Phía Nam Biên Giới, Phía Tây Mặt Trời

Chương 15

Tôi về đến Tokyo vào lúc bốn giờ chiều. Tôi đã đợi ở Hakone cho đến trưa trong niềm hy vọng mơ hồ được thấy Shimamoto-san trở lại. Vì thật nặng nề nếu phải ngồi không mà chờ đợi, tôi đã lau chùi bếp để giết thời gian, rồi sắp xếp gọn gàng lại tất cả quần áo trong nhà. Sự im lặng thật nghẹt thở; chỉ có tiếng chim hót hoặc tiếng xe chạy qua thỉnh thoảng vẳng đến khuấy động, không tự nhiên và không ăn nhập vào nhau. Tôi đợi xảy ra một điều gì đó. Cần phải xảy ra một điều gì đó. Mọi chuyện không thể kết thúc như vậy được.

Tuy nhiên, không có gì xảy ra. Shimamoto-san không thuộc loại người thích xem xét lại một quyết định, thay đổi sau một lúc. Nếu nàng gọi điện cho tôi- điều này thì tôi biết là không thể có – thì sẽ là đến câu lạc bộ jazz. ở lại Hakone lâu hơn không có chút ý nghĩa nào hết.

Suốt dọc đường về, tôi phải tự buộc mình chú mục vào đường đi. Nhiều lần, tôi vượt qua đèn đỏ, đi quá chỗ rẽ, nhầm đường. khi cuối cùng đỗ được xe vào bãi đỗ của quán, tôi đến thẳng đến một cabin điện thoại gọi điện về nhà. Tôi thông báo với Yukiko là tôi đã về, nhưng phải làm việc ngay. Cô không bình luận gì về điều đó, nhưng nói với giọng khá ráo hoảnh rằng đã muộn rồi và cô lo lắng vì không thấy tôi về vào buổi sáng như đã hứa.

-Lẽ ra anh phải gọi điện chứ, cô nói.

-Không có chuyện gì đâu, em không cần phải lo lắng, tôi trả lời, trong lòng tự hỏi không biết giọng của mình như thế nào. Anh không có thời gian đảo qua nhà, anh phải đến văn phòng kiểm tra sổ sách rồi đến quan.

Tôi đến văn phòng, và ngồi đó không làm gì cả cho đến khi bóng tối buông xuống. tôi nghĩ đến những sự việc ngày hôm qua. Tôi đã ngủ thiếp đi, nhưng hẳn là Shimamoto-san không hề chợp mắt. Nàng đã dậy và rời khỏi nahf vào trước lúc bình minh. Nhưng nàng làm thế nào để về được Tokyo? Ngôi nhà khá xa đường cái, không hề dễ đàng để đi từ vùng đồi Hakone ra đến đường cái và tìm được một chiếc taxi hoặc xe bus vào sáng sớm như vậy. Hơn thế nữa, nàng lại đi giày cao hót.

Điều gì đã thúc đẩy nàng chạy trốn như thế? Tôi đã nghĩ đi nghĩ lại về điều đó suốt trên đường về. Tôi đã nói với nàng là tôi chấp nhận toàn bộ con người nàng, nàng cũng đã khẳng định điều tương tự. Chúng tôi đã làm tình với nhau không chút e ngại ngượng ngùng. Thế mà nàng bỏ tôi lại, nàng bỏ đi một mình, không một lời giải thích. Thậm chí nàng còn cầm cái đĩa nhạc đã tặng tôi đi theo. Tôi cố sức tìm vài giả thuyết về ý nghĩa các hành động đó của nàng. Hẳn là phải có một ý nghĩa, một lý do cho tất cả những điều đó. Shimamoto-san không phải là người hành động theo một bản năng bất chợt. Tôi không sao xem xét được vấn đề một cách kỹ càng. Sợi chỉ nối những suy nghĩ của tôi bị cắt đức, không một tiếng động. Một cơn đau nửa đầu quay trở lại, âm ỉ, mỗi khi tôi cố sức suy nghĩ. Tôi nhận ra rằng mình đã kiệt sức. Tôi từ chối suy nghĩ, tôi nhớ đi nhớ lại tất cả những sự kiện của ngày hôm trước, như một cuốn băng video quay lại không ngừng. Tôi nghĩ đến cơ thể Shimamoto-san. Cơ thể không quần áo nằm gần lò sưởi. Cổ nàng, ngực nàng, hông nàng, đám lông kín, âm hộ, lưng, eo, chân của nàng. Tất cả những hình ảnh đó quá gần gũi, quá rõ nét. Đôi lúc, tôi thấy chugns còn gần gũi, còn rõ nét hơn thực tế ở xung quanh tôi.

Cuối cùng tôi không chịu đựng nổi những ảo ảnh gào thét của sự thật đang vây bủa lấy tôi trong cái văn phòng nhỏ xíu này nữa. tôi đi ra khỏi tòa nhà, đi lang thang vô định. Rồi tôi đến quán bar, vào phòng vệ sinh cạo râu. Thậm chí từ sáng đến giờ tôi còn chưa rửa mặt. Và tôi vẫn mặc chiếc áo parka của ngày hôm qua. Các nhân viên không có nhận xét gì, nhưng thỉnh thoảng lại liếc nhìn tôi đầy tò mò. Tôi không muốn về nhà thay quần áo. Nếu gặp Yukiko, có khả năng tôi sẽ kể hết mọi chuyện cho cô: rằng tôi yêu Shimamoto-san, rằng tôi đã ngủ với nàng, rằng tôi đã suýt nữa bỏ tất cả vì nàng, cả gia đình tôi, các con tôi, công việc của tôi, tất cả.

Liệu tôi có phải thú nhận với Yukiko về những chuyện xảy ra không? Tôi không thể làm như thế được. tôi không đủ sức phán xét điều gì là nên hay không. Thậm chí tôi còn không hiểu nổi điều gì đã xảy đến với tôi. Cho nên tôi không về nhà. Tôi đến quán bar, và chờ đợi Shimamoto-san. Tôi biết rất rõ rằng không có chút cơ may nào để nàng đến, nhưng tôi không thể làm gì khác ngoài chờ đợi. Tôi ngồi ở quầy bar, và chờ đợi trong vô vọng cho đến giờ đóng cửa. Tôi nói chuyện một chút, như thường lệ, với mấy khách quen. Nhưng tôi không nghe thấy một lời nào mà họ nói với tôi. Tôi gật đầu, ngắn gọn đồng ý với tất cả, trong đầu vẫn nghĩ đến cơ thể Shimamoto-san. Tôi còn nhớ âm hộ nàng đã đón nhận tôi mềm mại như thế nào, cách nàng gọi tên tôi vào lúc đó. Và, mỗi lần điện thoại đổ chuông, tim tôi lại nảy lên trong lồng ngực.

Ngay cả khi quán đã đóng cửa và mọi người đã ra về, tôi vẫn ngồi lại ở quầy bar và tiếp tục uống. Mặc cho số lượng rượu uống vào người, tôi vẫn không sao say nổi. Ngược lại, tâm trí tôi mỗi lúc một sáng rõ hơn. Đồng hồ chỉ hai giờ sáng. Tôi về nhà, gặp Yukiko vẫn thức đợi. Lẽ ra phải đi nằm, tôi lại ngồi ở bàn bếp trước một chai whisky; Yukiko đến chỗ tôi cùng với một cái cốc và uống với tôi.

-Bật nhạc đi, cô nói.

-Tôi bật cái băng đầu tiên tìm thấy, bật nó thật nhỏ để không đánh thức bọn trẻ. Sau đó, chúng tôi im lựng uống một lúc, mỗi người ngồi ở một góc bàn bếp.

-Anh yêu một người phụ nữ khác phải không? Yokiko chăm chú nhìn tôi, hỏi.

Tôi gật đầu. “Hẳn là Yukiko đã phải nhắc đi nhắc lại câu nói đó trước khi thốt ra lời”, tôi tự nhủ. Những từ đó có một trọng lượng và đường viền rất rõ nét. Tôi cảm thấy điều đó trong giọng nói của cô.

-Và anh thật sự yêu cô ấy, đó không phải là một cuộc tình thoáng qua, phải không?

-Đúng thế. Đó không phải là một cuộc tình thoáng qua. Nhưng hơi khác với những gì em nghĩ.

-Anh biết em nghĩ gì à? Anh tin là thực sự  biết em nghĩ gì à?

Tôi không trả lời. tôi không thể nói được gì. Yukiko cũng im lặng trở lại. Chỉ có âm nhạc tiếp tục. Vivaldi hoặc Telemann, cái gì đó tương tự. Tôi không sao nhớ được chính xác giai điệu.

-Em-chắc-chắn-là-anh-không-biết-những-gì-em-nghĩ, cuối cùng Yokiko cũng nói tiếp, phát âm tách bạch từng từ như cô vẫn thường làm khi giải thích điều gì đó với các con.

Mắt cô không rời khỏi tôi, nhưng khi chắc chắn là tôi sẽ không nói gì, cô cầm lấy cái cốc và uống một ngụm whisky. Rồi cô chầm chậm lắc đầu.

-Anh cũng biết là em không hề ngu ngốc. Em sống với anh, em ngủ với anh. Em đã hiểu ra điều đó được một thời gian, rằng anh có một người phụ nữ khác.

Tôi nhìn cô không nói gì.

-Em không trách gì anh hết. Khi người ta bắt đầu yêu một người, thì là như thế đấy, không thể làm gì cả. Người ta yêu người mà người ta yêu. Em không đủ cho anh, chỉ vậy thôi. Em có thể hiểu được điều đó, theo cách của em. Cho đến giờ mọi chuyện giữa chúng ta đều rất tốt đẹp, anh lúc nào cũng đối xử tốt với em. Em rất hạnh phúc với anh. Và em nghĩ rằng, ngay cả bây giờ vẫn vậy, anh vẫn còn yêu em. Nhưng em không đủ cho anh. Em biết điều đó, theo một nghĩa nào đó. Em biết là một ngày nào đó sẽ có một chuyện tương tự xảy ra. Chính vì thế mà em không trách anh đã yêu một người khác. Thậm chí nói thật em còn không thấy giận dữ. Thật là lạ, điều đó còn không làm em tức tối. Chỉ rất nặng nề để chịu đựng thôi. Vô cùng nặng nề, Em đã từng nghĩ là sẽ rất khó để trải qua khi nào điều đó xảy đến, nhưng nó vẫn vượt quá sự tưởng tượng của em.

-Anh rất tiếc, tất cả là lỗi của anh, tôi nói.

-Anh không cần phải xin lỗi. Nếu anh muốn bỏ em, anh có thể làm thé. Không cần nói gì.

-Anh có muốn chúng mình bỏ nhau không?

-Anh không biết. em có muốn nghe những lời giải thích của anh không?

-Giải thích? Về người phụ nữ đó?

-Phải.

Yokiko lắc đầu.

-Em không muốn nghe gì về người phụ nữ đó. Anh đừng làm cho hoàn cảnh của em trở nên nặng nề hơn nữa. Em không thèm quan tâm đến kiểu quan hệ mà anh có với cô ta, những gì hai người đã làm với nhau. Điều quan trọng với em là anh có ý định bỏ em hay không. Em không muốn gì hết, nhà và tiền đều không. Nếu anh muốn có lũ trẻ, em cũng sẽ để chúng cho anh nuôi. Thật đấy, em hết sức nghiêm túc. Thế nên, nếu anh muốn bỏ em, chỉ cần nói với em: “anh bỏ em”. Đó là tất cả những gì quan trọng với em. Anh có muốn chúng ta bỏ nhau không?

-Anh không biết, tôi nhắc lại.

-Anh không biết là anh muốn bỏ em hay không à?

-Không, anh không biết liệu có khả năng trả lời em hay không.

-Khi nào thì anh sẽ biết?

Tôi lắc đầu.

-Được rồi, Yokiko thở dài, anh cứ suy nghĩ đi. Em sẽ đợi, đừng lo. Cứ suy nghĩ đi trước khi quyết định.

Kể từ đêm đó, tôi ngủ trên sofa phòng khách. Có lúc lũ trẻ dâh vào buổi đêm; lần đầu tiên thấy tôi ở đó, chúng hỏi tôi đang làm gì. Tôi giải thích thời gian gần đây tôi ngáy to nên thôi thích ngủ ở đây để không đánh thức mẹ chúng. Đôi khi, một trong hai đứa chui vào dưới chăn ngủ với tôi. Tôi ôm nó vào lòng. Cũng có lúc tôi nghe tiếng Yokiko khóc trong phòng ngủ.

Trong khoảng hai tuần, tôi sống trong những kỷ niệm. Tôi trôi nổi bất tận trong những gì đã trảu qua với Shimamoto-san trong cái đêm đầu tiên và duy nhất với nhau, cố sức tìm thấy ở đó một đấu vết quan trognj, một thông điệp nào đó. Tôi thấy lại Shimamoto-san trong vòng tay tôi. Tô nghĩ đến bàn tay của nàng luồn xuống dưới cái jupe trắng. Tôi nhơ sbaif hát cảu Nat King Cole, ánh sáng của lò sưởi. Tôi nhớ từng lời nàng nói.

“Vừa nãy em đã nói rồi, em không biết đến những biện pháp nửa vời, Shimamoto-san nói với tôi trong trí nhớ. Ở em không có trung gian nào cả: em khôgn hề biết nơi nào là chỗ đúng đắn…

-Anh đã quyết định rồi. Trong khi em vắng mặt, anh đã suy nghĩ rất kỹ về tất cả những cái đó. Và anh đã quyết định rồi, từ sâu thẳm trái tim anh.”

Tôi nhớ cái nhìn chăm chú của nàng trong khi tôi lái xe. Tôi cảm thấy cái nhìn đó, đắm chìm một điều gì đó dữ dội, giờ đây vẫn còn ghì sâu lên má tôi. Tôi cảm thấy rõ ràng rằng đó còn hơn là một cái nhìn, nó giống như dấu hiệu của cái chết bay lơ lửng xung quanh nàng ở trong thế giới đó. Khi ấy, nàng đã thật sự muốn chết. Nàng đã đến tận Hakone cùng tôi để chết cùng tôi ở đó.

“Và cả em nữa, rất có thể, em sẽ chấp nhận toàn bộ con người anh. Toàn bộ, anh có hiểu không? Anh có hiểu như thế nghĩa là gì không?”

Khi nói điều đó, nàng đang đòi hỏi cả cuộc đời tôi. Giờ đây thì tôi hiểu hoàn toàn. Cứ như thể tôi đã đi đến một kết luận cuối cùng về hai chúng tôi, còn nàng thì có kết luận riêng của mình. Tại sao mình không hiểu được điều đó sớm hơn? Nàng hẳn là đã thực sự có ý định đánh mạnh tay vào vôlăng để chúng tôi cùng chết trên đường về, trên đường cao tốc, sau đêm tình ái Hakone. Chết cùng với tôi là điều duy nhất có thể. Hẳn là nàng không có lựa chọn nào khác. Nhưng điều gì đó đã ngăn cản nàng thực hiện sự định của mình. Nàng đã giấu kín tất cả vào sâu thẳm con người mình, rồi biến mất.

Điều gì trong cuộc đời nàng đã khiến nàng không còn lựa chọn nào khác ngoại lựa chọn đó? Tôi tự hỏi không ngừng. Nàng đã bị dồn vào cuối ngõ cụt nào? Lý do nào, bằng cách nào, vì mục đích gì, cái gì và nhất là ai đã đẩy nàng đến chỗ đó? Tại sao cái chết lại là giải pháp duy nhất cho tình trạng đó? Tôi dã nghĩ đến điều này không biết bao nhiêu lần. Tôi tính đến mọi yếu tố mà tôi biết. Tôi đặt ra đủ mọi giả thuyết có thể và trí tưởng tượng tôi cho phép. Mà không đi đến được điều gì. Nàng đã biến mất, mang theo mình bí mật. Không “có lẽ” và không “một khoảng thời gian” nào: hoàn toàn, im lặng. Ý nghĩ đó làm tôi không sao chịu nổi. Cuối cùng, nàng đã từ chối chia sẻ bí mật của mình với tôi. Mặc cho sự hòa hợp hoàn hảo mà cơ thể chúng tôi đã có được với nhau.

“Có những điều chỉ có thể tiến về phía trước, không thể quay ngược lại đằng sau. Hajime ạ”, hẳn là nàng sẽ nói như thế.

Đêm đến, trên ghế sofa, tôi tưởng như nghe thấy giọng nàng đang nói câu đó. Tôi nghe rất rõ nàng đánh vần từng từ một.

“Sẽ tuyệt vời biết bao nếu chúng ta có thể bỏ đi như anh nói và bắt đầu lại từ con số không! Thật không may là em không thể chạy trốn được khỏi đây. Không thể. Không thể về mặt vật lý.”

Shimamoto-san đột nhiên biến thành cô gái mười sáu tuổi, đứng trong một khu vườn, mỉm cười ngượng ngập trước những cây hoa hướng dương.

“Lẽ ra em không nên gặp lại anh. Em đã biết điều đó ngay từ đầu. Lẽ ra em nên để mọi chuyện nguyên xi như thế. Dĩ nhiên, em đã không ngăn nổi mình. Em chỉ muốn nhìn thấy anh và sau đó đi khỏi ngay lập tức. Nhưng, tất nhiên, khi đã nhìn thấy anh, em lại không sao quyết định đi khỏi được nữa. Em là như thế, anh cũng biết mà Hajime. Em không có ý định làm vậy đâu, nhưng lúc nào em cũng làm hỏng mọi chuyện.”

Tôi chắc chắn sẽ không bao giờ còn gặp nàng nữa. Nàng chỉ còn tồn tại trong ký ức tôi. Nàng đã biến mất khỏi cuộc đời tôi. Nàng đã từng ở đó, và giờ đây đã tan biến. Không có giải pháp nửa vời nào hết. Không có trung gian, không có điểm giữa, không có chút thỏa hiệp nào. Phía Nam biên giới, có một “có thể”. Nhưng ở phía Tây mặt trời thì không.

Tôi đọc báo mỗi ngày, tìm kiếm một bài báo viết về vụ tự tử của phụ nữ trong vùng Hakone. Nhưng tôi không tìm được gì hết. Ngày nào cũng có hàng đống người tự tử, nhưng chưa bao giờ, theo chỗ tôi biết, có một người phụ nữ ba mươi bảy tuổi có nụ cười quyến rũ. Nàng đã biến mất khỏi cuộc đời tôi, chỉ khỏi cuộc đời tôi mà thôi.

Nhìn bên ngoài, không có gì thay đổi hết. Sáng nào tôi cũng chở hai con đi học, chiều đến đón chúng về. Tôi hát với chúng trong xe. Thỉnh thoảng, tôi gặp cô gái trẻ đi xe Mercedes trước cổng trường mẫu giáo, và chúng tôi nói chuyện với nhau một lúc lâu. Điều đó cho phép tôi quên đi những lo lắng trong một lúc. Vẫn như mọi khi, chúng tôi chỉ nói đến các cửa hiệu hoặc quán ăn đang là mốt. Mỗi lần gặp nhau, chúng tôi thoải mái trao đổi những thông tin mới nhất về các cửa hàng bán đồ ăn tự nhiên và khu phố Aoyama.

Trong nhiều công việc, tôi tiếp tục hoàn thành các nghĩa vụ, không một lần sơ sảy. Tôi đến câu lạc bộ nhạc jazz mỗi tối, trò chuyện với các khách quen, lắng nghe những ý kiến và phàn nàn của nhân viên, tặng quà cho những ngươi phục vụ khi đến sinh nhật họ. Tôi mời rượu các nhạc công đến chơi ở chỗ chúng tôi, nếm cocktail. Kiểm tra xem đàn piano lên dây đúng chưa, chú ý để những người khách say rượu không làm phiền ai. Ngay khi có một vấn đề, tôi tìm cách giải quyết ngay, tìm ra một giải pháp. Cách quản lý công việc của tôi không thể tốt hơn được nữa, gần như là quá tốt.

Tất cả diễn ra một cách hoàn hảo. Chỉ có điều, tôi không còn say mê như trước với hai câu lạc bộ nhạc jazz nữa. Tôi không nghĩ những người xung quanh nhận ra điều đó, vì thái độ của tôi hoàn toàn không thay đổi. Thậm chí tôi còn hòa nhã với mọi người hơn trước, tôi đáng mến, lúc nào cũng sẵn sàng chuyện trò. Nhưng tôi thì tôi biết, khi đưa mắt nhìn quanh phòng, không gì còn giống như trước nữa cả: tôi thấy khung cảnh thật buồn chán, tối tăm. Đó không còn là khu vườn tưởng tượng của tôi ngày xưa, với những màu sắc tươi sáng, những khía cạnh tinh tế. Đó chỉ còn là một quán bar ầm ĩ có thể tìm thấy ở khắp nơi. Tất cả đều giả tạo, hời hợt, thảm hại. Đó chỉ còn là một bài trí sân khấu, được dựng lên với mục đích được che giấu khéo léo là móc túi lấy tiền của những kẻ say rượu. Tất cả những ảo tưởng xưa kia từng tràn ngập tâm trí tôi đã tan biến như một làn khói. Bởi vì tôi biết rằng Shimamoto-san sẽ không bao giờ còn trở lại trong khung cảnh này nữa. Sẽ không bao giờ còn  được thấy nàng ngồi ở một cái ghế cạnh quầy bar, và mỉm cười gọi một ly cocktail.

Cả ở nhà cũng vậy, tôi tìm lại được cuộc sống quen thuộc. Tôi ăn tối với cả nhà, đưa các con đi dạo Chủ nhật, dẫn chúng đến vườn bách thú. Yukiko và tôi, ít nhất bề ngoài, có cùng mối quan hệ như trước. Chúng tôi vẫn trò chuyện nhiều, chúng tôi là những người bạn đường từ lâu, sống dưới cùng một mái nhà. Một vài điều không bao giờ được nói ra, một vài sự thật không bao giờ được phát biểu. Nhưng không có chút căng thẳng nào ngự trị giữa chúng tôi. Chỉ đơn giản là chúng tôi không bao giờ chạm vào nhau. Đêm đến, chúng tôi ngủ riêng: tôi tiếp tục ngủ trên ghế sofa, và Yukiko trong phòng ngủ. Hẳn đó là thay đổi duy nhất có thể nhìn thấy trong cuộc sống của chúng tôi.

Có lúc tôi tự hỏi không biết tất cả những điều này có phải là một vở hài kịch hay không. Liệu có phải là chúng tôi đang hài lòng với việc đóng những vai diễn dành cho mình? Liệu có phải là chúng tôi đã đánh mất một điều gì đó cốt yếu? Liệu có phải là kể từ nay ngày nào chúng tôi cũng sẽ chỉ sống như những cái máy giản đơn? Ý nghĩ đó đè nặng lên tôi. Yukiko hẳn là phải đau khổ sâu sắc vì cái cuộc sống trống rỗng và hời hợt này. Thế nhưng, tôi vẫn chưa cảm thấy có thể trả lời câu hỏi của cô. Dĩ nhiên, tôi không muốn bỏ cô, cái đó thì tôi có thể chắc. Nhưng tôi không có quyền gì để nói điều đó với cô. Tôi đã từng rất sẵn sàng bỏ cô, cả cô và bọn trẻ. Shimamoto-san đã biến mất và sẽ không quay lại, nhưng tôi không thể vì thế mà tiếp tục cuộc sống cũ như thể không có gì xảy ra. Không thể đơn giản như thế được. Sẽ không thể đơn giản như thế được. Mặt khác, tâm trí tôi vẫn còn hình ảnh Shimamoto-san ám ảnh. Hình ảnh của nàng quá rõ nét, quá thực, để mà tôi có thể xua đi. Chỉ cần tôi nhắm mắt lại là nhìn thấy cơ thể nàng hiện ra trong từng chi tiết nhỏ nhất. Tôi vẫn còn cảm thấy trên những ngón tay mình tiếp xúc của da thịt nàng, giọng nói của nàng vẫn vang vọng trong tai tôi. Làm sao tôi có thể ôm Yukiko trong tay khi vẫn chịu đựng sự ám ảnh đó?

Tôi những muốn được ở một mình lâu nhất có thể và, không biết làm gì khác, sáng nào tôi cũng đến bể bơi, rồi đến văn phòng, nơi tôi dành phần lớn thời gian nhìn lên trần nhà và mơ đến Shimamoto-san. Tôi những muốn chấm dứt việc đó bằng cách này hay cách khác. Tôi sống trong một hình thức của trống rỗng, bên cạnh Yukiko nhưng không thật sự ở đó, lần lữa mãi việc trả lời câu hỏi của cô. Điều đó không thể kéo dài mãi mãi được. Có cái gì đó không đúng đắn. Với tư cách đàn ông, với tư cách người chồng, với tư cách người cha, tôi phải nhận lấy trách nhiêm của mình. Nhưng, trên thực tế, tôi không có khả năng: ảo ảnh vẫn còn ở đó, nó buộc chặt lấy tôi. Những ngày mưa thì còn tệ hơn nữa. Bởi vì, khi trời mưa, tôi bị đắm chìm trong ảo tưởng Shimamoto-san sẽ xuất hiện vào bất cứ lúc nào. Nàng sẽ mở cửa, mang theo cùng với nàng mùi của cơn mưa. Tôi tưởng tượng ra nụ cười trên môi nàng. Khi không đồng ý với tôi, nàng nhẹ nhàng lắc đầu, nụ cười vẫn nguyên ở đó. Khi ấy từ ngữ của tôi mất đi toàn bộ sức lực và, như những giọt nước mưa đậu trên ô cửa sổ, chầm chậm trượt ra khỏi địa hạt của thực tại. Những đêm trời mưa, lúc nào tôi cũng thấy nghẹt thở. Thực tại bị bóp méo, thực tại lồng lên sợ hãi.

Khi đã mệt mỏi vì ngắm nhìn mãi những điều điên rồ, tôi đứng trước cửa sổ nhìn ra phong cảnh bên ngoài. Thỉnh thoảng, tôi thấy như thể mình bị bỏ rơi trong một sa mạc không sự sống. Đoàn đoàn lũ lũ những ảo ảnh che lấp tất cả màu sắc của thế giới xung quanh tôi, chỉ còn để lại sự trống rỗng. Tất cả mọi vật, tất cả mọi phong cảnh đều có vẻ chán ngắt và trống không như những trang trí phù du bằng giấy bồi, đầy bụi, màu của cát. Tôi nhớ lại người bạn ở trường trung học một hôm cho tôi tin tức về Izumi. Anh đã nói với tôi: “Có nhiều cách sống, và nhiều cách chết. Nhưng có quan trọng gì đâu. Điều duy nhất còn lại là sa mạc.”

Tuần sau đó, xảy ra một loạt sự kiện kỳ lạ. Sáng thứ Hai, khi đến văn phòng, không vì lý do gì đặc biệt, chỉ do một ham muốn bất chợt, tôi mở cái ngăn kéo để cái phong bì đựng một trăm nghìn yen. Từ nhiều năm nay, nó được để trong ngăn kéo bàn làm việc của tôi, khóa chặt, ngăn thứ hai từ trên xuống. Kể từ đó chưa bao giờ tôi động vào số tiền đó, nhưng đã nhiều lần, khi mở ngăn kéo để đặt vào những thứ đồ vật có giá trị khác, tôi biết chắc là cái phong bì vẫn nằm nguyên ở đó. Nhưng hôm qua, tôi nhận ra nó đã biến mất. Thật đáng ngạc nhiên, vì tôi không hề nhớ đã từng chuyển nó đi chỗ khác. Tôi không xếp nó vào chỗ khác, tôi hoàn toàn chắc chắn vào điều này. Tuy thế tôi vẫn lần lượt mở tất cả các ngăn kéo của cái bàn, xem bên trong từng cái một để có thể yên tâm được: cái phong bì không có ở đâu cả.

Tôi cố nhớ xem lần cuối cùng mình nhìn thấy nó là khi nào. Tôi không tìm được ngày tháng chính xác nào cả. Chưa lâu lắm, nhưng cũng không mới đây lắm. Một tháng trước, có thể là hai. Hoặc thậm chí là ba, ai biết? Dù thế nào đi nữa, tôi đã nhìn thấy cái phong bì cách đây không lâu, ở trong ngăn bàn.

Sững sờ, tôi ngồi xuống một cái ghế trước bàn làm việc và lơ đãng nhìn cái ngăn kéo một lúc. Ai đó đã vào đây khi tôi vắng mặt để lấy đi cái phong bì? Điều này rất khó có thể xảy ra (ngăn kéo vẫn còn tiền và những thứ đồ vật có giá trị khác), nhưng dù sao tôi cũng không thể bỏ qua khả năng đó. Hoặc giả, tôi đã nhầm lẫn mà vứt nó đi, và không còn nhớ gì nữa? Cũng có thể lắm. Nhưng cũng có quan trọng gì, cuối cùng tôi tự nhủ. Dù thế nào đi nữa tôi cũng muốn một ngày nào đó vứt nó đi, sự cố này giúp tôi khỏi phải tự mình làm việc đó.

Khi đã chấp nhận chuyện cái phong bì biến mất, tôi bắt đầu nghi ngờ vè sự tồn tại của nó, và càng cân nhắc tôi càng nhanh chóng mất đi sự chắc chắn vào thực tế của nó. Một cảm giác thật lạ, chóng mặt, chiếm lĩnh lấy tôi. Dù cho có cố sức tự thuyết phục mình điều ngược lại, ý tưởng về sự không tồn tại của cái phong bì đó phồng lên rất nhanh chóng trong suy nghĩ của tôi, đến mức chiếm lĩnh hoàn toàn lấy nó. Cảm giác về sự vắng mặt đẩy lùi, hoàn toàn nuốt trọn cảm giác về một sự tồn tại mà tuy thế ngày xưa tôi đã từng chính mắt mình chứng kiến.

Về một số sự kiện, người ta có được bằng chứng hiện hữu rằng chúng đã từng xảy ra. Ký ức và các ấn tượng của chúng ta quá không chắc chắn, quá chung chung để có thể chỉ thông qua đó mà chứng minh được tính thực tế của các sự kiện đó. Những sự kiện mà chúng ta nghĩ là chắc chắn thực ra chắc chắn đến mức độ nào? Kể từ đâu chúng trở thành những sự kiện mà chúng cho là “thật”? Trong phần lớn các trường hợp, không thể phân biệt được. Để có thể chắc được rằng những gì chúng ta coi là thực tế đúng là thực tế, chúng ta cần đến một thực tế khác cho phéo chúng ta tương đối hóa và, bản thân nó, cũng cần một thực tế khác làm nền tảng. Và cứ như thế, cho đến khi tạo ra trong ý thức của chúng ta một chuỗi mắt xích kéo dài vô tận. Chắc chắn là không hề quá lời khi nói rằng chính trong sự giữ gìn cái chuỗi mắt xích đó mà chúng ta có thể dò được đến cảm giác về tồn tại thật của mình. Nhưng chỉ cần chuỗi mắt xích đó đứt gãy, tức khắc chúng ta sẽ lạc lối. Thực tế có thật nằm ở phía cái mắt xích bị rời ra, hay ở phía cái chuỗi cứ kéo dài mãi mãi?

Vào lúc đó, tôi có cảm giác về một sự đứt gãy như thế. Tôi đóng ngăn kéo lại, cố tìm cách quên mọi chuyện đi. Lẽ ra ngay từ đầu tôi đã phải vứt số tiền đó đi. Sai lầm chính của tôi là đã giữ nó lâu đến thế.

Buổi chiều thứ Tư cùng tuần, trong khi đang lái xe không xa đại lộ Gaien Higashidori, tôi nhìn thấy một người phụ nữ nhìn từ sau lưng rất giống Shimamoto-san. Cô mặc một chiếc quần vải cotông xanh và một chiếc áo gió màu be, đi một đôi giày tennis màu trắng. Cô đi khập khiễng. Ngay khi nhìn thấy cô, toàn bộ khung cảnh xung quanh tôi dường như đông cứng lại. Ngay cả không khí mà tôi đang hít thở cũng trào lên như một khối rắn trong cổ họng. “Nàng đây rồi”, tôi tự nhủ. Tôi vượt qua người phụ nữ, cố nhìn kỹ khuôn mặt cô trong gương chiếu hậu, nhưng những người bộ hành khác đã ngăn không cho tôi nhìn rõ. Tôi phanh gấp, chiếc xe đi ngay sau bấm còi inh ỏi. Người phụ nữ đó có cùng dáng đi, tóc cùng độ dài với tóc Shimamoto-san. Tôi muốn đỗ xe lại ngay lập tức, nhưng suốt dọc vỉa hè không có chỗ nào còn trống. Tôi tìm được một chỗ cách đó hai mét, lao thẳng vào, rồi chạy ngược trở lại về nơi tôi nhìn thấy người phụ nữ. Cô không còn ở đó nữa. Tôi tuyệt vọng tìm cô ở xung quanh. Chân cô khập khiếng, cô không thể đi quá xa được, tôi tự nhủ. Rẽ đám người mà chạy, tôi qua đường, lên cái cầu bắc qua đường dành cho khách bộ hành, nhìn xuống đường từ trên cao. Áo sơ mi của tôi đẫm mồ hôi. Đột nhiên, ý nghĩ về người phụ nữ đó không thể là Shimamoto-san chạy qua tâm trí tôi: cô không khập khiễng cùng một bên với nàng. Và hơn nữa, Shimamoto-san không còn khập khiễng nữa.

Tôi lắc đầu, trút ra một hơi thở thật dài. Nhất định là tôi không được bình thường cho lắm. Tôi đã bị choáng, toàn bộ sức lực đã rời bỏ tôi. Tôi dựa lưng vào cột đèn đường, nhìn chân mình một lúc. Đèn chuyển từ đỏ sang xanh, rồi lại sang đỏ. Khách bộ hành đi qua, chờ đợi, rồi đi qua. Trong lúc đó, tôi đứng dựa lưng vào cái cột, cố gắng lấy lại hơi thở.

Khi cuối cùng ngẩng được đầu lên, tôi nhìn thấy Izumi đang ở trước mặt. Ngồi ở băng ghế sau một chiếc taxi dừng lại đèn đỏ, ngay trước mặt tôi, cô nhìn tôi chăm chăm qua cửa kính. Mặt cô chỉ cách mặt tôi một mét. Dĩ nhiên là cô không còn ở tuổi mười bảy nữa. Nhưng tôi nhận ra cô ngay. Không thể là người nào khác được. Ở đó, ngay trước mắt tôi, là người phụ nữ tôi từng ôm trong vòng tay hai mươi năm trước, người con gái đầu tiên mà tôi hôn, người trong một buổi chiều mùa thu đẹp trời, năm mười bảy tuổi, đã để tôi cởi bỏ quần áo, thậm chí còn làm mất một cái nịt tất. Hai mươi năm làm thay đổi một con người, cái đó thì chắc rồi, nhưng tôi nhận ra được khuôn mặt này giữa cả nghìn người.

“Cô ấy làm bọn trẻ con sợ”, người bạn học cũ từng nói với tôi. Ngay lúc đó, tôi còn chưa hiểu anh định nói gì. Tôi không thể tiêu hóa nổi những gì anh định giải thích với tôi. Giờ đây thì tôi hoàn toàn hiểu. Khuôn mặt Izumi không có chút biểu cảm nào. Hoặc đúng hơn tôi phải nói rằng: Mọi hình thức biểu cảm đã trốn chạy khỏi khuôn mặt cô. Giống như là một căn phòng không đồ đạc. Trên khuôn mặt đó, tất cả đều chết và lặng tờ như đáy đại dương. Và cô nhìn tôi chắm chú, với cái vẻ hoàn toàn vô cảm đó. Ít nhất thì tôi cũng nghĩ rằng cô nhìn tôi. Đôi mắt cô quay về phía tôi; nhưng chúng không hiểu gì hết, không truyền đạt một thông điệp nào. Nếu cô định chuyển cho tôi một điều gì đó, thì hẳn đó chỉ có thể là một sự trống rỗng không đáy.

Tôi đứng lặng tại đó. Tôi đã quên mất cách sử dụng lời nói. Tôi thở thật chậm, phải cố gắng lắm tôi mới đứng vững được. Lúc đó, tôi đã mất ý thức theo nghĩa đen về sự tồn tại của chính mình. Trong một lúc, thậm chí tôi còn không biết mình là ai. Những đường nét con người tôi bị xóa đi, tôi cảm thấy mình trở thành một thức chất lỏng chảy nhỏ giọt. Một cách máy móc, không có thời gian để suy nghĩ đến một ý định cụ thể, tôi chìa tay về phía Izumi, chạm vào cửa kính xe, và lấy đầu ngón tay vuốt ve. Tôi không biết cử chỉ đó có nghĩa gì. Vài người bộ hành dừng lại nhìn tôi vẻ bối rối. Nhưng tôi phải làm cử chỉ đó. Dọc theo cửa kính, tôi tiếp tục vuốt ve khuôn mặt không có mặt của Izumi. Cô không có cử động nào, thậm chí không chớp mắt. Cô đã chết rồi? Không, không thể. Cô vẫn đang sống, không một cử chỉ, mi mắt bất động. Cô vẫn sống, trong cái thế giới này, đằng sau cửa kính xe. Và đôi môi câm lặng của cô nói với tôi về một sự trống rỗng không đáy.

Cuối cùng đèn cũng chuyển sang xanh, và chiếc taxi vọt đi. Khuôn mặt Izumi vẫn không có chút biểu cảm nào cho đến cuối cùng. Cứng đờ người, tôi nhìn taxi biến mất vào đám đông xe cộ.

Tôi quay lại nơi đỗ xe, đặt phịch người xuống ghế. “Mình phải tránh xa nơi này”, tôi tự nhủ. Vừa quay chìa khóa điện thì một cơn buồn nôn dữ dội ập đến. Tuy nhiên, tôi không thể nôn, tôi chỉ có cảm giác khó ở đến kinh khủng. Tôi đặt hai bàn tay lên vôlăng, đợi mười năm phút không động đậy. Mồ hôi chảy đầy nách tôi. Có vẻ như một thứ mùi kinh tởm đang toát ra từ người tôi. Đó không còn là cơ thể tôi, đó không còn là cơ thể mà Shimamoto-san đã dịu dàng dùng lưỡi liếm khắp nơi. Đó là cơ thể của một gã tứ tuần đang tỏa ra một thứ mùi khó chịu và chua gắt.

Sau một lúc, một cảnh sát tiến lại gần xe tôi, gõ vào cửa kính. Tôi hạ nó xuống.

-Không được đỗ xe ở đây, anh ta tuyên bố, nhìn tôi vẻ dò xét. Mời ông lái xe đi ngay cho.

Tôi gật đầu, quay chìa khóa điện.

-Trông anh nhợt nhạt lắm, ông không được khỏe à?

Tôi im lặng gật đầu và nổ máy.

Phải mất nhiều giờ tâm trí tôi mới trở lại bình thường. Tôi có cảm giác mình là một cái vỏ ốc rỗng không, một âm thanh rỗng vang lên trong tôi. Tôi hiểu rằng mình đã trở nên thực sự rỗng. Tất cả những gì còn lại trong cơ thể tôi cho đến một lúc trước đã bay mất. Tôi dừng xe trong nghĩa trang Aoyama, lơ đãng nhìn lên trời qua cửa kính trước. Izumi đang đợi mình trên đó, tôi tự nhủ. Hẳn là cô vẫn luôn chờ đợi tôi ở đâu đó. Ở một góc phố, sau một cửa sổ, cô đang đợi tôi đến. Cô chăm chú nhìn tôi. Chỉ có điều là cho đến giờ tôi vẫn chưa nhìn thấy cô.

Trong vài ngày, tôi không thể nói gì với bất kỳ ai. Mỗi lần mở miệng, từ ngữ lại bay biến đi đâu mất. Như thể cái hư vô toát ra từ Izumi đã choán hết chỗ của mọi thứ.

Tuy nhiên, sau cuộc gặp kỳ lạ với Izumi đó, những ký ức ám ảnh về Shimamoto-san bắt đầu nhả bớt vòng vây bủa. Những cảnh tượng mà tôi nhìn thấy dần lấy lại màu sắc thực của chúng, những cảm giác bất ổn và phi thực tế, như thể đang bước đi trên mặt trăng, dần biến mất. Cái trọng lượng đè nặng lên tôi chuyển hóa một cách tinh tế, những cơn điên rồ từng giật dây tôi như một món đồ chơi bớt siết chặt lấy tôi đi. Tôi nhìn những hiện tượng diễn ra trong con người tôi đó với con mắt lơ đãng, như thể đang nhìn ai đó khác qua một cái cửa kính.

Không nghi ngờ gì nữa, cuộc gặp với Izumi đó đã gỡ nút cho một điều gì đó trong tôi, một sợi dây đã tuột ra. Không một âm thanh, nhưng mang tính chất quyết định.

Tôi tận dụng lúc bộ ba nhạc công nghỉ chơi để lại gần người chơi piano và mỉm cười thân ái yêu cầu anh ta không chơi bản Star-Crossed Lovers nữa.

-Tôi đã nghe bản nhạc đó quá nhiều rồi, chán lắm rồi.

Anh ta nhìn tôi một lúc, có vẻ như đang cân nhắc. Tôi rất thân với tay đàn piano đó, anh ta gần như là bạn tôi. Chúng tôi vẫn thường uống rượu cùng nhau và nói về những chủ đề thân mật.

-Tôi không hiểu anh lắm: anh muốn tôi ít chơi bản nhạc đó hơn, hay không bao giờ chơi nữa? Khác nhau rất nhiều đấy, và tôi muốn mọi chuyện thật rõ ràng.

-Tôi không muốn anh chơi bản đó nữa, chỉ thế thôi.

-Nhưng không phải là anh không thích cách chơi của tôi, phải không?

-Không. Anh chơi bản đó tuyệt hay, không có nhiều tay piano có khả năng chơi nó một cách chuẩn mực như anh đâu.

-Thế nghĩa là anh không muốn nghe nó nữa?

-Chắc là vậy đấy.

-Anh làm tôi nhớ đến Casablanca đấy.

-Đúng như thế rồi, tôi trả lời.

Kể từ buổi tối đó, thỉnh thoảng anh chơi những nốt đầu tiên của bản As time goes by khi tôi có ở đó, giống như một cái nháy mắt giữa bạn bè.

Tôi không muốn nghe bản nhạc đó nữa không phải vì nó làm tôi nhớ đến Shimamoto-san. Mà bởi vì nó không còn làm trái tim tôi xúc động như trước nữa. Những gì tôi thấy đặc biệt ngày xưa đã biến mất. Cảm xúc từ lâu tôi có đã hoàn toàn tan biến. Bản nhạc vẫn rất đẹp. Nhưng chỉ có vậy. Và tôi không muốn nghe một thứ nhạc, dù rất đẹp, nhưng với tôi chỉ còn là một cái xác vô hồn.

-Anh nghĩ gì thế? Yokiko tiến lại gần tôi, hỏi.

Hai giờ sáng. Nằm trên sofa, không ngủ được, hai mắt tôi mở ra, nhìn lên trần nhà.

-Đến sa mạc, tôi trả lời.

-Sa mạc?

Cô ngồi xuống cạnh chân tôi, ngẩng đầu lên nhìn tôi.

-Sa mạc nào?

-Sa mạc bình thường ấy. Sa mạc, với những đụn cát, những cây xương rồng mọc rải rác đây đó. Sa mạc chứa đựng rất nhiều thứ, rất nhiều sự sống.

-Cả em cũng là một phần của sa mạc đó?

-Dĩ nhiên rồi. Tất cả mọi người đều thuộc về nó, tất cả mọi người đều thuộc về nó, tất cả mọi người đều sống trong nó. Chỉ có điều, trên thực tế, chính bản thân sa mạc sống. Như trong phim ấy.

-Phim nào?

-Sa mạc sống động, phim của Disney. Nó giống như một thứ biên niên sử về sa mạc. Em không xem hồi còn nhỏ à?

-Không.

Tôi thấy hơi lạ khi nghe cô trả lời “không”. Tôi nhớ hồi học ở trường cấp một thầy giáo đã dẫn cả lớp đi xem bộ phim đó. Nhưng, nghĩ kỹ, Yukiko kém tôi đến năm tuổi. Có thể hồi đó cô quá nhỏ để có thể đi xem phim.

-Anh sẽ đi thuê bộ phim đó ngoài hàng cho thuê băng. Cả nhà chúng ta có thể xem nó vào Chủ nhật tới. Đó là bộ phim hay. Cảnh đẹp lắm, nhìn thấy rất nhiều hoa, nhiều thú. Ngay cả những đứa trẻ bé nhất cũng sẽ thấy hay.

Yokiko mỉm cười nhìn tôi. Đã lâu lắm rồi tôi không nhìn thấy cô cười.

-Anh muốn bỏ em à? Cô hỏi.

-Nghe này, Yokiko, anh yêu em, em biết điều đó mà.

-Có thể, nhưng câu hỏi của em là: “Anh có muốn bỏ em không?”. Câu trả lời là “Có” hoặc “Không”, không có lựa chọn nào khác.

Tôi lắc đầu.

-Anh không muốn bỏ em. Chắc là anh không có quyền nói thế, nhưng anh không muốn bỏ em. Nếu bây giờ bỏ em, anh sẽ hoàn toàn lạc lối. Anh không muốn phải cô đơn. Anh không còn muốn lại phải cô đơn nữa.

Yokiko chìa tay, chạm lướt lên ngực tôi, rồi lại nhìn thẳng vào mắt tôi.

-Quyên chuyện có quyền hay không đi. Không ai đặc biệt có quyền về bất kỳ điều gì, anh biết mà, cô nói.

Tôi cảm thấy sự ấm nóng của lòng bàn tay cô trên ngực mình và nghĩ đến cái chết. Lẽ ra tôi có thể chết trên đường cao tốc trong cái đêm dáng nhớ cùng Shimamoto-san đó. Nếu điều đó xảy ra, cơ thể tôi sẽ không có ở đây vào lúc này, tôi hẳn đã biến đi, đã biến mất hoàn toàn. Như rất nhiều thứ khác. Tuy nhiên, tôi ở đây vào phút này, tôi tồn tại. Và lòng bàn tay ấm nóng của của Yukiko đang đặt trên ngực tôi cũng rất thực.

-Nghe này, Yokiko, anh rất yêu em; anh đã yêu em ngay vào cái ngày anh gặp em lần đầu tiên và hôm nay anh vẫn yêu em. Nếu không gặp em hẳn là cuộc đời anh sẽ kinh khủng lắm, không thể chịu đựng nổi. Anh vô cùng biết ơn em, đến mức anh không thể nói ra lời. Tuy thế, vào lúc này, anh lại làm em đau khổ và, cùng lúc, làm cả anh đau khổ. Khi anh àm ai đó khổ, anh cũng làm chính anh khổ. Không phải là vì anh cố ý, mà vì anh không thể làm gì khác.

-Chắc chắn rồi, Yokiko dịu dàng đáp, trong khi dấu vết nụ cười vẫn lưu lại trên khóe môi cô. Anh là một kẻ ích kỷ, kém cỏi, và anh làm em đau khổ, cái đó thì không có gì phải nghi ngờ cả.

Tôi nhìn cô một lúc. Không hề có bóng dáng một lời trách cứ trong lời nói vủa cô. Cô không giận dữ, cô không buồn. Cô chỉ nói thôi, không gì hơn.

Tôi chậm rãi tìm từ.

-Có vẻ như là lúc nào anh cũng cố gắng trở thành một người khác. Có vẻ như là anh đã luôn muốn đi về phía những người và những nơi mới mẻ và khác lạ, để tạo lập một cuộc đời mới, trở thành người có tính cách khác hẳn. Anh đã làm đi làm lại điều đó rất nhiều lần trong đời, cho đến tận lúc này. Theo nghĩa nào đó, trở thành người lớn là như thế, và theo một nghĩa khác, mỗi lần chỉ là một lần thay đổi mặt nạ. Dù là gì đi nữa, trong khi tìm cách trở thành một người khác, anh đã cố gắng tự giải thoát khỏi những gì cấu tạo nên con người anh cho đến khi đó. Anh thật sự nghiêm túc muốn trở thành một người khác, và anh từng tin rằng nếu nỗ lực đầy đủ anh sẽ làm được điều đó. Nhưng cuối cùng thì anh không đi đâu được hết cả. Anh vẫn là chính anh. Những khiếm khuyết, không thể khác được. Khung cảnh có thể thay đổi, âm thanh giọng nói dù có thay đổi ở xung quanh anh, anh vẫn cứ chỉ là một con người không hoàn hảo. Anh vẫn có những chỗ thiếu hụt như thế trong anh, những điều khơi dậy một sự thèm muốn mãnh liệt với cái khác. Một cơn khát và một cơn đói không thể thỏa mãn hành hạ anh, như là, cái này là chắc chắn, sẽ vẫn tiếp tục như vậy. Bởi vì, theo một nghĩa, những cái mặt nạ đó cùng là một phần của anh. Giờ thì anh biết rồi. Nếu có thể, anh muốn trở thành một người khác vì em, anh anh khác. Và có thể điều đó là có thể. Sẽ không dễ dàng đâu, nhưng nếu nỗ lực anh có thể làm được. Nhưng, rất thật lòng, nếu xảy ra cùng những sự kiện đó trong đời, chắc chắn là anh sẽ vẫn làm điều tương tự. Hẳn là anh sẽ lại làm em đau khổ. Anh không hứa điều gì hết. Đó là tất cả những gì mà anh có quyền nói với em. Anh không có đủ tự tin vào anh để tin được rằng anh có thể chiến thắng trong cuộc chiến chống lại cái thế lực đó.

-Cho đến bây giờ, anh vẫn luôn cố gắng chiến đấu chống lại cái thế lực đó, để thoát được ra?

-Anh nghĩ thế.

Yokiko để nguyên tay trên ngực tôi.

-Anh yêu tội nghiệp của em, cô nói, cùng cái giọng như khi cô đang đọc một thông điệp được viết chữ hoa trên tường. (Cũng có thể là điều đó quả thật được viết trên tường).

-Anh không biết nữa, tôi nói. Anh không muốn bỏ em, cái đó thì anh chắc, nhưng anh không biết câu trả lời đó có đúng hay không. Thậm chí anh còn không biết là anh có lựa chọn hay không…Nghe này Yukiko, em đang ở đây, em đang đau khổ. Anh thấy rất rõ. Anh cảm thấy tay em đang đặt trên anh. Nhưng ngoài đó ra, còn có những thứ mà chúng ta không thể nhìn thấy hay cảm thấy được. Những ý nghĩ, những khả năng, em cứ gọi chúng như em muốn. Anh không biết chúng đến từ đâu, nhưng chúng hiện ra và chúng sống, trộn lẫn với nhau ở bên trong anh. Anh không thể lựa chọn chúng theo như anh muốn, cũng không thể đáp lời một cách rõ ràng.

Yokiko im lặng một lúc lâu. Thỉnh thoảng, một chiếc xe tải chạy qua trên con đường phía dưới cửa sổ nhà chúng tôi, chuyển đi những thứ hàng hóa trong đêm. Tôi nhìn ra cửa sổ, nhưng không thấy gì. Không có gì khác ngoài sự trải dài của thời gian và không gian không tên, nối liền đến với bình minh.

-Trong thời gian chuyện đó diễn ra, nhiều lần em đã muốn chết. Yukiko nói. Em không nói thế để làm anh sợ đâu nhưng điều đó là sự thật. Đúng vậy, em cô độc và buồn bã đến mức chỉ muốn chết. Chết tự thân nó cũng không phải là điều gì quá khó, em nghĩ thế. Anh có hiểu không? Ý chí sống trong em giảm dần, giống như không khí dần giảm đi trong một căn phòng đóng kín. Trong những lúc như thế, chết không có gì quá khó khăn cả. Thậm chí em còn không nghĩ gì đến bọn trẻ, anh biết không. Thậm chí em còn không quan tâm đến việc chúng sẽ ra sao nếu em chết. Đúng thế, em cô độc và buồn bã đến mức ấy. Anh không hề biết, phải không nào? Hẳn là anh chưa bao giờ nghiêm túc suy nghĩ đến những gì em nghĩ, đến những gì em cảm thấy, đến những gì em định làm.

Tôi không nói gì. Cô nhấc thay khỏi ngực tôi, đặt lên đầu gối mình.

-Dù thế nào đi nữa, nếu anh muốn biết tại sao em không chết, tại sao em vẫn tiếp tục sống như thế, thì là bởi vì em tự nhủ nếu anh quay lại với em, em sẽ lại đón nhận anh. Đó chính là nguyên nhân khiến em không tự tử. Đó không phải là câu hỏi có quyền hay không, có lý hay không, vấn đề không nằm ở chỗ đó. Có thể anh là một kẻ kém cỏi thật, có thể anh không có chút phẩm chất tốt đẹp nào. Có thể anh sẽ lại làm em đau khổ một lần nữa, nhưng vấn đề không nằm ở chỗ đó. Em chắc chắn là anh không hiểu, phải không nào?

-Anh tin là anh hoàn toàn không hiểu gì hết, tôi nói.

-Và anh cũng không bao giờ hỏi điều gì hết cả. Yukiko đáp lời.

Tôi mở miệng định trả lời, nhưng không âm thanh nào thoát ra cả. Đúng thế, tôi chưa bao giờ hỏi cô gì hết. Tại sao? Tại sao tôi không bao giờ hỏi cô gì hết?

-Quyền mà anh có được, là những gì anh sẽ xây dựng kể từ bây giờ, cô nói thêm. Hoặc đúng hơn là những gì chúng ta sẽ xây dựng. Có thể là điều đó là chưa đủ cho đến giờ. Có thể là chúng ta tạo ra ấn tượng đã xây dựng rất nhiều thứ, nhưng trên thực tế chúng ta chưa xây dựng gì hết cả. Tất cả cho đến giờ đều quá thuận lợi, chắc chắn là chúng ta đã quá hạnh phúc. Anh có nghĩ thế không?

Tôi gật đầu.

Yukiko khoanh hai tay trước ngực, nhìn tôi một lúc.

-Ngày xưa, em có nhiều loại giấc mơ, nhiều loại ảo ảnh lắm. Tất cả chúng đã biến mất từ khi nào em cũng không biết nữa, em cũng không biết là ở đâu, ngay cả trước khi gặp anh cơ. Em đã giết hết trong người em, vứt đi, phá hủy, chắc chắn là theo đúng ý muốn của em. Như là một bộ phận cơ thể trở nên không cần thiết ấy. Em không biết đã làm đúng hay sai, nhưng dù thế nào, vào lúc đó, em cũng không có lựa chọn nào… Em đã mơ giấc mơ ấy, đôi khi: ai đó đến, mang lại cho em tất cả nhừng gì em đã ném đi. Lúc nào cũng vẫn là giấc mơ đó: ai đó đi về phía em, hai tay mang rất nặng và nói với em: “Thưa bà, bà đã để quên những cái này!”. Em vẫn luôn hạnh phúc vì được sống với anh. Em không có gì để phàn nàn cả, chưa bao giờ em muốn nhiều hơn là được sống với anh. Tuy nhiên, điều gì đó vẫn tiếp tục theo đuổi em. Đôi khi, tỉnh dậy trong đêm, người toát mồ hôi. Cả em nữa, cũng từng bị ám ảnh bởi những gì em đã chối bỏ. Anh không phải là người duy nhất bị đeo đuổi bởi những lý tưởng xa xưa của anh đâu, anh biết không?

-Anh nghĩ là có, tôi đáp.

-Có thể là anh sẽ lại làm em đau khổ. Em không biết khi đó em sẽ phản ứng như thế nào. Hoặc là, lần sau sẽ là em làm anh đau khổ. Không ai có thể nói gì cả, chắc chắn đấy. Cả anh lẫn em. Nhưng, dù thế nào đi nữa, em yêu anh, chỉ vậy thôi.

Tôi ôm lấy cô, vuốt ve tóc cô.

-Nói xem nào, Yokiko, chúng ta sẽ bắt đầu lại mọi thứ ngay ngày mai. Anh chắc là chúng ta có thể cùng nhau bắt đầu lại từ đầu. Đêm nay thì quá muộn rồi. Anh thì anh muốn bắt đầu lại từ một ngày mới.

Yukiko nhìn tôi thật lâu.

-Anh biết không, cô nói, anh vẫn không hỏi em gì cả.

-Anh muốn bắt đầu một cuộc đời mới từ ngày mai, em nghĩ sao? Tôi hỏi.

-Em nghĩ đó là một ý hay, cô mỉm cười trả lời.

Khi Yukiko đã quay về phòng đi ngủ, tôi còn nằm đó nhìn trần nhà thêm mọt lúc lâu. Đó là một cái trần nhà hoàn toàn bình thường, một cái trần căn hộ không chút đặc biệt nào. Không thật sự có gì thú vị. Tuy nhiên, tôi không ngừng ngắm nhìn nó. Đôi lúc, đèn pha của một chiếc xe tải chạy qua phía dưới chiếu lên một góc. Những tưởng tượng điên rồ của tôi đã chấm dứt. Tiếp xúc của ngực Shimamoto-san, âm điệu giọng nói của nàng, mùi hương da thịt nàng, tôi không còn nhớ tất cả những cái đó rõ nét như trước nữa. Thỉnh thoảng, những đường nét vô cảm của Izumi lại hiện về ám ảnh tôi. Tôi còn nhớ đến lúc chạm vào cửa kính chiếc taxi ngăn cách khuôn mặt cô với khuôn mặt của tôi. Tôi nhắm mắt lại và nghĩ đến Yukiko. Tôi nhắc đi nhắc lại nhiều lần những lời của cô. Mi mắt khéo lại, tôi dỏng tai lên lắng nghe tất cả nhừng gì chuyển dịch trong người mình. Tôi đang chuyển hóa, không nghi ngờ gì nữa cả.  Nhưng chuyển hóa này là cần thiết.

Tôi chưa thể chắc liệu mình có đủ sức để bảo vệ Yokiko và các con hay không. Những ảo tưởng không còn giúp gì được cho tôi nữa. Chúng không còn tạo nên những giấc mơ cho tôi nữa. Cái hư vô vẫn là cái hư vô. Tôi đã chìm đắm thật lâu trong cái trống không đó. Tôi đã tìm cách thích ứng với nó. “Và cuối cùng đây là kết quả”, tôi tự nhủ. Tôi buộc phải quen với cái đó. Kể từ nay, tôi phải tạo nên những giấc mơ cho một người khác, không phải cho tôi. Tôi được yêu cầu làm điều đó. Tôi không biết những giấc mơ đó, những ảo tưởng đó rộng lớn như thế nào. Nhưng nếu buộc phải tìm ra được một ý nghĩa nào đó cho tồn tại của tôi thì tôi phải dành toàn bộ sức lực cho nhiệm vụ đó. Có thể…

Khi trời gần sáng, tôi quyết định thôi không tìm cách ngủ nữa. Tôi mặc một cái áo len ra ngoài bộ pyjama, đi pha café, và uống một tách. Ngồi ở bàn bếp, tôi nhìn bầu trời đang sáng trắng dần lên. Đã lâu tôi không nhìn thấy mặt trời mọc. Một đường thẳng màu xanh xuất hiện ở một góc trời, rồi lan rộng như một thứ mực bị tờ giấy thấm hút. Nếu tập hợp tất cả những sắc thái của màu xanh tồn tại trên đời này để chọn ra một thứ tạo nên sự đồng đều nhất, thứ màu xanh chuẩn mực nhất, thì tôi tìn rằng người ta sẽ chọn cái màu xanh này. Khuỷu tay đặt trên bàn, tôi ngắm nhìn cái ánh sáng đó, không nghĩ gì hết, nhưng, khi mặt trời xuất hiện phía trên đường chân trời, màu xanh bị ánh sáng bình thường của ngày nuốt mất. Một đám mây duy nhất nổi bồng bềnh phía trên nghĩa trang. Một đám mây trắng, viền rõ nét. Một đám mây trắng và gọn ghẽ đến mức tưởng chừng có thể viết lên trên đó. Một ngày mới bắt đầu. Nhưng tôi hoàn toàn không biết nó sẽ mang lại cho tôi điều gì.

Trước tiên, tôi chở hai con gái đến trường mẫu giáo, sau đó đến bể bơi. Như mọi ngày. Tôi nhớ đến cái bể bơi hồi tôi còn học cấp hai. Mùi clo, tiếng những giọng nói vang vọng lên tận trần. Thời đó, tôi đang cố gắng trở thành một người khác. Đứng trước gương, tôi nhìn ngắm những đổi thay ở cơ thể thiếu niên của mình. Thậm chí dường như trong sự im lặng của đêm tôi còn cảm nhận đươc cơ thể mình đang lớn lên. Được bao bọc trong cái tôi mới đó như trong một bộ quần áo mới, tôi chuẩn bị bước những bước đi đầu tiên trong một thế giới lạ lẫm.

Vẫn ngồi trong bếp, tôi ngắm nhìn đám mây đang treo phía trên nghĩa trang Aoyama. Nó không nhúc nhích lấy một ly, như thể đang bị đóng đinh trên bầu trời. “Đã đến lúc phải đánh thức bọn trẻ rồi”, tôi tự nhủ. Trời đã sáng, chúng phải dậy thôi. Chúng cần ngày mới này mạnh mẽ hơn, sâu sắc hơn tôi nhiều. Tôi phải đi vào phòng chúng, nhấc chăn lên, đặt tay lên người chúng ấm nóng và say ngủ. Tôi phải nói với chúng rằng một ngày mới đã bắt đầu. Tôi phải làm điều đó vào lúc này. Tuy nhiên, tôi không sao rời được khỏi bàn. Tất cả sức lực đã rời bỏ tôi, như thể ai đó đã đi ra sau lưng tôi mà tôi không nhìn thấy và thật nhẹ nhàng rút mất một cái nút ở đâu đó trên người tôi. Hai khuỷu tay chống lên bàn, tôi vùi mặt vào hai bàn tay.

Ở tận sâu bóng tối đó, tôi nghĩ đến mặt biển dưới cơn mưa. Trời mưa không tiếng động trên đại dương rộng lớn, mà không ai biết cả. Những giọt nước đập lên mặt nước im lặng, và ngay cả những con cá cũng không có chút ý thức nào về điều đó.

Tôi cứ nghĩ đến biển thật lâu, thật lâu, cho đến khi ai đó đi đến sau lưng tôi và nhẹ nhàng đặt tay lên vai tôi.

HẾT