Cứ như thế cho đến khi có một thành viên trong đoàn khảo sát khoa học được chính phủ phái đến Viscos nghiên cứu di sản của người Celte, đã chú ý đến phiến đá này. Ngay sau đó, các nhà khảo cổ đến, bắt đầu đo đạc, tính toán và tiến hành khai quật, tranh luận. Cuối cùng, họ đi đến kết luận: có một bộ tộc Celte đã coi nơi đây là một địa điểm linh thiêng. Tuy nhiên, những lễ tiết và nghi thức nào đã được tiến hành ở đó vẫn còn là một điều bí ẩn. Một số nhà khoa học cho rằng, trước kia, ở đó dường như có một đài thiên văn. Một số khác lại khẳng định trên phiến đá này đã diễn ra các lễ hội cuồng hoan tôn thờ nữ thần phồn thực và các thầy tế đã thực hiện nghi lễ giao hoan với những cô gái đồng trinh. Cuộc tranh luận kéo dài gần một tuần, và sau đó các nhà học giả lên đường đến một địa điểm mới hấp dẫn hơn với họ mà không đi đến một kết luận cuối cùng.
Ông thị trưởng Viscos ngay sau khi nhậm chức, đã cho đặt và in trên tờ báo địa phương một bài phóng sự về id sản của người Celte, với hy vọng nó sẽ cuốn hút các khách du lịch đến thị trấn, nhưng những con đường mòn cheo leo khó đi, dù có treo thưởng cho lòng dũng cảm thì Viscos cũng chỉ có thể giới thiệu mỗi cái tảng đá khổng lồ nằm chềnh ềnh ấy với đôi ba người đánh liều tới đây, trong khi đó các thị trấn và các làng lân cận có những thứ hấp dẫn hơn rất nhiều, tượng, văn bia và nhiều cái khác nữa. Vì thế dự định này cũng chẳng thu được kết quả gì. Chẳng bao lâu sau, phiến đá lại quay về thực hiện các chức năng cũ của mình – làm bàn tiệc cho dân Viscos mỗi khi đi dạo chơi cuối tuần.
Trong nhiều gia đình ở Viscos ngày hôm đó, người ta to tiếng tranh cãi cùng về một cng: các ông chồng định đi một mình, nhưng các bà vợ cứ nhất quyết đòi có quyền tham dự vào "lề hiến sinh bí mật" mà một hai ngày gần đây người ta còn gọi là tội ác sắp xảy ra. Các ông chồng thì nói – thật ra là nguy hiểm đấy, ai mà biết được, chuyện súng đạn tai nạn xảy ra như bỡn. Các bà vợ lại một mực cho rằng, các ông chỉ ích kỷ thôi, và phải tôn trọng quyền phụ nữ của họ chứ, bởi thế giới từ lâu rồi đâu còn như cánh đàn ông vẫn tưởng. Rốt cuộc, các ông chồng cũng đành chịu thua, và các bà vợ hớn hở với chiến thắng.
Và lúc này đây, chuỗi đuốc lửa đang trườn về phía phiến đá nguyên khối. Lượng đuốc đèn đúng bằng số người ở Viscos, vì người khách lạ cầm theo một bó đuốc, còn bà Berta không mang gì, con số với đúng 281 ngọn đuốc. Người đàn ông nào cũng một tay cầm đèn lồng hay đèn cây, còn tay kia cầm khẩu súng săn gập nòng để tránh bị cướp cò.
Bà Berta là người duy nhất không cần đến đôi chân của mình để đi tới điểm tập kết. Bà lão nằm ngủ yên trên chiếc cáng mới làm được hai người thợ đốn củi khó nhọc khiêng đi. "Tốt hơn nữa là sẽ không phải khiêng cái gánh nặng này ngược trở lại – một trong hai người nghĩ – ngầN ấy viên chì găm vào người thì bà ấy phải nặng gấp ba". Ông ta ước tính mỗi viên đạn thường nhồi sáu viên chì nhỏ. Nếu tất cả cùng bắn trúng đích tức trúng người bà lão thì xác bà ấy có đến 522 viên chì lẫn đầu đạn – có nghĩa là – sẽ nặng hơn cả lượng máu. Vừa nghĩ đến đấy, người thợ đốn củi cảm thấy nôn nao trong lòng và quyết định cho đến ngày thứ hai sẽ không nghĩ ngợi gì thêm nữa.
Trên đường đi, không ai trò chuyện với ai câu nào, không ai nhìn ai, cứ như thể tất cả đã thoả thuận từ trước, coi cái việc đang diễn ra như một cơn ác mộng cần phải quên đi – và càng sớm càng tốt.
Ai nấy đều thở hổn hển vì hồi hộp, hơn là vì mệt. Và kia rồi, cuối cùng thì cái hình bán nguyệt khổng lồ từ ba phía bao quanh khoảng trống nơi có phiến đá nguyên khối của người Celte nằm giữa cũng đã hiện ra.
Theo hiệu lệnh của ông thị trưởng, hai người thợ đốn củi tháo dây thừng trói bà Berta vào cáng ra và đặt bà lão lên chiếc bàn đá.
Không, thế này thì không được – bác phó rèn phản đối khi nhớ đến trong những bộ phim về chiến tranh mà bác ta được xem những người lính thoát khỏi hoả lực của đối phương bằng cách nằm ẹp xuống đất. Rất khó bắn trúng người đang nằm.
Hai người thợ đốn củi lại dựng bà Berta ngồi dậy, cho bà lão tựa lưng vào phiến đá. Có vẻ như mục tiêu đã ở tư thế lý tưởng rồi, nhưng ngay lúc đó, có tiếng phụ nữ sụt sùi khóc.
Bà ấy ngồi ngay trước mặt chúng ta! Bà ấy sẽ nhìn rõ cái việc chúng ta đang làm.
Tất nhiên bà Berta chẳng còn nhìn thấy gì nữa, nhưng cũng không thể chịu nổi khi nhìn vào dáng vẻ hiền lành này. Bà lão có nụ cười thân thiện ấy chỉ lát nữa thôi sẽ bị giết chết bởi hàng trăm viên đạn chì tròn nhỏ.
Cho bà ấy quay lưng lại – ông thị trưởng cũng không thể vô cảm với cảnh tượng này bèn ra lệnh.
Hai người thợ đốn củi quay lại phiến đá và đặt bà Berta ở tư thế quỳ, mặt và ngực bà lão ép sát vào phiến đá. Tuy nhiên, tư thế này không giữ được bà lão, nên người ta đành phải buộc dây vào hai cổ tay bà ấy, rồi vòng qua đỉnh tảng đá và buộc chặt ở mặt bên kia.
nguyện một điều gì đó. Đến lần này, vẫn có người phản đối nhưng ông thị trưởng nói rằng, đã đến lúc kết thúc rồi.
Phải càng nhanh càng tốt. không có phát biểu và biện minh gì hết, cả hai việc này có thể để đến ngày mai, ở trong quán bar và trên đường phố sẽ nổ ra những cuộc bàn tán của những người chăn cừu và thợ cày. Có thể tin chắc là một trong ba con phố của thị trấn rất lâu nữa sẽ không có người qua lại – mọi người đã quen thuộc với việc bà Berta thường ngồi trước cửa nhà mình, ngắm nhìn rặng núi và lầm rầm với chính mình. May sao, có thể ra khỏi Viscos bằng hai con đường khác chưa kể cái ngõ ngách nhỏ hẹp có những bậc thang tự nhiên dẫn thẳng xuống dưới, ra trục đường xe ô tô.
Chúng ta hãy kết thúc việc này đi thôi – ông thị trưởng nói, hài lòng vì ông linh mục không nói một lời nào và như vậy, không làm mất uy tín của ông – Kẻo ai đó trong thung lũng nhìn thấy ánh đuốc của chúng ta và muốn biết chuyện gì xảy ra đấy. Ngắm, bắn và ai về nhà nấy!
Đừng có nhiều lời. Thực hiện nghĩa vụ của mình như những người lính dũng cảm bảo vệ quê cha đất tổ. không có động lòng thương cảm gì hết. Mệnh lệnh đã ban phải thực hiện.
Nhưng ngay lập tức, ông thị trưởng chợt hiểu ra rằng, tại sao ông linh mục lại giữ im lặng. Không những thế, ông còn nhận ra là ông đã rơi vào bẫy. Từ thời điểm này, tất cả mọi người – nếu chuyện này lộ ra – có thể nhắc lại cái câu chuyện mà những kẻ đã bắn giết sau tất cả các cuộc chiến tranh thường nói "Chúng tôi thực hiện mệnh lệnh". Điều gì hiện đang diễn ra trong tâm hồn những con người này và vậy thì ông là ai – kẻ vô lại hay Đấng Cứu Thế?
Không được để lộ điểm yếu, đặc biệt là vào thời khắc này, khi tiếng súng lên nòng rôm rốp đồng loạt vang. Ông hình dung thấy một dàn súng 174 nòng gầm lên chói tai nhưng tự trấn an mình: cứ cho là nếu có ai nghe thấy thì họ cũng đã rời xa nơi này, và trước khi nâng súng, ông còn ra lệnh cho mọi người khi quay về phải tắt hết đèn đóm. Mọi người có nhắm mắt cũng tìm thấy đường, ánh sáng chỉ cần để tránh trường hợp không may khi bắn thôi.
Những người phụ nữ theo bản năng quay mặt đi khi những người đàn ông ngắm bắn vào cái thân hình bất động hiện rõ phía trước mặt cách năm mươi mét. Bắn trượt là điều không thể, từ bé tất cả bọn họ đã được học bắn chính xác. Họ đã từng bắn gục một con thú đang chạy, hạ một con chim đang bay.
Ông thị trưởng vừa định hạ lệnh "Bắn!" thì đúng lúc ấy có tiếng một phụ nữ vang lên.
Dừng lại!
Đó là Prym.
Còn vàng? Các ông các bà đã thấy vàng chưa?
Các tay súng hạ xuống, nhưng vẫn chưa bẻ nòng. Quả thật, chưa có ai nhìn thấy vàng. Tất cả đều quay về phía người khách lạ.
Ông ta chậm rãi bước ra giữa, đứng trước hàng người, hạ chiếc túi dết xuống đất và bắt đầu lần lượt lấy ra những thỏi vàng.
Nó đây – ông ta nói rồi quay lại chỗ của mình ở bên rìa hình bán nguyệt.
Còn Chantal bước lại chỗ để các thỏi vàng và nhấc một thỏi lên.
Vàng đây – cô nói – Nhưng tôi muốn các vị khẳng định điều này. Hãy để chín người phụ nữ lại đây và mỗi người cầm lấy một thỏi.
Ông thị trưởng thấy lo ngại. Những người phụ nữ sẽ đứng ngay trước hàng súng và nhỡ có ai đó run tay, súng nổ. Song chín người phụ nữ, trong số đó có cả bà vợ của ông, đã tiến đến gần Prym và làm theo yêu cầu của cô.
Đúng, đây là vàng – bà vợ ông thị trưởng nói sau khi đã xem kỹ cái vật bà cầm trên tay và so sánh nó với mấy món đồ trang sức của mình – Đây, tôi thấy ở đây có dấu của nhà nước và hàng số, ngày sản xuất và khối lượng. Chúng ta không bị lừa.
Vậy thì hãy cầm lấy thỏi vàng và nghe những điều tôi muốn nói với các vị.
Bây giờ không phải lúc để phát biểu, cô Prym ạ - ông thị trưởng ngắt lời cô rồi quay về phía các bà và nói thêm – Các bà hãy đi khỏi đây ngay để cho chúng tôi kết thúc cái việc đã được bắt đầu.
Im đi, đồ ngu!
Tiếng quát của Chantal khiến tất cả cùng rụng rời. Không một ai có thể nghĩ rằng, ai đó ở Viscos dám nói một câu như thế.
Cô sao thế? Điên rồi chắc?
Im đi! – Chantal càng quát to hơn, cả người cô run lên trong khi đôi mắt dại đi vì căm giận vẫn chăm chăm nhìn ông thị trưởng – Có mà ông mất trí thì có, chính ông đã rơi vào cái bẫy đe doạ tất cả chúng ta sẽ bị lôi ra toà chịu tội chết. Đó là ông, do ngu dại, đã chui đầu vào bẫy!
Ông thị trưởng tiến một bước lại gần Chatal nhưng có hai người đàn ông giữ ông ta lại.
Chúng ta hãy thử nghe xem cô ta nói gì! – có tiếng nói vang lên trong đám đông – mươi phút chẳng có ý nghĩa gì!
Chưa nói tới mười phút, chỉ năm phút thôi cũng có ý nghĩa rất lớn và người nào ở Viscos cũng hiểu điều này. Họ càng đứng ngoài bãi trống lâu hơn, sự sợ hãi của họ càng tăng lên một cách khủng khiếp, họ càng hiểu một cách sâu sắc hơn tội lỗi của mình, sự hổ thẹn càng thiêu đốt họ mạnh hơn, càng khó giữ hơn cho tay khỏi run. Tất cả mọi người đều chỉ mong một điều – tìm được một lý do chính đáng và huỷ bỏ cái việc họ đã gây nên. Trên đường đi, người đàn ông nào cũng cho rằng, súng của anh ta nạp đạn giả và chỉ trong nháy mắt thôi mọi việc sẽ kết thúc, nhưng lúc này ai cũng lo sợ từ nòng súng của anh ta sẽ bay ra viên đạn giết người, và thế là oan hồn của bà lão bị mọi người cho là phù thuỷ sẽ đêm đêm hiện về với anh ta.
Người ta sợ có ai lỡ buột miệng lộ ra. Hoặc là ông linh mục không thực hiện lời hứa của mình và thế là tất cả cùng mắc tội.
Thôi được, năm phút – ông thị trưởng nói, cố để những người có mặt tin như thể đấy là ông cho phép, trong khi vở diễn đã đi theo luật lệ Chantal đặt ra.
Tôi nói bao nhiêu, tuỳ tôi – cô gái trả lời.
Cô đã lấy lại được sự bình tĩnh và không có ý định lùi dù chỉ một phân trên lãnh địa đã chiếm được. Những lời nói của cô vang lên đầy uy quyền và xác đáng hơn bao giờ hết.
Nhưng tôi sẽ nói ngắn gọn thôi. Thật nực cười khi nhìn vào cái việc đang diễn ra, đặc biệt là khi tất cả chúng ta đều biết, dưới thời Ahab, ở thành phố ta đã xuất hiện những người nổi danh, dường như họ có một thứ bột có thể biến chì thành vàng. Những người này tự gọi mình là các nhà giả kim và dù sao đi nữa vẫn có một người trong số họ khi bị Ahab doạ sẽ xử tử cũng đã chứng minh được là anh ta nói thật. Hôm nay đây, các vị đang muốn làm đúng cái điều đó, tập trung nhau laị để trộn chì với máu, bởi những tin rằng, nó sẽ biến thành chính cái thỏi vàng, mà chúng ta đang cầm trên tay đây. Một mặt, các vị hoàn toàn đúng. Mặt khác, vàng nhanh chóng rơi vào tay các vị như thế thì cũng sẽ nhanh chóng biến mất như thế.
Người khách lạ chưa hiểu cô gái nói gì, nhưng vẫn muốn để cô tiếp tục. ông cảm thấy trong một góc tăm tối nào đó nơi tâm hồn ông lại bừng lên tia sáng đã bị lãng quên.
Tất cả chúng ta khi còn học phổ thông đã đọc một truyền thuyết nổi tiếng về ông vua Midas. Một lần kia, ông ta được gặp Thượng Đế, và Ngài đã hứa sẽ thực hiện bất cứ mong ước nào của ông ta. Midas rất giàu, nhưng vẫn mong giàu hơn nữa, và thế là ông ta cầu xin "Xin hãy cho tất cả những gì mà con đụng tay vào đều biến thành vàng". Các vị hẳn còn nhớ điều gì đã xảy ra sau đó. Midas đã biến bàn ghế giường tủ và cung điện của mình cùng mọi vật chung quanh ông ta thành vàng. Ông ta mê mải suốt buổi sáng bởi cây cỏ trong vườn lẫn cầu thang đều biến thành vàng. Đến trưa, ông ta đói bụng và muốn ăn chút gì đó. Nhưng vừa đụng vào chiếc đùi cừu quay vàng ruộm được người hầu bưng lên, nó biến ngay thành vàng. Ông ta bưng ly rượu vang lên miệng, rượu cũng biến thành vàng. Chỉ đến lúc ấy, ông ta mới hiểu là mình đã sai lầm như thế nào. Ông ta tuyệt vọng lao bổ đi gặp vợ để xin bà giúp đỡ, nhưng vừa cầm tay vợ thì bà đã biến thành bức tượng vàng. Những người hầu bỏ chạy đi cả vì sợ rằng, họ cũng sẽ chịu một số phận như thế. Chưa đầy một tuần, Midas bao quanh người toàn vàng là vàng đã chết vì đói khát.
Cô kể toàn bộ câu chuyện này để làm gì? – bà vợ ông thị trưởng dò xét. Bà ta vội vàng thả thỏi vàng xuống và trở lại chỗ cũ, bên cạnh ông chồng – chẳng lẽ Thượng Đế hiện về Viscos để ban cho chúng ta món quà như thế?
Để làm gì ư? Phải, đơn giản là vì vàng, tự bản thân nó, chẳng có giá trị gì. Tuyệt đối không. Chẳng ăn, chẳng uống được nó, không thể mua gia súc và ruộng đất bằng nó. Tiền mới có giá trị, nhưng các vị sẽ biến số vàng thành tiền bằng cách nào?
Chúng ta có hai cách. Có thể yêu cầu để bác thợ rèn của thị trấn nung chảy các thỏi vàng ra, chia chúng thành hai trăm tám mươi mẩu bằng nhau. Mỗi người trong chúng ta lên thành phố lớn bán phần của mình. Ngay lập tức, chúng ta sẽ gây sự nghi ngờ cho chính mình, vì ở thung lũng này đâu có mỏ vàng, vậy mà chẳng hiểu sao, dân Viscos bói ở đâu ra mà ai ai bỗng dưng cũng có những miếng vàng nhỏ. Các nhà chức trách sẽ tiến hành điều tra. Chúng ta, dĩ nhiên, sẽ nói rằng, chúng ta tìm được kho báu của người Celte từ thời cổ xưa. Giám định sẽ làm rõ ngay. Vàng – được đúc lại mới đây, mà ở đây các cuộc khai quật khảo cổ đã được tiến hành, và nếu người Celte có một lượng vàng như thế, họ đã dựng lên ở vùng ta một thành phố lớn và giàu có rồi.
Cô dốt không để đâu cho hết – ông đại điền chủ lên tiếng – Chúng ta sẽ đưa nguyên các thỏi vàng như thế, với đủ cả hình con dấu, tín ấn...vào nhà băng, đổi lấy tiền và chia đều.
Đấy là cách thứ hai. Ông thị trưởng lấy mười thỏi vàng đem đến nhà băng và đề nghị đổi lấy tiền. Nhân viên nhà băng nhất định sẽ đặt câu hỏi cho những thắc mắc của mình, tất cả chúng ta phải cùng có mặt ở nhà băng. Ông thị trưởng đại diện cho chính quyền thành phố vì thế người ta yêu cầu ông trình các giấy tờ chứng minh nguồn gốc số vàng. Ông thị trưởng trả lời rằng, ông không có một thứ giấy tờ nào. Nhưng trên mỗi thỏi vàng, như bà vợ ông ấy vừa nói, có đóng dấu, tức là vàng thật. Có cả ngày xuất xưởng và số sản xuất. Lúc này ông khách lạ của chúng ta đã ở tận đâu đâu rồi. Anh nhân viên nhà băng sẽ yêu cầu ông thị trưởng chờ một chút. Bản thân anh ta có biết ông và không nghi ngờ sự trung thực của ông, nhưng anh ta vẫn phải chờ lệnh cho phát ra một khoản tiền lớn đến thế. Liền đấy, anh ta sẽ gạn hỏi xem dẫu sao thì số vàng này do đâu mà có. Ông thị trưởng trả lời rằng, đây là quà tặng của một người khách nước ngoài ghé qua. Ông thị trưởng của chúng ta còn lâu mới ngu dại và có tài đốI đáp mà. Sau đó, anh nhân viên báo cáo toàn bộ sự việc với người quản trị. Ông ta đương nhiên cũng không nghi ngờ ai cả, nhưng vốn chỉ thuần tuý là nhân viên ăn lương, nên cũng không muốn mạo hiểm một cách vô ích, sẽ cho họp các thành viên hội đồng quản trị nhà băng. Không có ai trong số họ không biết ông thị trưởng của chúng ta, nhưng vì bất cứ khoản chi trả lơn nào họ đều yêu cầu chờ hai ngày. Trong thời gian này, nguồn gốc của các thỏi vàng sẽ được xác định.
Và kết quả là gì nào? Thì ra là vàng ăn cắp. hoặc những người đã mua chúng bị nghi ngờ là buôn bán ma tuý.
Chantal ngừng lời. Đó là nỗi lo sợ cô đã trải qua, khi lần đầu tiên cầm thỏi vàng dành cho mình. giờ đây, chính nó đang tràn ngập trong lòng tất cả những người đồng hương của cô. Lịch sử của một con người – đó là lịch sử của nhân loại.
Trên mỗi thỏi vàng đều có mã số và ngày sản xuất. Xác định nguồn gốc số vàng này ư, chuyện vặt.
Mọi ánh mắt hướng về phía người khách lạ. ông ta vẫn giữ vẻ mặt hết sức điềm nhiên.
Đừng nên hỏi gì ở ông ta – Chantal nói – ông ta có trả lời, chúng ta sẽ phải tin đó là sự thật. Nhưng một con người đã xô đẩy người khác vào tội lỗi thì chẳng đáng tin.
Chúng ta có thể bắt giữ ông ta đã đây, chừng nào chưa đổi vàng thành tiền mặt – bác phó rèn nói.
Người khách lạ ra hiệu cho bà chủ khách sạn.
Không thể đụn gdn ông ấy được đâu – bà ta phản đối – Rõ ràng, bạn bè của ông ấy rất có thế lực. Tôi chứng kiến ông ấy đã mấy lần gọi điện, nói chuyện với ai đó, đặt vé. Nếu ông ấy mất tích, người ta sẽ biết ngay là bị bắt cóc và cảnh sát sẽ ập ngay đến Viscos.
Chantal đặt thỏi vàng của mình xuống đất và bước ra khỏi khu bắn. Tám người phụ nữ còn lại đi theo cô.
Các vị có thể bắn, nếu muốn. nhưng tôi biết đây là một cái bẫy do người khách lạ đặt ra, và vì thế tôi sẽ không là kẻ đồng loã với tội ác.
Ngữ cô thì chẳng thể biết được cái gì! – ông đại điền chủ gào lên.
Nếu tôi nói đúng, thì ông thị trưởng sau khoảng thời gian nhanh nhất sẽ phải ngồi nhà đá, và những người đại diện của chính quyền sẽ đến Viscos để xác minh xem ông ấy lấy cắp số vàng này của ai. Và một ai đó sẽ giải thích. Chỉ có điều, người đó không phải là tôi. Nhưng tôi hứa sẽ giữ im lặng, mà sẽ chỉ nói rằng, tôi không biết chuyện gì đã xảy ra ở đây. Ngoài ra, khác với ông khách lạ, người ngày mai sẽ vĩnh viễn đi khỏi Viscos, tất cả chúng ta đều biết ông thị trưởng. có thể ông thị trưởng sẽ nhận hết tội về mình, nói rằng, mình lấy cắp vàng của một người khách lạ nước ngoài nghỉ lại ở Viscos một tuần. Lúc bấy giờ, tất cả các vị sẽ coi ông ấy là một người anh hùng, tội ác sẽ không bị phát hiện và tất cả chúng ta sẽ sống như đã từng sống, nhưng bất luận thế nào, cũng không có vàng.
Tôi sẽ làm như thế! – ông thị trưởng nói vì nghĩ rằng, con bé đã hoá rồ và ăn nói xằng bậy.
Lập tức, nghe có tiếng "roạt" một cái, có một người đầu tiên đã bẻ gập khẩu súng săn hai nòng của mình xuống.
Cứ tin tôi! – ông thị trưởng gào to – Tôi xin nhận chuyện này về mình! Tôi sẽ liều mạng!
Đáp lại ông ta, thêm một tiếng "rốp" của sắt thép va chạm nhau lại vang lên. Sau đó thêm một tiếng nữa, rồi một tiếng nữa và cứ thế tiếp tục cho đến khi gần như tất cả các nòng súng đã bẻ gập xuống. Có thể bao nhiêu bận tin được vào những lời hứa hẹn của mấy ông làm chính trị đây? Chỉ có ông thị trưởng và ông linh mục là còn giương súng ngắm, một người nhằm vào Prym, còn người kia – vào bà Berta. Nhưng một người thợ đốn củi, chính là người suốt trên đường đi đã nhẩm tính xem có bao nhiêu viên đạn chì sẽ găm vào thân thể bà lão, đã nhìn thấy chuyện gì đang diễn ra, lao tới và tước súng của họ.
Ông thị trưởng vẫn còn chưa mất hết tỉnh táo, đến độ có thể gây nên án mạng để trả thù, còn ông linh mục không có kinh nghiệm dùng súng chắc chắn có bắn cũng trượt.
Prym nói đúng, tin người khác là một việc rất mạo hiểm. Bỗng nhiên, có thể thấy rõ, tất cả đã nhận ra cái chân lý này, bởi vì mọi người, đầu tiên là những người già nhất và sau họ là những người còn lại, lũ lượt bỏ đi.
Họ im lặng đi xuống theo sườn dốc, cố nghĩ về thời tiết, về lần xén lông cừu sắp tới, về mảnh ruộg vài ngày nữa cần phải cày ải, về mùa săn mới…Không và không thể có chuyện gì khác nữa xảy đến, bởi Viscos đã bị thời gian vùi lấp và ở thị trấn này ngày nào cũng như ngày nào giống nhau y hệt.
Mọi người đều tự nhủ rằng, toàn bộ câu chuyện xảy ra trong thị trấn ba ngày vừa qua chỉ là họ ngủ mơ mà thôi.
Đó là một giấc mộng. Ác mộng.