Đây là một con số đặc biệt, tôi cảm thấy nó giống một cánh cổng hơn, trước “10” tôi từ từ đi đi lại lại trước cổng lớn, có thể chờ đợi cũng có thể quay đầu. Nhưng chỉ cần chúng ta bước vào phía trong cánh cổng đó, con số “10” này sẽ biến thành một sợi dây thừng thòng vào cổ chúng ta rồi dắt chúng ta lao điên cuồng về phía trước, bất luận phía trước là thiên đường hay địa ngục.
Hôm nay, ngày thứ 10 của câu chuyện này.
Tròn 10 ngày trước, bốn sinh viên đó đột nhiên ghé thăm nhà tôi, kể cho tôi nghe về kế hoạch thám hiểm to gan của họ. Trong củng một buổi tối, tôi lại nhận được một email thần bí, email này đến từ một cô gái tên là “Nhiếp Tiểu Sảnh”. Kể từ đó, bọn họ đã kéo tôi vào trong vòng xoáy, từng bước từng bước dẫn tôi tới trước cánh cổng khủng khiếp đó.
Tôi có nên tiến vào bên trong không?
Vấn đề này quấn lấy tôi cả ngày, khiến tâm trạng tôi hoang mang buồn phiền. Đến sẩm tối, tôi thực sự không thể ngồi yên được nữa, căn phòng dường như vẫn đang dừng lại vào buổi sáng hôm đó, vẫn còn đó tiếng chuông điện thoại và sự khủng hoảng lạc cả giọng của Hàn Tiểu Phong đến từ Hoang thôn. Sau đó, tôi vội vã ra khỏi nhà, đi tới đường Thiểm Tây Nam.
Tôi đi tìm một người.
Tôi dừng bước trước quán trà đường Thiểm Tây Nam, đứng cách con đường xe chảy cuồn cuộn, tôi nhìn thấy quán kem, ánh đèn cầu vồng chiếu rọi ánh sáng màu đỏ vào cửa hàng, vài cô gái không sợ béo đang ăn kem. Cô gái mặc bộ đồng phục màu cam đang bận rộn làm kem trong quầy bán hàng, cột tóc đuôi ngựa phía sau tung tăng theo nhịp.
Cô ấy chính là “Nhiếp Tiểu Sảnh bán kem”.
Tối nayquan1 kem này đông khách lạ thường, mãi lâu sau trước quầy kem mới có chỗ trống, cô ấy cuối cùng đã có cơ hội ngẩng đầu lên. Tôi vẫn đứng bên đường, giống như đang nhìn ngắm hình ảnh đường phố về đêm, im lặng nhìn vào đôi mắt cô ta, cứ như vậy khoảng một phút qua đi, cho tới khi cô ta nhìn thấy tôi.
Tôi vốn không quen đôi mắt với người khác, nhất là lại đồi mắt với người cách hẳn một con đượng xe cộ nườm nượp như mắc cửi. Rất nhiều chiếc xa nhấn còi lướt qua tôi và cô ta, nhưng kỳ lạ ở chỗ, ánh đèn cầu vòng góc phố vẫn cứ chiếu rọi vào mặt cô ấy, và ánh mắt cô ta rõ ràng đang chỉ dừng lại trước ánh mắt tôi.
Đèn xanh bật sáng.
Tôi ung dung đi qua đường, đến trước quầy kem. Cô lặng lẽ nhìn tôi, không hề có biểu hiện ngạc nhiên, cạnh quầy kem chẳng còn ai, tôi cố ý tạo vẻ hững hờ nói: “Lấy cho tôi một chiếc kem dâu tây”.
Cô ta lạnh lùng nhìn tôi một cái, sau đó im lặng quay đi rồi đưa kem dâu tây vào tay tôi.
“Cảm ơn”.
Tôi đứng trước quầy kem cắn một miếng nói: “Ưm, lâu lắm rồi chưa ăn thứ gì vị dâu tây”.
Rút cuộc, cô ta cũng mở miệng nói chuyện: “Anh thích ăn kem?”
“Không, rất ít ăn”. Tôi vừa nói chuyện, vừa liếm kem, “Nhưng, hôm nay ngoại lệ”.
Cô ta vẫn biểu hiện như trước, bình tĩnh nhìn tôi ăn từng chút kem một, đột nhiên nói: “Xin lỗi, anh vẫn chưa trả tiền”.
“Ngại quá”. Tôi vội vàng móc tiền ra đưa cho cô ta, có chút bối rối nói: “Khi nào cô hết giờ làm, tôi muốn nói chuyện với cô”.
“Thế thì có thể anh phài đợi rất lâu vì tôi phải đợi người tiếp ca tới”.
Tôi trả lời có vẻ bất cần: “Đợi bao lâu cũng được”.
Sau đó, tôi né sang bên cạnh quầy bán kem, dùng khóe mắt liếc nhìn cô ta đang ở trong cửa hàng.
Nhưng người tiếp ca lại tới rất sớm, cô ta đang ở trong quầy tỏ ra chán nản. Hai phút sau, cô ấy đã thay trang phục đi ra.
Vẫn là bộ quần áo đen bó, đèn cầu vồng soi rọi lên từng đường nét trên cơ thể cô. Cô cúi đầu đến bên cạnh tôi: “Hay là vẫn sang bên đối diện nhé?”
“Ừm, được thôi”.
Chúng tôi đi qua đường, bước vào quán trà nhỏ.
Sau khi ngồi xuống, cô ấy tỏ ra vẻ bình thường nói: “Trong truyện anh, anh viết chính là chỗ này sao?”
“Cái gì?”
“Trong truyện ‘Hoang thôn’, sau lần đầu tiên anh và Tiểu Chi gặp nhau, anh đã đưa cô ta tới một quán trà nhỏ gần ga tàu điện ngầm và đề nghĩ cô ấy đưa mình tới Hoang thôn”.
“Đúng, tuy là những nội dung này đều là hư cấu, nhưng quán trà nhỏ này lại là thật, thực tế là tôi thường xuyên tới đây, nhưng từ trước tới nay không hề chú ý tới cô ở đối diện”. Nói xong, tôi nhìn sang bên kia đường.
Cửa hàng kem bên đấy hiện giờ người đang xếp hàng dài trước quầy.
“Tôi tháng trước mới đến làm thuê ở đấy”.
“Xem ra chắc là cô vẫn đang đihọc? Trường nào vậy?”
Cô ta úp mở: “Thôi đi. Nhưng tôi sẽ không nói cho anh biết tôi học trường nào đâu”.
“Cô rút cuộc là ai?”
“Cái này có quan trọng không?” cô ta lảng tránh ánh mắt tôi.
“Được rồi, mặc cô không chịu nói, vậy thì tôi sẽ thay bằng một câu hỏi khác, cô thực sự biết chuyện ở Hoang thôn? Hay đó đều chỉ là hoang tưởng của cô?”
“Đường nhiên không phải”. Biểu hiện của cô ta chuyển hướng nghiêm túc lạ thường. “Tôi thề, mỗi câu nói liên quan tới Hoang thôn của tôi đều là sự thật. Hoang thôn, không phải ai cũng đùa cợt được”.
Câu cuối cùng của cô ấy khiến tôi cũng phải thừa nhận, tôi lập tức cũng trở nên nghiêm túc: “Thế thì mong cô hãy nói về miệng giếng ở Hoang thôn, rút cuộc đấy là hoang tưởng của cô sau khi đọc truyện hay là nghe đồn phong phanh thế?”
"Anh thật sự nhìn thấy miệng giếng đó rồi?”
"Đương nhiên nhìn thấy rồi, chính tại sân đằng sau của ngôi nhà cổ Tiến Sỹ Đệ. Nhưng tôi cảm thấy miệng giếng đó có một mùi rất đặc biệt, tôi không dám viết vào trong truyện”.
“Mùi đặc biệt?”
“Đúng thế, khi tôi đối diện với miệng giếng này, tôi lập túc cảm thấy rất buồn nôn, ngoài việc ngửi thấy mùi đặc biệt đó, hình như tôi còn nghe thấy một âm thanh rất kỳ quái”.
Tôi đột nhiên nhớ ra gì đó, lập tức câm nín, những câu này sao lại có thể nói trước mặt cô ta nhỉ?
Cô ta nhìn xoáy vào mắt tôi, có vẻ như là đang chờ dợi tôi nói tiếp, nhưng tôi không tiếp lời. Sau giây phút bế tắc, cô ta rút cuộc chậm rãi nói: “Tôi biết đấy là mùi đặc biệt gì rồi, mùi người chết”.
Tức khắc, lời của cô ta như băng giá đâm vào lòng tôi, khiến tim tôi bất giác loạn nhịp, đập thình thịch liên hồi. Tôi lắc đầu nói: “Cô lại cố ý hù dọa tôi đấy à?”
Cô ta lắc đầu, lạnh lùng lạ thường: “Bây giờ để tôi nói với anh bí mật của miệng giếng đó”.
“Bí mật giếng cổ?”
Nhiếp Tiểu Sảnh gật đầu nhấp môi một ngụm trà, rủ rỉ rù rì kể: ‘Vào cuối thời nhà Thanh, tuy Hoang thôn vốn là vùng đất cằn cỗi, nhưng gia tộc Âu Dương lại buôn lậu bằng đường biển và trở thành gia tộc giàu có nhất Hoang thôn. Gia tộc Âu Dương sống cuộc sống sa hoa quý tộc trong ngôi nhà cổ Tiến Sỹ Đệ, ba dãy nhà trước sau đều trang hoàng cao sang quý phái, tại vùng Hoang thôn này thì đây chẳng khác gì một cung điện. Sân sau của ngôi nhà cổ Tiến Sỹ Đệ trước đây là một vườn hoa nhỏ, bên trong trồng toàn những cây cối và hoa cỏ quý hiếm, trên mặt đất là những con đường nhỏ rải bằng đá trứng ngỗng, giữa những lùm hoa cỏ lá có những hòn đá gia sơn Thái Hồ, hàng năm vào những lúc giá lạnh nhất, cây hoa mai trong vườn lại lặng lẽ bung nở”.
“Hoa mai?” theo lời tường thuật nhẹ nhàng của cô ta, trước mắt tôi dường như đang dần hiện lên cảnh tượng của sân sau ngôi nhà cổ Tiến Sỹ Đệ.
“Anh đã nhìn thấy hoa mai nở chưa?”
“Thấy rồi. Tôi nhìn thấy trong sân đằng sau ngôi nhà cổ, đấy vốn dĩ không phải là vườn hoa nhỏ mà cô miêu tả mà chỉ là một cái sân hoang dại thê lương. Miệng giếng cổ nằm chính giữa sân, bên cạnh giếng là một cây hoa mai, vẫn còn một vài cánh hoa rơi rụng trên miệng giếng. Có lẽ là do trùng hợp, tôi đến Hoang thôn đúng vào lúc trời lạnh nhất, cây hoa mai đó dường như đợi tôi đến. Cảm giác đó thật kỳ lạ, trong sân nhỏ hoang vắng của ngôi nhà cổ, chỉ có một miệng giếng và một cây hoa mai, giống như cảnh tượng của một thời khắc khác”.
“Một thời khắc khác?” Cô ta ngẫm nghĩ rồi gật đầu, “Ví von này của anh rất hay, vậy thì hãy nói về Hoang thôn của một thời khắc khác nhé. Đầu năm Dân quốc, ông lớn của gia đình Âu Dương đã ngoài 40 tuổi, nhưng mãi vẫn chưa có người thừa kế. Lúc đó gia đình Âu Dương vốn đơn truyền, một đời chỉ có duy nhất một người con trai, ông lớn cũng không có anh em trai, gia tộc lâu đời này đứng trước nguy cơ đứt đoạn hương khói. Tuy nhiên, việc buôn bán của gia đình Âu Dương buôn may bán đắt, nghiễm nhiên là vua một vùng Hoang thôn, nhưng ông lớn Âu Dương không sao vui vẻ nổi, kết hôn đã bao năm nhưng bà vợ mãi vẫn chưa mang bầu, ngày ngày đầm đìa nước mắt. Để kế tục huyết mạch cho gia tộc Âu Dương, bà vợ cuối cùng đã nghĩ ra một cách: thế vợ”.
“Tôi nhớ ra rồi, tôi đã xem cuốn tiểu thuyết “Vì người mẹ nô lệ” của Nhu Thạch”. Phút chốc, những câu chữ trong sách hiện lên trước mắt tôi, tôi chau mày nhớ lại cuốn tiểu thuyết bi thảm. Những năm Dân quốc, vùng nông thôn phía đông Chiết Giang có một thiếu phụ bất hạnh, chồng bà cớ bạc rượu chè,con trai Xuân Bảo bị bênh 5lau6 ngày không khỏi, người chồng đã vì 100 đồng tiền tây đem vợ cho một lão học giả khát con trai “thuê”. Thiếu phụ sinh hạ cho lão học giả một thằng con trai, đặt tên là Thu Bảo, lão học giả cũng rất thích thiếu phụ này, nhưng vợ cả của lão học giả không cho phép giữ cô ta lại. Thiếu phụ chỉ có thể cô độc trở về với người chồng khiếp nhược, ôm lấy con trai Xuân Bảo đau ốm vật vờ sống qua những đêm dài…
Nhưng tôi vẫn lắc lắc đầu: “Nhưng cái này có liên qua gì tới Hoang thôn?”
Cô ta lạnh lùng thốt ra hai chữ: “Vợ thế”.
“Cô nói cái gì?”
“Truyện ‘Vì người mẹ nô lệ’ nói về phong tục ‘thế vợ’, theo một giá nhất định đem vợ cho người khác thuê, sau khi hết hạn thuê sẽ trả lại vợ cho người chống trước đây. Nhu Thạch là người vùng ven biển đông bộ Chiết Giang, lúc đó ‘thế vợ’ là tập tục thịnh hành tại vùng ven biển Chiết Giang”.
“Hoang thôn cũng là ven biển Chiết Giang, tôi đã hiểu ý cô rồi, năm đó Hoang thôn cũng thịnh hành phong tục ‘thế vợ’ quái ác này sao?”
Cô ta gật đầu: “Đúng, năm đó ông lớn Âu Dương và bà cả vì để tiếp nối hương khói của gia tộc bèn chọn ra một đôi vợ chống nông dân nghèo ở Hoang thôn. Đôi vợ chồng đó có một đứa con trai khỏe mạnh, nhưng người chồng ốm yếu bệnh tật, người vợ trẻ vất vả lo toan mọi việc trong nhà. Ông lớn Âu Dương bỏ ra 80 đồng tiền tây, và người thiếu phụ đó đã trở thành ‘vợ thế’ của ông ấy, thời gian thuê là 3 năm. Người thiếu phụ này được đưa tới ngôi nhà cổ Tiến Sỹ Đệ, ngay đêm bước vào cửa là đã phải hâu hạ chăn gối cho lão gia. ‘Vợ thế’ tuy sinh ra trong một gia đình nghèo khò, nhưng cũng có chút vốn nhan sắc trời phú, đẹp hơn rất nhiều so với bà cả trát phấn tô son đậm đà, bởi vậy ‘vợ thế’ rất được lão gia yêu thích. Một năm sau, ‘vợ thế’ quả nhiên sinh cho lão gia một cậu con trai, gia tộc Âu Dương rút cuộc cũng đã có người nói dõi”.
“Cổ nhân nói: mẹ hưởng phú quý nhờ con. Bà ‘vợ thế’ này nhất định sẽ được sống những ngày tháng tốt đẹp”.
“Làm gì có chuyện đó, sau khi sinh được con trai, bà cả liền trở mặt với ‘vợ thế’, thường xuyên đánh đập cô ta, lão gia Âu Dương vốn sợ vợ nên cũng không dám bảo vệ ‘vợ thế’. Thời gian thuê là 3 năm, ‘vợ thế’ vẫn còn ở lại trong Tiến Sỹ Đệ, bà rất nhớ chồng và con trai mình, nhưng lão gia lại không cho phép bà gặp mặt họ, ‘vợ thế’ bị nhốt trong sân sau của Tiến Sỹ Đệ, sống cuộc sống chẳng khác gì nô lệ. Bà bắt đầu nguyền rủa ngôi nhà cổ này, nguyền rủa gia tộc Âu Dương đã đem khổ nạn tới cho mình, đã mấy lần bà muốn trốn thoát khỏi Tiến Sỹ Đệ nhưng cuối cùng đều thất bại, lần nào cũng bị đánh đập thương tích đầy mình”.
Nghe đến đây, tôi bất giác thở dài: “Xem ra, bà ta còn thảm hơn cả ‘vợ thế’ trong tiểu thuyết”.
“Đúng vậy, sau đó rút cuộc tới một ngày, bà ta trốn thoát được khỏi Tiến Sỹ Đệ, tìm thấy chồng và con trai trước đây, họ muốn cùng nhau trốn thoát khỏi Hoang thôn, đi tìm tự do ở thế giới bên ngoài. Tuy nhiên, thế lực gia đình Âu Dương ở Hoang thôn rất lớn mạnh, sao có thể dễ dàng để cho ‘vợ thế’ tháo chạy như vậy. Chẳng mấy chốc, họ đã bị gia đình Âu Dương tóm gọn trên ngọn núi gần đó, người chồng đáng thương bị đánh què chân, còn ‘vợ thế’ bị áp giải về Tiến Sỹ Đệ. Bà cả từ trước vốn đã soi mói ‘vợ thế’, cho rằng ‘vợ thế’ đã không trung thành với gia đình Âu Dương trong thời gian được thuê, Hoang thôn vốn là một vùng đất bảo thủ lạc hậu, tự đặt ra hình phạt dìm xuống giếng để trừng phạt những người đàn bà bất trung.
“Dìm giếng?”
"Mặc cho lão gia Âu Dương có chút không nỡ, nhưng bà cả vốn từ lâu đã mất hết nhân tính, sai người trói chặt tay chân rồi áp giải ‘vợ thế’ tới sân sau, sau đó tự tay mình đẩy bà ta xuống giếng cổ!”
“Trời ơi!”
Đột nhiên, tôi dường như nghe thấy tiếng nước chảy, nước giếng bắn tung tóe lên thành giếng ẩm ướt,sau đó là một màu đen vĩnh cữu… Tôi ôm lấy ngực mình, mãi không thốt nổi nên lời.
“Anh sao thế?” đôi mắt ngời sáng của cô ta kề lại gần tôi chút nữa.
“Không sao cả, chỉ là câu chuyện mà cô kể bi thảm quá, tôi nghe mà thấy tức ngực”.
Cô ta bỗng nhiên cười lạnh lùng mỉa mai: “Anh không phải nhà văn sao? Viết bao nhiêu là truyện kinh dị, bao nhiêu là truyện bi thảm như thế, sao lại sợ cái này chứ?”
“Tôi chẳng hiểu thế nào nữa, chắc tại tôi là người đa sầu đa cảm”. Tôi lắc lắc đầu, cười đau khổ.
“Được rồi, về bí mật của miệng giếng cổ ở Hoang thôn tôi đã nói với anh rồi đấy”.
“Thề sau này thì sao? Miệng giếng đó không bao giờ dùng nữa sao?”
“Giếng dìm chét người thì có người nào dám uống nước trong đó không? Không chỉ là miệng giếng đó, dến cả vườn hoa nhỏ ở sân sau cũng chẳng ai dám đến, người ta truyền nhau, linh hồn chết oan của bà ‘vợ thế’ đó không siêu thoát, ban đêm thường xuyên kêu khóc ở vườn hoa”.
“Thế nên vườn hoa ở sân sau dần dần trở nên hoang tàn, chỉ còn sót lại miệng giếng và cây hoa mai”. Bỗng nhiên, tôi nhớ đến một vật gì đó rất khủng khiếp, “Thảo nào, cây hoa mai đó nở rộ và tươi đẹp một cách khác thường, nguyên nhân là do ‘vợ thế’ dưới đấy giếng”.
Nói đến đây, bản thân tôi cũng có chút sợ hãi.
“Đừng có đa sầu đa cảm quá, bây giờ anh đã tin tôi rồi chứ?”
“Đây chính là bí mật của Hoang thôn?”
“Đường nhiên không phải, đây chỉ là một phần nhỏ của bí mật. Đối với những người như chúng ta mà nói, Hoang thôn vĩnh viễn là một câu đố”.
“Ý cô bảo: Hoang thôn vẫn còn có rất nhiều bí mât quan trọng khác nữa?”
Cô ta trịnh trọng gật đầu: “Anh vĩnh viễn không bao giờ có thể tưởng tượng nổi, bí mật của Hoang thôn đáng sợ tới mức nào”.
Tôi bán tín bán nghi hỏi: “Thật sự đáng sợ thế nào?”
Cô ta nhìn chằm chằm vào mắt tôi một lúc, đột nhiên đứng phát dậy: “Xin lỗi, tôi phải đi đây”.
“Nhưng cô vẫn chưa trả lời câu hỏi của tôi cơ mà?” Tôi có chút bất ngờ.
“Đợi lần sau nhé, tôi sẽ trả lời tất cả các câu hỏi của anh”. Cô ta miệng nói còn chân thì đã bước ra tới cửa quán trà.
“Hôm nay thật sự muộn quá rồi, tôi phải về nhà đây”.
Trên đường Thiểm Tây Nam, cách đó không xa, đường Hoài Hải vẫn đen hoa sáng trưng, chiếu sáng khuôn mặt của Nhiếp Tiểu Sảnh.
Rút cuộc, tôi đã không kìm nén được gọi một tiếng: “Tiểu Sảnh”.
Cô ta quay đầu lại, nhìn tôi bằng ánh mắt hết sức kỳ quái.
“Xin lỗi, tôi có thể gọi cô như vậy không?”
Cô ấy ngừng lại một lúc lâu sau mới nói: “Đương nhiên có thể”.
“Cô sống ở đâu? Tôi đưa cô về nhé”.
“Đừng, nhất định không được…”, lời nói của cô ta bỗng nhiên đứt đoạn, hình như là nhớ ra điều gì đó, “Nhớ kĩ, tối nay không được nghe điện thoại”.
“Ý cô là gì?”
Nhưng Tiểu Sảnh không trả lời, cô vội vàng len vào dòng người đang đi trên phố, chẳng mấy chốc chìm nghỉm giữa nam thanh nữ tú trên đường Hoài Hải.
Tôi không thể nhìn thấy cô nữa, một mình đứng ven đường, cơn gió đêm lành lạnh thổi qua bất giác khiến tôi nhớ lại câu chuyện “vợ thế”.
Trên đường về nhà, tôi hồi tưởng đi hồi tưởng lại câu nói của Tiểu Sảnh, còn cả hình ảnh của miệng giếng đó nữa. Không, có lẽ đấy chỉ là do cô ấy tưởng tượng ra, có thể là do cô ta sau khi xem xong truyện ngắn Hoang thôn của tôi đã liên tưởng tới tiểu thuyết của Nhu Thạch rồi đem tình tiết của “Vì người mẹ nô lệ” đặt vào hoàn cảnh của Hoang thôn và Tiến Sỹ Đệ, thêu dệt nên câu chuyện đáng sợ về Hoang thôn và "vợ thế”.
Nhưng miệng giếng đó thật sự tồn tại mà? Còn cả cây hoa mai đó nữa, tôi chưa từng nói với bất kỳ ai. Hơn nữa, ánh mắt cô ta nói cho tôi biết, từng câu cô ta nói đều rất chân thật, dáng vẻ của cô ấy thật sự không giống kẻ quấy rối.
Không, tôi không nên bị vẻ ngoài của cô ta lừa dối, có trời mới biết được cô ta có thể nói những gì?
Cỏ đường suy nghĩ mông lung, cuối cùng cũng về được đến nhà. Đã không còn sớm nữa, tôi thấy mình vô cùng mệt mỏi, chưa kịp bật máy tính tôi đã đi ngủ.
Dù là ngủ trên giường nhưng tôi vẫn cảm thấy thấp thỏm bất an, trằn trọc trở mình mãi vẫn chưa ngủ được. Không biết bao lâu saum tôi thấy mình càng lúc càng khó chịu, trong lòng âm thầm đếm cừu.
Một con cừu, hai con cừu… một trăm con cừu…
Điện thoại đột ngột đổ chuông!
Tôi theo phản xã bật dậy khỏi giường, trong đêm tối tôi mở to mắt, hình như nhìn thấy vật gì đó. Lúc này tôi mới định thần lại, trong tức khắc tất cả số cừu đều biến mất, chỉ còn lại tiếng chuông điện thoại vang vọng bên tai.
“Đêm nay không được nghe điện thoại”.
Đột nhiên, tôi nhớ lại câu nói cuối cùng của cô ta trước khi tạm biệt, chắc không phải là điện thoại của cô ta gọi tới đâu nhỉ?
Nghĩ tới đây, tôi lập tức nghe máy: “Tiểu Sảnh, là cô à?”
Nhưng tôi không thể ngờ tới, trong điện thoại truyền lại một giọng nam.
“Không, tôi là Hoắc Cường”.
“Hoắc Cường?” là chàng sinh viên tới Hoang thôn, nghe thấy cái tên này, bản nửa tim tôi cũng lập tức lạnh toát, nhưng tôi vẫn cố ý trấn tĩnh hỏi: “Các cậu ở đâu?”
“Bọn tôi đã về Thượng Hải rồi?”
“Về sớm thế sao?”
Tin này khiến tôi vô cùng bất ngờ, họ đã trở về Thượng Hải rồi, tôi đáng nhẽ ra phải cảm thấy vui mừng thay họ mới đúng, nhưng tôi lại không thốt ra được bất cứ câu hỏi vui vẻ nào.
“Đúng thế, chúng tôi đang xuống xe ở bên xe khách đường Hán Trung, bây giờ chuẩn bị ngồi xe về trường học”.
Tôi nghe thấy có rất nhiều tiếng còi xe trong điện thoại, chắc là đang ở bến xe thật.
“Bốn người các cậu đều không có chuyện gì chứ?”
Hoắc Cường trầm ngâm một lúc mới chậm rãi nói: “Không… không việc gì, mọi người đều rất bình an”.
Trái tim treo ngược rút cuộc cũng được hạ xuống, tôi thốt ra một câu mà nhẹ cả người: “Bình an thì tốt rồi, tôi đã khuyên các cậu về sớm. Được rồi, bây giờ về trường nhanh đi”.
Đối phương im lặng, tôi chỉ nghe thấy tiếng người và tiếng xe cộ ồn ào.
Tim tôi đột nhiên co thắt lại: “Alô, các cậu sao thế? Nói gì đi chứ?”
Nhưng trong điện thoại vẫn không có hồi âm, tôi chờ đợi mấy phút rồi ngắt máy.
Kỳ lạ, sao đằng sau lưng lại chảy bao nhiêu là mồ hôi?
Trong bóng tối, tôi mò mẫm bật đèn, bảy giờ là 12 giờ đêm. Tức là bốn sinh viên đó đã đi cả đêm từ Hoang thôn để về Thượng Hải.
Tôi thở một hơi thật dài, bỗng nhiên nhớ tới Tiểu Sảnh, cô ta nói đêm nay không được nghe điện thoại, chắc là nói về cú điện thoại này, nhưng tại sao Tiểu Sảnh lại biết được?
Tôi lắc lắc đầu, thật là không cách nào có thể giải thích nổi. Tôi lại tắt đèn nằm xuống.
Cầu cho tất cả bọn họ đều bình an.