Tối nay thành phố ta chẳng giống như thường lệ - bà lão nói – Tôi nghe thấy tiếng chân nhiều người đi rầm rập. Quán bar chẳng đủ chỗ cho tất cả ngần ấy người.
Những người đàn ông của thành phố ta đấy mà – bà chủ khách sạn trả lời – Họ ra quảng trường để quyết định xem nên xử thế nào với người khách lạ.
Ra thế. Vậy quyết định thế nào? Chấp nhận đề nghị của ông ta hay cứ để hai ngày nữa ông ta trở về nhà?
Trong đầu chúng tôi không bao giờ nảy ra ý nghĩ chấp nhận đề nghị của ông ta – bà vợ ông thị trưởng phẫn nộ.
Thật vậy sao? Thế mà tôi lại nghe thấy tuồng như linh mục của chúng ta hôm nay đã đọc một bài thuyết giảng hay lắm, nhắc nhở đến sự hy sinh của một người đã cứu vớt cả loài người và Đức Chúa Trời đã chấp nhận đề nghị của Satan, trừng phạt một trong những kẻ tôi tớ trung thành của mình. Có gì tồi tệ đâu, nếu dân Viscos chấp nhận đề nghị của ông khách lạ như...À, phải, tỷ dụ như một hợp đồng làm ăn ấy.
Cụ đùa đấy chứ?
Không, tôi hoàn toàn nghiêm túc đấy. Các bà hình như đang dối tôi thì phải...
Cả hai bà đã muốn đứng dậy và bỏ đi nhưng làm thế thật quá mạo hiểm.
Vâng, mà tiện đây, vì cớ gì tôi lại có cái vinh dự được đón các bà lại chơi nhà thế nhỉ? Từ trước đến giờ, tôi nhớ là điều này chưa từng có.
Hai hôm trước cô Prym có kể là nghe thấy con sói khát máu tru.
Mọi người đều biết, con sói khát máu là cái chuyện bịa đặt ngu ngốc của bác thợ rèn vùng ta thôi – bà chủ khách sạn nói – Tôi tin là bác ta đi vào rừng cùng một bà, một cô nào đó của làng bên, rồi giở trò đòi chim chuột trong đó, bị đánh trả nên mới đem bịa chuyện bị con sói tấn công. Nhưng chúng tôi vẫn quyết định đến xem quanh nhà cụ mọi chuyện có yên ổn hay không.
Mọi việc vẫn ổn cả. Tôi đang đan cái khăn trải bàn, nhưng cũng chưa dám nói có kịp đan xong hay không nữa. Biết đâu ngày mai tôi về chầu trời rồi.
Hai bác hẳn cũng biết với người già đôi khi là thế. Đánh đùng một cái là đi, chẳng ai ngờ - bà lão nói thêm.
Bầu không khí lại dịu xuống như trước. Hay gần được như thế.
Cụ nghĩ đến cái chết khí sớm đấy.
Cũng có thể là sớm, nhưng nào ai biết cái gì đang chờ chúng ta vào ngày mai. Tiện thể, cũng xin nói để hai bà biết, suốt cả ngày hôm nay tôi chỉ có nghĩ về chuyện này.
Nếu vậy hẳn là phải có những lý do đặc biệt nào đó chứ.
Hai bà có thấy lý do đặc biệt nào không?
Bà chủ khách sạn nhận thấy cần phải nhanh chóng chuyển ngay đề tài câu chuyện. Nhưng phải làm thật thận trọng. Lúc này, buổi họp mặt trên quảng trường thành phố đã bắt đầu và nó chắc sẽ kéo dài chỉ trong vài phút.
Tôi thấy cùng với tuổi tác tất cả chúng ta bắt đầu nhận ra rằng, chẳng ai tránh khỏi cái chết. Vì vậy nên học chấp nhận nó một cách nhẹ nhàng và sáng suốt. Bởi có khi nó lại tránh cho chúng ta những nỗi đau khổ không cần thiết.
Nhà bác nói phải – bà Berta đáp lời – Chính cả ngày hôm nay tôi cũng nghĩ ngợi về điều này. Và hai bà có biết tôi đã rút ra kết luận như thế nào không? Tôi rất rất...mà nói thực ra rằng, tôi sợ chết một cách kinh khủng. Và tôi không tin là giờ của tôi đã điểm.
Lại một sự im lặng nặng nề và bà vợ ông thị trưởng nhớ lại câu chuyện mới đây trong phòng áo lễ về khu đất sát bên nhà thờ. Họ nói về chuyện này nhưng lại ám chỉ một chuyện khác.
Cả bà vợ ông thị trưởng lẫn bà chủ khách sạn đều không biết điều gì sẽ xảy ra trên quảng trường. Không một ai có thể đoán được kế hoạch được ông linh mục đưa ra như thế nào và phản ứng của dân thị trấn sẽ ra sao. Nói thẳng với bà Berta là vô nghĩa, một điều đơn giản là không có ai đang sống yên lành lại đi đồng ý chết cả. Bà thầm đặt ra cho mình một nhiệm vụ: nếu thật sự họ muốn giết bà Berta thì cần phải nghĩ ra cách thực hiện điều này thật êm gọn và không để lại dấu vết. Nếu không, hậu quả sẽ tới liền.
Mất tích. Bà Berta phải hoàn toàn mất tích, không thể đem xác bà ấy ra nghĩa trang hay quẳng vào rừng được. Sau khi người khách lạ chứng thực rằng, mong muốn của ông ta đã được thực hiện, cần phải đốt cái xác, còn tro sẽ đem rải trên núi. Và đúng cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, bà Berta sẽ là người lấy thân mình bón cho mảnh đất nơi đây, hơn thế, còn làm cho nó trở nên màu mỡ.
Bà đăm chiêu về chuyện gì thế? – bà lão cắt ngang dòng suy nghĩ của bà vợ ông thị trưởng.
Về một đống lửa – bà vợ ông thị trưởng trả lời – Về một đống lửa tuyệt diệu sẽ sưởi ấm cả tâm hồn và thể xác chúng ta.
May sao tôi với hai bà đây không phải sống ở thời trung cổ nhỉ. Hai bà chắc cũng biết có người trong thành phố ta cho tôi là phù thuỷ phải không?
Không thể nói dối được nữa, bà lão chắc chắn đã ngờ thấy có điều chẳng lành, và cả hai bà cùng im lặng gật đầu.
Tôi với hai bà đây mà sống vào cái thời đó xem, người ta chẳng đã muốn thiêu tôi trên đống lửa rồi. Phải thiêu sống, và chỉ vì có ai đó tuồng như quả quyết rằng, tôi có lỗi gì đấy./
"Chuyện gì thế nhỉ?" – bà chủ khách sạn nghĩ – "Không lẽ có người đã phản bội chúng ta? Không lẽ bà vợ ông thị trưởng đang đứng cạnh mình đây đã kịp tới trước và kể hết cho bà lão? Chẳng lẽ linh mục đã hối hận với ý nghĩ của mình và đến đây thú nhận trước kẻ tội đồ?"
Xin cám ơn hai bà đã có lòng đến thăm tôi. Song tôi vẫn thấy mình khoẻ khoắn lắm và sẵn sàng chấp nhận bất kể sự hy sinh nào. Kể cả những cái trò ăn kiêng dớ dẩn để giảm lượng cholestorol bởi tôi thèm được sống lâu cơ.
Bà Berta đứng dậy và ra mở cửa. Hai bà khách chào ra về. Cuộc họp trên quảng trường vẫn chưa kết thúc.
Tôi rất vui vì được gặp hai bà. Còn bây giờ tôi chỉ đan hết hàng này rồi đi nằm thôi. Thật ra tôi vẫn tin là có con sói khát máu. Vì thế, tôi muốn xin hai bà, cả hai còn trẻ, khoẻ, có thể lưu lại quanh đây ít phút, chừng nào cuộc họp của các bà chưa xong. Có như thế tôi mới dám tin con sói không bén mảng đến cửa nhà tôi.
Bà chủ khách sạn và bà vợ ông thị trưởng đồng ý, chúc bà Berta ngủ ngon rồi bà lão đi vào nhà.
Bà ấy biết hết! – bà chủ khách sạn thì thào – Có người đã cảnh báo trước cho bà ta. Không lẽ, bà không nhận thấy cái vẻ giễu cợt trong giọng nói của bà Berta à? Lẽ nào bà không hiểu một điều rằng, bà lão đã đoán ra chúng ta đến để canh chửng?
Bà vợ ông thị trưởng thoáng vẻ lo ngại.
Bà ta không thể biết. Không có ai điên rồ lại đi...nhưng nếu bà ta...
Gì cơ?
Có khi bà ta đúng là phù thuỷ thật. Bà có nhớ cơn gió bất chợt trong lúc chúng ta bàn bạc không?
Cửa sổ bỗng dưng đóng sập lại cơ chứ.
Cả hai cùng sợ thót tim. Những điều mê tín dị đoan từ bao đời nay chợt trỗi dậy. Nếu bà Berta đúng là phù thuỷ thật thì cái chết của bà, thay vì để cứu thị trấn, sẽ tận diệt nó. Truyền thuyết đã nói như thế.
Bà Berta tắt đèn và nhìn qua khe cửa dõi theo hai người phụ nữ đứng trên phố. Bà không biết phải làm gì nữa. Khóc, cười, hay nhẫn nhục chấp nhận số phận. Chỉ có một điều mà bà không còn chút mảy may nghi hoặc nữa – chính bà sẽ được dùng làm vật hy sinh.
Chiều nay ông chồng đã hiện về gặp bà và ngạc nhiên thấy rằng, không chỉ mình ông ấy mà cùng với bà của Prym. Cảm giác đầu tiên mà bà Berta thấy đó là ghen tức. Sao họ lại đi cùng với nhau thế nhỉ? Nhưng rồi bà nhận thấy ánh mắt họ rất đỗi lo lắng và sợ hãi. Đến khi hai người kể lại cho bà Berta nghe câu chuyện diễn ra trong phòng áo lễ, thì bà thật sự tuyệt vọng. Họ khuyên bà nên chạy trốn ngay.
Này, hai người có đùa tôi không đấy? – bà Berta đáp – chạy trốn ư? Tôi còn có thể chạy đi đâu với cái đôi chân què này cơ chứ. Ngay đến nhà thờ cách nhà có trăm bước chân mà khó nhọc lắm tôi mới có thể lê bước tới được đấy. Không, hai người nếu có lòng, làm ơn quyết hộ việc này ở đó, ở trên cao ấy. Phải bảo vệ tôi chứ. Không lẽ uổng công tôi cả đời cầu nguyện mười phương thánh hay sao?
Hai người giải thích rằng, tình thế nghiêm trọng hơn bà Berta tưởng rất nhiều. Cái Thiện và cái Ác đã lao vào cuộc chiến rồi thì không một ai có thể can thiệp vào được. Các thiên thần và quỷ dữ bắt đầu một trong những trận chiến đôi khi lại bùng phát lên và trong suốt bao nhiêu năm không thì cũng hàng trăm năm đã huỷ diệt hay cứu thoát cả những miền đất rộng lớn.
Chuyện ấy chẳng can hệ gì đến tôi. Tôi chẳng có gì để tự vệ cả. Tôi không dính dáng gì đến đấu với tranh hết và cũng đâu có muốn nó nổ ra.
Vả lại nào có ai muốn đâu. Mọi sự bắt đầu từ hai năm trước đây có một thiên thần hộ mệnh đã tính nhầm. Một vụ bắt cóc xảy ra. Có hai người phụ nữ đến số thôi. Còn cô bé lên ba lẽ ra phải được cứu thoát. Cô bé ấy, như người ta nói, phải là niềm an ủi cho người cha của mình, giúp ông ta không mất đi niềm hy vọng và có thể chịu đựng được nỗi bất hạnh khủng khiếp giáng xuống đầu ông ta.
Ông ta vốn là một người tốt và dẫu có phải chịu những nỗi đau khổ đắng cay vô cùng (mà chẳng biết vì cớ gì, bởi điều này không thuộc quyền hành của Đấng Tối Cao, mà những ý đồ của Ngài nào có ai thấu hiểu), phải hồi tỉnh lại sau cú trời giáng và chữa lành những vết thương lòng. Theo thiên mệnh, cô bé được mang dấu ấn này, sẽ lớn lên và đến năm hai mươi tuổi, bằng nỗi đau khổ của mình sẽ chữa lành nỗi đau thương của kẻ khác. Cũng theo thiên mệnh, cô bé sẽ thực hiện một việc hết sức trọng đại và cao cả có ảnh hưởng trên khắp hành tinh này.
Phải, dự tính ban đầu là thế. Và mọi việc đã diễn ra rất suôn sẻ. Cảnh sát đột nhập được vào căn hộ, nơi các con tin bị giam giữ. Cuộc đấu súng nổ ra. Những người theo dự định phải chết đã ngã xuống. Lúc này thiên thần hộ mệnh của cô bé – bà Berta có lẽ cũng biết những đứa trẻ lên ba thường nhìn thấy những thiên thần của mình và trò chuyện với họ - ra hiệu cho cô bé phải lùi lại sát tường. Nhưng cô bé không hiểu và bước lại gần hơn để nghe cho rõ thiên thần nói gì.
Cô bé chỉ di chuyển khoảng chừng ba mươi centimet thôi, nhưng chỉ ngần ấy cũng đủ để viên đạn oan nghiệt giết chết. Và từ khoảnh khắc ấy, các sự kiện đi theo một chiều hướng khác hẳn. Cái thiên ý dự định phải trở thành câu chuyện về sự hồi sinh một linh hồn đã biến thành một cuộc chiến tàn nhẫn. Quỷ dữ bước ra vũ đài, đòi về mình linh hồn người cha của cô bé bị giết hại – cái linh hồn tràn ngập thù hận, bất lực và thèm khát trả thù. Các thiên thần không chịu. Ông ta, có thể nói, đã làm một cái nghề đáng lên án, vẫn là một người cha tốt và đã được lựa chọn để giúp cô con gái mình làm thay đổi nhiều điều trên thế gian.
Tuy nhiên, kể từ thời khắc đó, ông ta đã bỏ ngoài tai mọi lý lẽ của các thiên thần. Quỷ dữ dần dần chiếm giữ lấy linh hồn ông ta, nhưng hầu như chưa hoàn toàn khuất phục được nó.
Hầu như hoàn toàn – bà Berta nhắc lại – hai người nói là "hầu như" phải không?
Ông chồng bà lão và bà của Prym khẳng định mới "hầu như" thôi, vẫn còn một tia hy vọng rất mỏng manh, bởi có một thiên thần không muốn ngừng cuộc tranh đấu. Cho mãi đến chiều qua, dù thiên thần đã kịp nói đôi lời nhưng vẫn bị cự tuyệt. Mà thiên thần ấy lại chọn đúng ngay Chantal Prym làm công cụ của mình.
Bà của Chantal Prym giải thích rằng, chính vì tình thế này đã khiến bà phải về đây, nếu trên đời này còn có một ai đó có khả năng xoay chuyển nổi tình thế thì đó chính là cô cháu gái của bà ấy. Nhưng cuộc chiến dù sao đi nữa vẫn sẽ khốc liệt hơn bao giờ hết, vì thiên thần của người khách lạ đã hoàn toàn bị sự hiện diện của con quỷ của ông ta lấn át.
Bà Berta muốn an ủi hai người khách của mình. Rốt cuộc thì cả hai đâu còn ở trên đời, vậy nên bà mới phải là người lo lắng và sợ hãi. Mà họ có thể giúp Chantal thay đổi được toàn bộ tình thế không?
Con quỷ của Chantal hiện cũng đang thắng thế, chồng bà và bà của Chantal đã trả lời như vậy. Khi cô gái ở trong rừng, bà của cô đã cho con sói khát máu đến. À thì ra con sói là có thật, bác phó rèn không bịa chuyện. Cần đánh thức những tình cảm tốt đẹp ở người khách lạ, và việc này đã thành công. Nhưng tiếp đó, mức độ có thể đánh giá là tình thế không tiến triển hơn. Thì ra, tính cách của Chantal và của người khách lạ quá mạnh mẽ. Chỉ còn biết hy vọng cô gái nhận thấy cái điều, mà theo ý chồng bà lão và bà của Chantal, cô cần phải nhận thấy. Nói đúng hơn, họ biết là cô đã nhận thấy điều này và hiện giờ họ mong sao để cô hiểu rõ cái điều đã nhận thấy.
Thế cô ấy cần hiểu rõ cái gì? – bà Berta hỏi.
Điều này thì họ không thể nói được. Giao tiếp với người còn sống có những giới hạn. Một con quỷ nào đó mà nghe được những gì họ nói và biết trước dự định của họ có thể phá hỏng mọi việc. Tuy nhiên, họ cam đoan rằng, việc này rất đơn giản, và Chantal nếu nhanh trí, bà của cô không hề nghi ngại về điều này, sẽ có thể cải thiện được tình hình.
Bà Berta mặc dù vốn rất thích những điều bí mật nhưng cũng không cố gạn hỏi thêm, bằng lòng với câu trả lời này. Lục vấn cặn kẽ những điều có thể phải trả giá bằng cả mạng sống của mình vốn không phải là tính cách của bà. Nhưng bà lão vẫn quay lại phía ông chồng, vì vẫn còn một điều cần hỏi rõ.
Ông đã bắt tôi ngồi trước cửa nhà hết năm này sang năm khác để canh chừng cho thành phố, bởi cái Ác có thể xâm phạm vào nó. Ông đã nói với tôi điều này từ lâu, trước khi thiên thần hộ mệnh sai lầm và cô bé bị giết hại cơ mà.
Ông chồng trả lời rằng cái Ác sớm muộn gì cũng sẽ đi qua Viscos, bởi vì nó lần mò đi khắp nhân gian và thích bất chợt bắt mọi người.
Tôi không tin.
Ông cũng không tin, nhưng điều này quả thực là thế. Có lẽ. Cuộc quyết đấu giữa cái Thiện và cái Ác diễn ra từng giây trong con tim của mỗi người, bởi con tim là chiến địa, là nơi các thiên thần và quỷ dữ giao chiến. Trong suốt hàng nghìn năm, hai bên tranh giành từng tấc, từng ly và cứ thế sẽ tiếp diễn đến chừng nào một bên chưa bị đối thủ tiêu diệt. Vả lại dẫu bây giờ ông có đang ở trong cõi Tâm Linh thì ở đó vẫn còn rất nhiều điều không rõ ràng, hơn gấp nhiều lần so với ở cõi Nhân gian.
Thôi được, bây giờ thì ông cũng đã ít nhiều thuyết phục được tôi rồi. Hai người đừng có lo lắng. Nếu tôi có phải chết tức là giờ của tôi đã điểm.
Bà Berta không nói lộ ra cái điều rằng, bà óc đôi chút ghen tuông và muốn lại được ở gần bên chồng, vì ở Viscos, bà của Chantal luôn được coi là một trong những người mà chồng mình (cho đến chồng người) chẳng tha.
Hai người khách, viện cớ rằng họ còn phải làm sao để Chantal hiểu rõ cái điều đã nhận thấy, thoáng chốc đã biến mất dạng. Bà Berta càng nổi cơn ghen ghê hơn, nhưng cũng an tâm lại ngay. Bà nghĩ ông chồng chỉ muốn trì hoãn sự ra đi của bà, để tự do thoải mái kết thân với bà của Chantal vài ngày.
Ai mà biết được, có thể, ngày mai thôi, tự do của ông ấy sẽ chấm dứt. Bà Berta ngẫm nghĩ một lát và đi đến một kết luận khác, ông lão tội nghiệp cũng đáng được hưởng một vài năm xả hơi. Chả nhẽ có thế mà bà cũng tiếc? Cứ để ông ấy cho là mình được tự do như chim trời, và có thể làm tất cả những gì ông ấy muốn, bà vẫn biết rằng dù thế nào đi nữa, ông lão vẫn cứ buồn nhớ vì phải lìa xa bà.
Khi thấy hai người phụ nữ đứng trước cửa nhà mình, bà Berta nghĩ "Tốt biết mấy nếu được sống thêm đôi ba năm nữa ở cái thung lũng này để được ngắm nhìn những ngọn núi, chứng kiến mối bất hoà muôn đời giữa cánh đàn ông và đám đàn bà, giữa cây rừng và gió bão, giữa thiên thần và ác quỷ". Bà cảm thấy sợ kinh khủng, và cố thử tập trung vào việc khác – ngày mai phải lấy cuộn len màu khác vì cái khăn bà đang đan chỉ có độc một màu trông xấu quá thể.
Cuộc họp trên quảng trường thị trấn vẫn chưa kết thúc, nhưng bà Berta đã ngủ, hoàn toàn tin tưởng rằng Prym, dù không có được trò chuyện với hình bóng của người chết, sẽ hiểu hết những gì người ta muốn nói với cô.