Plato Và Con Thú Mỏ Vịt Bước Vào Quán Bar

Những Khác Biệt Về Mặt Thần Học

Trong khi các triết gia về tôn giáo băn khoăn với Những Câu hỏi Lớn, như “Có Chúa không?” thì các nhà thần học có con cá bé hơn để cho lên chảo, thường là vào Mùa Chay.

___oOo___

Theo triết gia và nhà thần học thế kỷ hai mươi Paul Tillich, khác biệt giữa một triết gia về tôn giáo và nhà thần học không chỉ ở kích thước của con cá. Ông nói, triết gia truy cầu sự thật về Chúa và những gì liên quan đến Chúa một cách khách quan nhất có thể, trong khi nhà thần học hoàn toàn “sống trong đức tin”, gắn bó và phó thác mình cho Thiên Chúa. Nói cách khác, triết gia tôn giáo nhìn Chúa và tôn giáo từ bên ngoài, trong khi nhà thần học nhìn từ bên trong.

***

Trong thần học, sự ly giáo đã khơi ra những chủ đề bức thiết như “Chúa Thánh Thần phát xuất từ Chúa Cha hay từ Chúa Cha Chúa Con?” Người ngoại đạo rõ ràng cần được chỉ dẫn đơn giản về những khác biệt thần học, và ơn Chúa, những tay hài hước luôn sẵn sàng giúp đỡ. Té ra, mấu chốt để xác định niềm tin tôn giáo của một người là ở chỗ anh ta thừa nhận hoặc không thừa nhận ai:

Người Do Thái giáo không thừa nhận Jesus.

Người Tin lành không thừa nhận Giáo hoàng.

Người Báptít không thừa nhận nhau trong quán rượu.

Điểm cuối cùng trong các nhận xét ở trên dẫn đến một số lời khuyên hết sức thực tế. Nếu bạn định tổ chức đi câu cá, đừng mời người Báptít; anh ta sẽ nốc sạch bia của bạn. Nhưng nếu bạn mời hai người Báptít, bia của bạn sẽ còn nguyên.

Một cách khác để phân biệt tín đồ các tôn giáo khác nhau, là xét xem hành vi nào xác định một người mắc tội báng bổ. Đối với người Công giáo, đó là bỏ lễ ban thánh thể. Đối với người Báptít, đó là khiêu vũ. Đối với những tín đồ nhà thờ Tân giáo, đó là dùng salad bằng chiếc nĩa dùng để ăn bánh ngọt.

Nhưng nếu nghiêm túc thì, các bạn ạ, các tôn giáo khác nhau có những khác biệt giáo thuyết quan trọng. Chẳng hạn, chỉ có người Công giáo tin vào sự Thụ thai Trinh nguyên, thứ giáo thuyết cho rằng để có thể hạ sinh Chúa, bản thân bà Mary sinh ra đã vô nhiễm Nguyên Tội.

Jesus đang đi trên phố thì trông thấy một đám đông quây lại để ném đá một người đàn bà ngoại tình. Jesus nói, “Hãy để kẻ nào vô tội ném hòn đá đầu tiên.” Bất chợt một hòn đá bay vụt qua trên không trung. Jesus ngoảnh lại hỏi,”Mẹ hả?”

Được ưa thích nhất trong mọi thể loại truyện cười về các tôn giáo đương nhiên là các truyện cười Chống Cải cách Tôn giáo. Hẳn trong bộ sưu tập truyện cười hay nhất về chủ đề này của bạn cũng phải có câu chuyện dưới đây:

Một người trong tình trạng tài chính cực kỳ ngặt nghèo cầu xin Chúa cứu giúp bằng cách cho anh ta trúng xổ số.

Nhiều ngày, rồi nhiều tuần trôi qua nhưng anh ta vẫn chưa trúng lần nào. Cuối cùng, anh ta kêu lên với Chúa trong cơn khốn khổ, “Người đã bảo chúng con, ‘Hãy gõ rồi cửa sẽ mở, hãy tìm rồi ngươi sẽ thấy.’ Con đã cùng đường rồi mà vẫn chưa trúng xổ số được lần nào!”

Một giọng nói từ trên cao trả lời, “Con mới đi nửa đường đến gặp ta thôi, con yêu! Hãy mua một tấm vé số!”

Anh chàng trong câu chuyện chắc chắn là theo Tin lành, giống Martin Luther, cho rằng tất cả chúng ta được cứu giúp chỉ nhờ ân sủng; chúng ta chẳng thể làm gì để nhận được sự cứu rỗi. Mặt khác thì Chúa, dẫu đã thốt lên hai chữ “con yêu”, lại đang bận tiếp sức cho phong trào Chống Cải cách của người Công giáo. Thật ra, câu chuyện trên có khả năng đã ra đời từ Công đồng Trent năm 1545, khi các giám mục quyết định rằng cứu rỗi diễn ra thông qua sự kết hợp giữa ân sủng và các hành động của chúng ta - đó là cầu nguyện và mua một tấm vé số.

Tuy nhiên, tất cả các tôn giáo đều có một điểm chung: tín đồ của tôn giáo nào cũng tin rằng chỉ có giáo lý của họ mới là con đường nhanh nhất dẫn đến thần linh.

Một linh hồn bay tới cổng thiên đường. Thánh Peter hỏi, “Tôn giáo?”

Linh hồn đáp, “Giám Lý”. Thánh Peter nhìn xuống danh sách rồi nói, “Đến phòng hai mươi tám, nhưng phải thật im lặng khi đi qua phòng số tám.”

Một linh hồn khác bay tới cổng thiên đường. “Tôn giáo?”

“Báptít.”

“Đến phòng mười tám, nhưng phải thật im lặng khi đi qua phòng số tám.”

Linh hồn thứ ba đến cổng thiên đường. “Tôn giáo?”

“Do Thái giáo.”

“Đến phòng mười một, nhưng phải thật im lặng khi đi qua phòng số tám.”

Lính hồn bèn hỏi, “Tôi hiểu rằng có những phòng khác nhau cho các tôn giáo khác nhau, nhưng tại sao tôi phải im lặng khi đi qua phòng số tám?”

Thánh Peter đáp, “Các Chứng nhân Jehovah ở phòng số tám, và họ nghĩ họ là những người duy nhất trên thiên đường này.”

Nghe nói triết gia Đức thế kỷ mười chín Arthur Schopenhauer đã khám phá Phật giáo trên phương diện triết học. Giống như Đức Phật Thích Ca cách đây hai thiên niên kỷ, Schopenhauer cho rằng toàn bộ cuộc sống chỉ là khổ đau, tranh đấu và thất vọng, và con đường giải thoát duy nhất là từ bỏ, vứt bỏ mọi ham muốn và khước từ ý chí sống. Mặt tốt là cả hai đều nghĩ rằng từ bỏ sẽ dẫn đến lòng từ bi đối với chúng sinh và thánh thiện. Điều này giống như một sự thỏa hiệp.

Có vô khối truyện cười Do Thái chế giễu những người bi quan quá mức và ưa than vãn theo lối Schopenhauer.

Hai phụ nữ ngồi trên ghế dài. Lát sau, bà thứ nhất nói, “Ôiii!”

Bà thứ hai đáp lại, “Ôiii!”

Bà thứ nhất nói, “Thôi được, nói đến lũ trẻ thế là đủ rồi.”

Đối với cả Arthur Schopenhauer và Đức Phật, cuộc sống là một cái vòng quay bất tận của thất vọng và buồn chán. Khi ta không có thứ ta muốn, ta thất vọng. Khi có thứ ta muốn rồi, ta buồn chán. Và đối với cả Arthur lẫn Thích Ca, thất vọng tồi tệ nhất chính là khi chỉ thiếu một bước nữa là đến được sự giải thoát.

Ngày xửa ngày xưa có một chàng hoàng tử, mặc dầu chẳng có tội tình gì, nhưng vẫn bị một mụ phù thủy độc ác phù phép. Theo lời nguyền của mụ phù thủy, mỗi năm hoàng tử chỉ được phép nói một từ. Tuy nhiên, chàng có thể để dành, và nếu trong suốt một năm chàng không nói năng gì thì năm sau chàng có thể nói hai từ.

Một hôm chàng gặp một nàng công chúa xinh đẹp và yêu nàng chết mê chết mệt. Chàng quyết định cố nhịn nói trong hai năm để có thể gặp nàng và nói hai tiếng, “Em yêu.”

Hết hai năm chàng lại muốn nói với nàng rằng chàng yêu nàng, nên quyết định đợi thêm ba năm nữa, tổng cộng là năm năm im lặng. Thế nhưng hết năm năm, chàng biết rằng chàng phải ngỏ lời cầu hôn với nàng, nên chàng cần đợi thêm bốn năm nữa.

Khi năm thứ chín im lặng rốt cuộc cũng trôi qua, chàng dĩ nhiên rất đỗi vui mừng. Chàng dắt công chúa đến nơi lãng mạn nhất trong vườn ngự uyển, quỳ xuống trước mặt nàng thốt lên, “Em yêu, anh yêu em. Mình cưới nhau nhé?”

Công chúa đáp, “Gì cơ?”

Đó chính là loại câu trả lời mà Schopenhauer có lẽ đã chờ đợi.

Đầu thế kỷ thứ sáu và bảy Công nguyên, người Trung Hoa và người Nhật Bản đã phát triển một nhánh Phật học mà ngày nay đang phục sinh, Thiền tông. Trong nhãn quan của tư duy phương Tây, triết học Thiền tông là một thứ phản triết học. Đối với thiền sư, lý trí, logic, dữ liệu cảm tính, tất cả những thứ là nền móng để xây dựng triết học phương Tây, chỉ là những ảo ảnh và làm ta xao lãng khỏi giác ngộ tối hậu. Vậy một người trở nên giác ngộ như thế nào?

Ta hãy xem xét hai câu hỏi sau đây:

  • Một con vịt khác nhau thế nào?
  • Tiếng vỗ của một bàn tay như thế nào?

Cả hai câu hỏi cùng dẫn đến thứ phản ứng phải kinh ngạc thốt lên “Cái gìììì kia???” trong giới triết gia. Họ không thể xem xét được. Chúng ta đơn giản không nhận thức nổi câu trả lời có thể là gì. Nhưng trong khi câu hỏi đầu có vẻ ngờ nghệch vô nghĩa thì câu thứ hai là một công án (koan) Thiền kinh điển.

Khoảng giữa thế kỷ 10, Thiền tông bắt đầu dùng công án như phương tiện để giáo hóa, và các thiền sinh sử dụng chúng làm đối tượng quán tưởng trong lúc thiền. Vì lời giải của công án thường nằm ngoài lý luận, nên thiền sinh thấy rõ giới hạn của tư duy và bị buộc phải chuyển hóa tâm thức bằng một bước nhảy của trực giác, nhảy qua khỏi sự mâu thuẫn của lý luận nhị nguyên. Với tâm thức này, thiền sinh có một kinh nghiệm trực tiếp về thể tính.

Công án trong tiếng Nhật gọi là “koan”, tiếng Trung quốc gọi là “Kung an”

Công án là câu đố hay câu chuyện có khả năng gây sốc, đưa môn đệ vào một trạng thái ý thức gọi là satori (đốn ngộ) mà thiền sư kể cho môn đệ của mình. Trong trạng thái ý thức này, tất cả những phân biệt thị phi và các giá trị của thế giới thường hằng tan biến, để lại con người một mình với một niềm cảm kích sâu xa về tính đồng nhất của vũ trụ và tất cả những trải nghiệm trong vũ trụ ấy. Đáp án Thiền cho công án tiếng-vỗ-một-bàn-tay không phải là cái gì đó có thể hiểu theo nghĩa đen và khoa học, kiểu như “tiếng động êm ái của không khí sinh ra do một bề mặt phẳng chuyển động”. Không, đáp án Thiền giống với tiếng kêu kinh ngạc “Ô!” hơn. Các công án đưa thẳng chúng ta đến giác ngộ bằng cách xáo tung tâm thức chúng ta với những ý niệm không thể nào có được. Thoát ra ngoài chúng, và, hốt nhiên, bạn đã đốn ngộ.

Công án ưa thích của mọi người là:

Trước khi tôi tìm ngộ, núi là núi và sông là sông.

Trong khi tôi tìm ngộ, núi không là núi và sông không là sông.

Sau khi tôi đốn ngộ, núi vẫn là núi và sông vẫn là sông.

Người phương Tây có thể hiểu tư tưởng chung rằng giác ngộ không phải là vấn đề đạt tới một trạng thái ý thức xa xăm nào đó. Điều mà chúng ta khó nhận thức được, và cấu thành cốt lõi công án về núi, là làm sao trạng thái ý thức được soi sáng lại có thể đồng thời vừa là bình thường, vừa là siêu nghiệm. Bạn có thể hoặc cảm nhận được trạng thái này, hoặc không, và phần đông người phương Tây không cảm nhận được.

Từ đây nảy ra câu hỏi là liệu câu đố cổ về sự-khác-nhau-giữa-một-con-vịt có thể được xem là một dạng công án phương Tây hay không. Nói cho cùng, nó dựa trên sự phi logic và phi lý, nó làm rối loạn lý trí. Nhưng xét những đáp án cho câu đố này - một phép thử gay go để nó trở thành công án - câu trả lời phải là không. Chúng ta thấy người ta nhoẻn cười, thậm chí cười ha hả, nhưng không phải là đốn ngộ.

Than ôi, đó có thể là một vấn đề văn hóa, phần lớn người phương Tây thường không lĩnh hội nổi cái ý niệm phương Đông rằng nếu anh không thể lĩnh hội một điều gì đó, anh đang trên đường đến giác ngộ. Vì thế chúng ta đành bị bỏ lại với thứ công án giả, khập khiễng như sau:

Nếu anh có một que kem, tôi sẽ đưa nó cho anh.

Nếu anh không có que kem nào, tôi sẽ lấy nó khỏi anh.

Đó là công án que kem.

___oOo___

Những công án đáng ghi nhớ nhất đã trở thành một phần của tri thức Thiền, truyền từ đời này sang đời khác. Chẳng hạn, Huệ Năng, vị tổ thứ sáu của Thiền ở thế kỷ bảy, đã hỏi một câu nổi tiếng: “Bản lai diện mục của ngươi trông như thế nào lúc ngươi chưa sinh ra?” Phil Jackson, huấn luyện viên của Los Angeles Lakers, biệt danh “Thiền sư”, góp thêm: “Nếu các anh gặp Phật trên đường biên, hãy cho ông ấy xơi bóng.”

***