Những Người Khốn Khổ

QUYỂN V - Chương I & II

Docsach24.com

hững việc kể bên trên xảy ra được ít lâu thì lão Bulatơruyen lại qua một cơn xúc động mạnh mẽ.

Bulatơruyen là cái lão phu lục ở Môngphécmây ta đã thoáng gặp qua những phần đen tối của truyện này.

Chắc người ta còn nhớ, Bulatơruyen là người lúc nào cũng bận vào những việc ám muội và linh tinh. Lão đập đá và gây hại cho những khách trên đường cái. Vừa làm thợ đắp đất  vừa làm nghề ăn trộm, lão nuôi một cái mộng: lão mơ cái kho tàng châu báu chôn trong rừng Môngphécmây. Lão hy vọng một ngày kia sẽ tìm được tiền chôn dưới một gốc cây; trong lúc chờ đợi, lão vui lòng kiếm chác trong túi khách đi qua đường.

Nhưng lúc này lão đã cẩn thận hơn. Lão vừa may mà thoát nạn. Ta đã biết, người ta vừa nhặt lão trong nhà nát của Giôngđơrét cùng với bọn kẻ cướp. Một tật xấu cũng có khi có lợi; lão thoát tù vì lão say rượu. Người ta dò xét mãi mà không biết lão là kẻ cướp hay là khổ chủ. Dựa trên tình trạng lão thực sự say rượu tối hôm xảy ra vụ bẫy người, tòa án đã ra lệnh miễn truy tố và lão được thả ra. Lão lại trở về với khu rừng cũ. Lão trở lại khúc đường từ Ganhi đến Lanhi để rải đá cho nhà nước, dưới sự kiểm soát của cơ quan hành chính. Mặt lão tiu nghỉu, ra vẻ rất nghĩ ngợi, hơi cụt hứng đối với việc trộm cướp nó đã làm lão suýt khốn, nhưng lão lại càng thêm trìu mến hũ rượu đã cứu vớt lão.

Còn cái cơn xúc động mẽ lão trải qua sau khi trở về dưới mái cỏ của người phu lục lộ, nó như thế này.

Một buổi sáng, lúc ấy mặt trời chưa mọc, như lệ thường Bulatơruyn đi làm, và có lẽ cả đi rình mò nữa, lão thấy một bóng người thấp thoáng sau cành lá trong rừng. Lão chỉ thấy sau lưng người ấy từ đằng xa, lúc ấy lại chưa sáng rõ, nhưng trông dáng điệu hơi quen quen. Mặc dù nghiện rượu, Bulatơruyn vẫn có trí nhớ đúng đắn, sáng suốt, cái vũ khí tự vệ cần thiết của tất cả những ai có phần nào chống đối với trật tự xã hội. Lão tự hỏi:

- Quái, mình đã gặp cái thằng cha này ở đâu rồi nhỉ.

Nhưng lão không trả lời được, lão chỉ thấy người kia giống như một dạng mập mờ thoáng qua trí óc lão.

Cái dáng ấy, lão chưa xác định lai lịch được, nhưng lão lại tính toán, đối cứu sự việc. Người ấy không phải là người vùng này. Người ở nơi khác đến, tất nhiên là đi bộ. Giờ này, chẳng có xe quái nào qua Môngphécmây cả. Chắc là hắn đi suốt đêm. Ở đâu đến? Không xa đâu. Chẳng có xắc, chẳng gói gì hết! Chắc hẳn là ở Pari đến. Tại sao lại vào khu rừng này? Tại sao lại đến vào giờ này? Đến để là gì?

Bulatơruyen nghĩ đến cái kho tàng châu báu. Cố sức nặn óc, lão mới lờ mờ nhớ ra rằng, cách đây lâu lắm, đã bao nhiêu năm, đã có lần lão gặp sự biến như thế này. Cái người bây giờ, lão cho có thể là người ngày trước.

Mải nghĩ, nặng trĩu cả óc, lão cúi đầu xuống, cái ấy cũng tự nhiên, nhưng chẳng khôn khéo tí nào. Lúc ngẩng đầu lên thì lão chẳng thấy gì nữa. Người kia đã biến trong khu rừng, trong bóng mờ rạng đông.

- Mẹ kiếp! Bulatơruyen làu bàu. Rồi thế nào mình cũng tìm thấy nó. Tao sẽ tìm ra cái địa phận của tên giáo dân này cho mà xem. Tại sao cái thằng ấy lại ưa đi lúc tinh mơ thế này, rồi mình sẽ biết tuốt. Ở trong khu rừng của tớ, chả có điều bí mật nào mà không có tớ xen vào.

Lão cầm lấy cái cuốc mũi rất nhọn của lão, rồi lầm bầm:

- Cái này để bới đất và để bới người.

Thế rồi, như thể người ta nối sợi dây chỉ này vào sợi chỉ kia, lão cố bước khớp theo dấu chân phỏng đoán của người kia và cứ thế đi qua khu rừng.

Đi được độ một trăm bước thì mặt trời bắt đầu mọc. Lão trông rõ lối đi. Lão thấy những dấu giầy in rải rác trên cát, những vạt cỏ bị giẫm, những bụi cây bị xéo, những cành cây non trong bụi rậm bị uốn xuống, từ từ vươn lên, tựa như một người đàn bà xinh đẹp đang duỗi tay lúc trở dậy. Lúc đã thấy vết đi của người kia, lão đi theo, nhưng bỗng mất hút. Thời gian cứ qua. Lão tiến sâu nữa vào khu rừng, rồi đến một mô đất. Một người đi săn sớm đi qua con đường mòn xa xa, vừa đi vừa huýt sáo theo điệu Ghiơri. Lão chợt nảy ra ý trèo lên cây cao. Tuy lão đã già nhưng lão còn nhanh nhẹn. Ở đây có một cây dẻ to, thật xứng cho Titia và Bulatơruyen trèo. Bulatơruyen cố trèo hết sức cao lên cây dẻ.

Kể ý ấy cũng hay thật. Nhìn kỹ về phía khu rừng hoang vu, rậm rì và ghê gớm nhất, bỗng Bulatơruyen trông thấy người kia.

Vừa thoáng thấy, người kia đã biến mất!

Người kia đi vào, - hay len lỏi vào thì đúng hơn, - len lỏi vào một quảng rừng thư ở khá xa, khuất sau những cây to. Những quãng rừng ấy, Bulatơruyen biết lắm, lão vừa nhận ra được băng bằng một tấm kẽm to tướng. Khu rừng thưa ấy, ngày xưa người ta gọi là bất động sản Blarruy. Đống đá ấy không biết dùng để làm gì, ba mươi năm trước đã thấy rồi, nay chắc vẫn còn. Chẳng cái gì sống lâu hơn một đống đá, có chăng những bức giậu bằng ván gỗ. Để tạm đấy thôi, thế mà hóa ra trường thọ.

Bulatơruyen mừng rỡ tụt xuống nhanh như chớp. Đã tìm thấy hang con thú, chỉ còn việc bắt lấy nó. Cái kho tàng mơ ước bấy lâu đích thị là ở đây rồi.

Đi đến tận khu rừng thưa ấy, đâu phải chuyện dễ. Đi theo những lối mòn cứ uốn khúc như trêu ngươi, phải mất mười lăm phút còn nếu đi đường thẳng, qua bụi rậm rất dày, đầy gai góc, rất hiểm trở, phải mất những nửa giờ. Khốn nỗi Bulatơruyen lại không hiểu cho điều ấy. Lão tin ở con đường thẳng; thật là một ảo tưởng đẹp đẽ, nhưng đã hại biết bao người. Khu rừng rậm dù có gai góc đến đâu, Bulatơruyen cũng cứ tưởng là con đường ngắn. Lão nói:

- Cứ đường thẳng chó sói mà đi thôi.

Bulatơruyen, vốn quen đi đường quanh, lần này lại phạm sai lầm là đi đường thẳng.

Lão vấp phải nào ô rô, nào gai, nào sơn tra, nào hồng dại, nào thảo nhi, nào cây ngấy đến gây sự. Trầy sướt cả da thịt.

Bên dưới rãnh có nước, phải lội qua mà đi.

Sau cùng, lão cũng đến được khu rừng thưa Bơlaruy, nhưng mất đến bốn mươi phút, mồ hôi đầm đìa, hổn ha hổn hển, ướt át, mặt đầy vết cây xước, giận dữ.

Chẳng có ai ở đấy cả.

Bulatơruyen chạy đến đống đá. Đống đá vẫn nguyên chỗ cũ. Chẳng ai tha đi đâu cả.

Còn người kia thì đã biến vào rừng sâu. Người ấy đã trốn mất. Trốn đi đâu? Về phía nào? Trong khu rừng nào? Không tài nào đoán biết trước được.

Đau đớn nhất là lại thấy ở sau đống đá, ngay trước cái cây bịt kẽm, một khoảnh đất mới xới, một cái cuốc để quên hay vứt lại đó, và một cái hố.

Hố ấy trống rỗng.

Bulatơruyen giơ hai tay về phía chân trời, kêu lên:

- Đồ ăn cắp!

II

MARIUTX VỪA RA KHỎI NỘI CHIẾN

LẠI CHUẨN BỊ CUỘC CHIẾN TRANH

TRONG NHÀ

Một thời gian lâu, Mariuytx chẳng ra sống, chẳng ra chết. Hàng mấy tuần liền, anh lên những cơn sốt mê sảng. Có nhiều triệu chứng khá nghiêm trọng ở não vì não bị các vết thương ở đầu làm chấn động, chứ không phải do dính các vết thương phạm vào.

Hàng đêm đằng đẵng, trong những lời nói mê ghê rợn và thao thao bất tuyệt qua cơn sốt, trong cơn hấp hối và cứ kéo dài thảm đạm, Mariuytx lúc nào cũng gọi tên “Côdét”. Mấy vết thương lớn rất nguy hiểm, bởi vì mủ ở những nơi ấy thường nung ở tận dưới thịt, có thể làm chết người, do ảnh hưởng của thời tiết; mỗi khi đổi trời thầy thuốc lại lo ngại. Ông thường nói: nhất là người bệnh lại không cảm thấy gì cả. Băng bó rất khó khăn, phức tạp. Thời ấy chưa tìm ra vải nhựa để dán băng, dán thuốc. Nicôlét tốn một tấm khăn trải giường- “to bằng cái trần nhà” như chị ta thường nói – để làm băng buộc các vết thương. Dùng các chất cơlôtuya và nitơrát bạc phải chật vật công phu lắm mới trừ được chứng thối thịt. Bệnh tình Mariuytx còn trầm trọng thì lão Gilơnormăng cũng vẫn còn như chàng, chẳng ra sống, chẳng ra chết. Lão vẫn ngồi ở đầu giường cháu, cuống cuồng cả người.

Theo lời bác gác cổng kể lại ngày nào cũng vậy, có khi một ngày hai bận, một ông già tóc bạc, ăn mặc sang trọng đến hỏi bệnh tình Mariuytx và đưa lại một gói băng lớn.

Cuối cùng tính từng ngày là bốn tháng ròng, sau cái đêm đau đớn Mariuytx được khiêng về nhà dở sống dở chết, ngày 7 tháng chín, thầy thuốc tuyên bố bảo đảm chàng sống. Thời kỳ dưỡng bệnh bắt đầu. Thế nhưng Mariuytx còn phải nằm trên một cái ghế dài ròng rã hai tháng trời, vì xương đòn gánh bị gãy thỉnh thoảng lại giở những chứng bất ngờ. Đấy, thường vẫn thế, cái vết thương cuối cùng thường không mím miệng lại ngay, cứ phải băng bó mãi, người ốm rất khó chịu.

Nhưng được cái thời gian ốm lâu như thế, lại bình phục lâu như thế, nên Mariuytx không bị truy nã. Ở nước Pháp những cơn phẫn nộ, ngay những cơn phẫn nộ của công chúng, cũng thường không kéo dài quá sáu tháng. Những cuộc biến động như trong tình trạng xã hội hiện nay là cốt lõi của tất cả mọi người, nên cũng cần phải nhắm mắt lại.

Ta nên nói thêm rằng cái lệnh quá quắt của Giskê bắt các thầy thuốc phải tố cáo những người bị thương đã làm dư luận bất bình; mà người bất bình đầu tiên lại là nhà vua. Dư luận ấy đã che chở, bảo vệ cho những người bị thương. Chỉ trừ những người bị bắt làm tù binh ngay tại trận, những người khác không ai bị tòa án binh động tới. Thế là Mariuytx được yên than.

Thoạt đầu, lão Gilơnormăng nếm tất cả những đau đớn, ê chề, sau lão hưởng tất cả những nỗi say sưa. Đêm đêm, lão ở liền bên cạnh người ốm, ngăn sao cũng không được. Lão cho mang cái ghế bành lớn lại gần giường Mariuytx. Lão bắt con gái trong nhà phải lấy khăn áo đẹp nhất trong nhà để làm vải buộc, làm băng. Bà dì Gilơnormăng vốn là người tinh khôn, lại là con gái lớn trong nhà, tìm cách giữ các khăn áo đẹp lại vừa làm cho lão tưởng con vẫn nghe lời mình. Lão Gilơnormăng không cho phép ai cắt nghĩa cho lão biết rằng làm băng thì vải chéo không tốt bằng vải thô và vải mới không bằng vải cũ. Bao giờ băng hộ cho Mariuytx lão cũng có mặt, còn bà dì thì ra chỗ khác và e thẹn kêu lên: ối! Ối! Không gì cảm động bằng khi lão đưa chén thuốc cho người bị thương, tay run run vì tuổi già. Lão cứ hỏi thầy thuốc liên hồi. Lão không biết là lão cứ hỏi đi hỏi lại những câu đã hỏi rồi.

Hôm thầy thuốc báo cho lão biết Mariuytx đã qua cơn hiểm nghèo, lão sướng điên lên. Lão thưởng cho bác gác cổng ba đồng lu-i. Tối hôm ấy, lúc trở về buồng riêng, lão vừa đi vừa nhảy điệu ga-vốt, ngón tay cái bật vào ngón tay trỏ đánh nhịp. lão hát bài hát sau đây:

Đồng cỏ Phigie

Là nơi Gian ở

Ơi Gian! Ơi mình!

Vậy em rất tình

Anh si

Các cậu bé thần kỳ

Nấp trong mắt đẹp

Với túi tên phép

Ranh nhép!

Ta say nàng Gian

Hơn nữ thần Đian

Say đôi vú cứng

Cô gái Brơtan

Rồi lão quỳ xuống một cái ghế, Bátscơ nhòm qua khe cửa hé mở, tin chắc là lão đang cầu kinh.

Từ xưa, nào lão có tin Chúa bao giờ.

Mỗi khi bệnh Mariuytx thuyên giảm, mà càng ngày chàng càng đỡ hơn, lão lại càng thêm kỳ quặc. Lão làm lắm việc vô lý, ra vẻ rất khoái chá. Không việc gì cũng lên gác, xuống gác mãi được. Một chị hàng xóm kể ra cũng xinh, một buổi sáng sửng sốt nhận được bó hoa to tướng. Bó hoa ấy là của lão Gilơnormăng gửi tặng. Anh chồng nổi một trận ghen. Lão Gilơnormăng lại cố ôm Nicôlét đặt ngồi lên vế mình. Lão gọi Mariuytx là ông nam tước. Lão hét: “Chế độ cộng hòa muôn năm!”.

Lúc nào lão cũng hỏi thầy thuốc: “Có phải là không ngại gì nữa chứ?”. Lão nhìn Mariuytx âu yến như bà nhìn cháu. Lúc Mariuytx ăn, lão nhìn rất trìu mến. Lão không biết đến lão nữa; lão không đáng kể nữa, bay giờ Mariuytx là ông chủ nhà; trong nỗi vui sướng, lão đã thoái vị, lão là đứa cháu của cháo lão.

Sống trong cảnh sảng khoái như thế, lão trở thành đứa trẻ đáng kính nhất. Lão đứng sau người ốm mà mỉm cười, sợ người ốm mệt hay khó chịu. Lão hớn hở, tươi cười, sung sướng, dễ yêu, non trẻ. Nét mặt lão như có nguồn sáng tươi vui, lại thêm mớ tóc bạc trên đầu, nên trông lão càng thêm oai nghiêm một cách dịu dàng. Khi những nếp nhăn lại điểm thêm duyên dáng thì trông người ta thật đáng yêu kính. Người già vui vẻ thì trên mặt rạng rỡ một thứ bình minh.

Còn Mariuytx, lúc người ta băng bó trông nom cho chàng, chàng chỉ có độc ý nghĩ: Cô dét.

Từ khi dứt cơn sốt và không mê sảng bữa, chàng không gọi tên ấy lên nữa. Chàng không nói, chính bởi và cả tâm hồn chàng là ở đấy.

Chàng không biết bây giờ Côdét ra sao; tất cả những việc xảy ra ở phố Săngvrơri, nay chỉ còn như một đám mây mờ trong ký ức. Những bóng người mờ mờ phảng phất trong trí óc, Êpônin, Gavrốt, Mabớp, gia đình Tênácđiê, tất cả các bạn chập chờn ảm đạm trong khói mù chiến lũy. Rồi các việc ông Phôsơlơvăng hiện qua trong cuộc chiến đấu đẫm máu, nay tưởng như một bí ẩn trong cơn bão táp. Chàng không hiểu tại sao chàng sống, ai đã cứu chàng sống, cứu như thế nào. Mọi người chỉ biết nói với chàng có một cái xe ngựa đang đêm chở chàng về phố Phiơ đuy Canve. Quá khứ, hiện tại, tương lai, tất cả chỉ còn đám sương mù mờ ảo, nhưng trong đám sương mù ấy, có một điểm bất động, một nét nổi bật, rõ ràng, chính xác, một cái gì như bằng đá hoa cương, một điều quyết định, một ý chí: tìm Côdét. Đối với chàng, ý nghĩ về cuộc đời không tách rời khỏi ý nghĩ về Côdét. Lòng chàng đã nhất quết rằng chàng sẽ không chịu sống ở đời nếu không có Côdét. Bất kỳ ai bắt chàng sống, dù là ông chàng, dù là số mệnh hay là địa ngục, thì chàng nhất định cũng phải đòi lại cho kỳ được nơi cực lạc chàng đã mất.

Những khó khăn, không phải là chàng không hiểu.

Ở đây, ta cần nhấn mạnh điều này: ông chàng có hết lòng ân cần, âu yếm, chàng cũng không hề chuyển lòng và cảm động. Trước tiên, và chàng không biết hết tất cả những sự săn sóc, chiều chuộng ấy. Sau nữa, trong sự suy nghĩ mơ màng, chàng nghi ngờ những cử chỉ trìu mế ấy, coi như một hành động lạ lùng, mới mẻ, cốt để chinh phục chàng. Chàng giữ thái độ lạnh lùng. Ông chàng tha hồ nở những nụ cười móm mém nhưng chỉ mất công toi. Mariuytx tự bảo khi mình chưa nói, cứ để mực cho người ta làm gì thì làm, thì còn tốt; chứ khi nói đến Côdét thì chàng sẽ thấy một bộ mặt khác hẳn, ông chàng sẽ lộ rõ bộ mặt thật. Lúc ấy mới gay go. Rồi hàng vạn vấn đề gia đình, rồi thì môn đăng hộ đối, rồi vừa mỉa mai vừa bắt bẻ, rồi nào Phôsơlơvăng với Cupơlơvăng, nào gia tài, nghèo khổ, nào đeo vạ vào thân, nào tương ai. Chống lại kịch liệt; kết cục; từ chối. Mariuytx phải cứng cỏi ngay từ bây giờ.

Vả lại chàng càng khỏe ra, những nỗi bất bình cũ càng trở lại, những vết loét trong ký ức lại lở ra, chàng nhớ lại dĩ vãng; đại tá Pôngmécxi lại đứng giữa lão Gilơnormăng và chàng, Mariuytx. Chàng tự bảo chàng sẽ không thể hy vọng một tấm lòng tốt chân thật nào ở con người đã xử tệ và bất công với cha chàng đến thế. Càng khỏe ra chàng thấy như càng oán ghét ông chàng hơn. Ông lão âm thầm đau đớn về thái độ của Mariuytx, từ ngày được người ta khiêng về nhà và từ ngày chàng tỉnh lại, chưa bao giơ chàng gọi lão là “ông ngoại” cả; biết vậy nhưng lão không nói gì. Chàng cũng không gọi là “ngài”, đã đành. Nhưng chàng tìm cách lẩn tránh, để khỏi phải gọi tiếng này cũng chẳng phải gọi tiếng kia.

Hiển nhiên là sắp có một cơn biến động.

Cũng như mọi người khi gặp trường hợp tương tự, Mariuytx thử sức nhè nhẹ trước khi tấn công. Như thế gọi là thăm dò trận địa. Mỗi buổi sáng, lão Gilơnormăng, nhân tình cờ đọc một tờ báo, bộp chộp nói về Hội nghị Quốc ước và thốt ra một câu phán xét có tính chất bảo hoàng về Đăngtông, Xanhgiuýt và Rôbétxpie. Tức thì Mariuytx nghiêm nghị trả lời: những con người năm 93 ấy là những người khổng lồ. Lão già nín lặng cả ngày hôm ấy, không hé răng nói nửa lời.

Mariuytx, bao giờ nghĩ đến ông, cũng có ngay trong óc một hình ảnh người ông sắt đá những ngày chàng còn nhỏ, nên chàng cho rằng ông chàng im lặng là vì cố nén cơn giận. Chàng liền đoán trước một cuộc chiến đấu ác liệt và trong thâm tâm, chàng sửa soạn thật đầy đủ để chiến đấu.

Chàng quyết định nếu bị từ chối, chàng sẽ lột hết vải băng bó làm trẹo xương đòn gánh, những vết thương còn đau thì vứt cả băng đi cho hở miệng cả ra, rồi không ăn không uống gì nữa. Những vết thương là đạn dược của chàng. Một là được Côdét, hai là chết. Chàng kiên nhẫn đợi chờ thời cơ – cái kiên nhẫn tinh ranh của người ốm. Thời ấy đã đến.