đường nếu cần thiết.

Anh khởi động máy, thò tay vào túi đồ lấy quả táo ra. Anh cắn một miếng rồi cài số lùi chiếc SUV. Trong cửa hàng M&S, anh thoáng nhìn thấy mái tóc đuôi ngựac màu đở và cái áo sơ mi đen.

Tên cô ta là Kate. Sau cái đêm rời khỏi Duchin, anh không ngời lại có thể gặp cô ta lần nữa. Không cần chờ một triệu năm, mà là ngay đây, cô ta đang ở Gospel. Cháu gái ông Stanley Caldwell đang làm việc ngay bên kia bãi đỗ xe cửa hàng Rob, dán giá cho các hộp đồ, trông đẹp hơn cả những gì anh nhớ, - và những gì anh nhớ được mới hay ho làm sao.

Rob vào số chiếc Hummer, đánh xe vòng qua phía sau cửa hàng mình. Cô ta không vui khi gặp anh. Không hẳn là anh trách cô ta. Tối đó anh có thể làm cô ta thật vọng nhẹ nhàng hơn. Nhẹ nhàng hơn nhiều, nhưng việc bị mồi chài đã chọc tức anh. Nó nhắc anh nhớ về một quãng đời, khi anh có thể dễ dàng gật đầu trước lời đề nghị của cô ta. Khi anh có thể không một chút do dự hôn lên đôi môi và lùa những ngón tay vào mái tóc ấy. Quãng thời gian anh có thể nhìn ngắm đôi mắt nâu long lanh lúc làm tính suốt cả một đêm dài. Quãng thời gian trong đời anh, khi phụ nữ luôn sẵn sàng và anh không bao giờ phải nhịn việc ấy.

Ngày xưa, cuộc sống của anh thật náo nhiệt. Xông xáo. Hết mình. Mọi thứ anh đòi hỏi và từng mong muốn. Phải, anh từng bị tập kích và ném vào góc tường không biết bao nhiêu lần, nhiều không đếm xuể. Anh đã mất những sau lầm. Làm những điều anh chẳng mấy tự hào nhưng anh yêu cuộc sống của mình. Từng giây phút tuyệt vời của nó.

Giờ đây, tất cả đã không còn như thế nữa.