Cậu Murdoch ở lại trường suốt ngày. Buổi chiều, cậu nán lại bàn ăn khá lâu. Đôi khi cậu có vẻ muốn bắt chuyện với tôi.
Tôi thấy cậu bày sách vở lên bàn và bắt đầu học một cách miễn cưỡng, dáng bộ cậu rất uể oải.
Dì Kate thì luôn luôn lầm lì, ít nói tuy dì có mặt trong buổi ăn trưa. Buổi tối ít khi có mặt dì trong phòng khách, nếu không đến thăm một cô bạn thân thì dì rút lui vào phòng sửa bài hoặc đọc sách. Tôi thường nhìn vầng trán cao và hơi vồ của dì nhăn nhíu và tự hỏi phải chăng dì cũng có điều gì bất mãn hoặc khổ sở trong lòng?
Bà ngoại – mà tôi gọi bằng mẹ từ đây – thì bận bịu vô số công việc.
Do lẽ đó mỗi ngày tôi càng chịu ảnh hưởng của ông cố tôi trong lúc rảnh rỗi chờ đợi ngày nhập học.
Cố tôi, ngoài việc ghi chép, không phải làm gì khác, luôn luôn cố tôi kêu ca rằng tôi là gánh nặng của thân ông; tuy vậy ông không hề chê sự bầu bạn với tôi. Hầu như tất cả những xế trưa trời tốt, ông đều dắt tôi đi xem đá bóng ở sân vận động.
Những lần khác, cố dắt tôi đến thư viện thị xã hoặc đến xem đội lính cứu hỏa của Levenford tập dượt (và luôn luôn họ bị ông chỉ trích).
Một hôm thừa dịp Parker, chủ tàu vắng mặt, cố tôi dắt tôi đi một vòng tàu miễn phí trên hồ trong công viên, thật vui.
Chỉ ngày chúa nhật là ngày trống rỗng đối với tôi. Chương trình ngày ấy khác hẳn. Hôm đó, mẹ tôi dậy sớm hơn thường lệ và sau khi mang tách trà vào phòng cho ba, mẹ tôi cho thịt vào lò nướng và soạn áo jaquette với quần có sọc cho ba.
Sau đó, cả nhà xôn xao vì sửa soạn quần áo tề chỉnh đi lễ. Dì Kate mặc váy mới lên xuống cầu thang cả chục lần. Mẹ tôi thì cố hết sức để nông đôi găng tay co lại sau khi giặt vào đôi bàn tay chai ngắt vì công việc hằng ngày.
Rồi đôi khi, vào phút chót, cậu Murdoch thò cái đầu chưa chải nơi cầu thang, hỏi vọng xuống:
- Mẹ! Mẹ để bít tất sạch của con đâu?
Trong khi ấy, ba mặc áo cổ cồn cao và cứng tưởng có thể sướt cả da, đi tới đi lui ngoài hành lang, chốc chốc lại nhìn vào đồng hồ tay, nhắc mãi một câu:
- Chuông sắp đổ rồi, một phút nữa thôi đó nghe!
Tôi hiểu rằng hơn bao giờ hết, không nên làm vướng chân ông bà dì cậu, nên tôi ở yên trong phòng cố tôi cho tận khi nào nghe tiếng chuông đổ dồn dập xa xa trong buổi mai vắng lặng. Hình như tôi vừa yêu lại vừa ghét những hồi chuông này, vì nó làm tăng cái cảm tưởng mình là người đơn độc, lạc loài.
Cố tôi không bao giờ đi lễ, cố không quan tâm đến tín ngưỡng song tôi (lúc ấy còn quá nhỏ để có thể hiểu) tôi nghĩ rằng bởi cố tôi không có áo quần tốt mà thôi.
Khi cả nhà đi dự lễ ở nhà thờ Tin lành, nơi có cả ông Thị trưởng và những vị tai mắt khác cùng đến, cố tôi nháy mắt với tôi; thế là hai ông cháu qua thăm bà Bosomley, láng giềng của chúng tôi.
Bà này là quả phụ của một người hàng thịt, nghe đâu như lúc trước bà là đào hát của một đoàn ca kịch và đã nổi tiếng nhờ vai trò Joséphine trong vở "Người yêu của Hoàng Thượng". Thân mình phốp pháp, tóc nâu uốn cong, mặt tròn vạnh, da dẻ hồng hào, nom bà trong ngoài tuổi 50. Mỗi khi bà cười đôi mắt hiền từ híp lại chỉ còn hai khe nhỏ.
Đôi khi nhìn qua hàng rào tôi nom thấy bà đi lại trong khu vườn nhà, chú mèo vàng có tên là Miikado lẽo đẽo theo sau. Rồi đột nhiên bà dừng lại, sửa điệu bộ, trịnh trọng đọc to lên một đoạn thơ. Có lần tôi nghe rõ ràng bà ngâm lớn:
Hãy chiến đấu cho quê hương yêu dấu!
Thực ra, Levenford không phải là quê hương của quả phụ này. Tụi bạn học tôi kháo nhau rằng bà không phải kịch sĩ có tài, bà chỉ góp mặt trong một gánh xiếc nhỏvà bà bà có xăm bụng! (ghê quá!). Ngoài ra không ai biết rõ nguồn gốc bà. Mà thôi, tôi sẽ có dịp kể rõ về bà sau này. Bây giờ, tôi chỉ cần kể cho bạn biết về sự tiếp đãi rộng rãi của bà đối với ông cháu tôi, khác hẳn sự hà tiện kỳ quái ở nhà – hay nói rõ ra là nhà ông bà ngoại.
Trong khi cố tôi và bà uống café ở gian trước, luôn luôn bà nhớ mang ra cho tôi cốc sữa ngọt kèm với bánh xăng uýt ngon lành.
Điều làm tôi kinh ngạc thật tình là khi thấy bà hút thuốc, vì đó là lần đầu tôi biết một phụ nữ phì phèo trên một điếu thuốc lá. Và dù nhiều năm trôi qua, tôi còn nhớ rõ nhãn hiệu trên bao thuốc mầu xanh: Phong thảo.
Khoảng xê xế, ba tôi cởi áo ngoài, nới cà vạt nằm ngủ trên ca na bé trong phòng khách, dì và cậu đi dạy giáo lý đằng nhà thờ, cố tôi lại kín đáo ra hiệu.
Thế là hai ông cháu lên đường, rời khỏi bầu không khí uể oải sau bữa ăn trưa. Qua khỏi công viên một đoạn, đến ngã rẽ, cố tôi dừng lại, vẻ tự tin, đứng bên rào, thứ hàng rào bằng cây dâm bụt bao quanh vườn cây ăn trái của ông Dal.
Vườn rộng và thật đẹp, nơi cổng treo cái bảng tróc sơn như sau: "A.Dalrymphe, trồng tỉa rau và trái cây". Những hàng cà rốt xen kẽ với những hàng cải trắng, cải đỏ. Trong vườn, những cây lê, cây bon sai oằn trái. Cố tôi nhìn trước, nhìn sau như thể cố ý tìm kiếm, ai đó, kêu lên bằng giọng buồn bực:
- Tiếc chưa! Ông chủ tốt bụng lại vắng nhà rồi.
Và quay lại, cố đưa mũ cho tôi, tôi nở nụ cười rất dễ thương:
- Robert! Con chui qua rào đi, không cần vào cổng chính. Hái loại "lê bơ" ấy nhé, mấy trái đó ngon nhất. Và nhớ khom lưng xuống một tí.
Theo đúng lời chỉdẫn của cố tôi, tôi chui vô vườn, hái đầy mũ những quả lê vàng mọng trong khi ông đứng ngoài canh chừng, miệng hát nho nhỏ, hết sức ung dung.
Rồi khi tôi ra khỏi vườn cũng bằng cách đó, hai ông cháu vừa cắn những quả lê giòn tan, ngọt lịm, nước chảy dài ướt cả cằm, thì mười lần như một, cố bảo tôi với giọng nghiêm trang:
- Có chú Dal ở nhà coi, chú dám cho ông cháu ta đến trái cuối cùng ấy chứ! Tội nghiệp chú! Chú thương ông lắm. Robert ạ!
Tôi không bao giờ ngạc nhiên về ông chủ vườn tốt bụng, vắng mặt này. Thật ra, là đứa trẻ trầm mặc, u buồn, thế nhưng phải công nhận rằng bên cạnh cố, tôi luôn luôn được thích thú; tu nhiên niềm vui ấy chỉ lóe lên một chút rồi tắt ngấm như tia nắng của buổi chiều tà.
Cố tôi được mọi người niềm nở nhưng lũ trẻ thì luôn luôn trêu chọc rất hỗn láo. Chúng không phải là học sinh Trung học như Gavin Blair mà có bận ông chỉ cho tôi. Chà! Lần đó tôi đỏ mặt lên vì rụt rè – Chúng là bọn trẻ trong làng, thường tụ tập nơi cầu tầu để lấy mũ vớt cá lia thia và đùa nghịch.
Mỗi lần thấy ông cháu tôi, chúng nhìn chăm chăm vào cố tôi một cách xấc xược rồi hét lên:
- Lão hề Gow đây này! Hỏi lão coi cái mũi gớm ghiếc kia lão nhặt ở đâu ra?
Tôi xấu hổ ghê gớm, nhưng cố tôi thì vẫn tỉnh như không. Lúc đầu, tôi vờ như không nghe gì hết, nhưng sau tò mò quá, tôi liền hỏi cố:
- Ông ơi! Sao mũi ông to thế, hở ông?
- Tại ông đánh nhau với tụi Zoulous, Robert!
Cố tôi im lặng một giây rồi trả lời với giọng hãnh diện. Tôi sung sướng, không xấu hổ nữa mà chỉ tức giận lũ trẻ ngu dốt kia. Tôi kêu lên:
- Ông ơi! Ông kể cho cháu nghe chuyện ông đánh tụi Zoulous đi! Cháu thích nghe!
Cố tôi có vẻ do dự, nhưng rồi cũng nói:
- Này! Robert! Ông không thích khoe khoang, đó là một thói xấu. Song cháu đã nằn nì, thì đây...
Vậy là tôi đi cạnh ông, kinh ngạc, say sưa, hồi hộp, thích thú nghe câu chuyện của ông: một chiếc tàu chiến chở đầy lính từ từ rời bến giữa tiếng than khóc của vô số phụ nữ xinh đẹp, rồi bí mật cập bến, một bờ biển nắng cháy.
Trong hàng ngũ của Lữ đoàn thiện chiến Tô Cách Lan tên "Bạch Mã" đó, có một sĩ quan anh dũng, dưới quyền Đại Tá Dougal. Sĩ quan ấy được thăng chức nhanh chóng nhờ trận đánh hào hùng với bọn Matabele. Về sau ông ấy được ĐạiTá rất tin cẩn và trở thành cánh tay mặt của Đại Tá. Một lần kia, Lữ đoàn bị vây hãm. Thế rồi...
Tôi nín thở theo dõi viên sĩ quan trong bóng đêm: hai súng lục trong hai tay, miệng ngậm thêm một dao găm, ông ta bò rạp mình trên vách đá lởm chởm. Khi ông tôi – vâng! Sĩ quan đó chính là ông tôi – sắp thoát ra khỏi vòng vây thì bỗng mặt trăng – kẻ phản trắc – ló ra khỏi đám mây. Thế là trong một nhoáng, bọn man rợ lao đến tấn công ông tôi... "Bằng! Bằng! Bằng!"... liên tiếp, ông tôi nhả từng loạt đạn, rồi ông tôi dùng dao chống cự. Từng cái xác đen ngòm đẫm máu nằm la liệt quanh ông tôi... Rồi sau cùng, ông thổi còi hiệu tức thì con ngựa kim yêu quý, con ngựa rất khôn ngoan của ông xuất hiện ngay giữa bóng đêm. Lộc cộc, lộc cộc, giòn giã, gấp rút, tôi như nghe tiếng vó ngựa vang dội bên tai, tiếng ngựa phi nước đại mới hấp dẫn làm sao! Bọn Zoulous khát máu đuổi theo bén gót, tên bay rào rào, veo véo,song rốt cuộc ông tôi thoát được, dù người kiệt sức vì mất nhiều máu quá, ông nằm rạp trên lưng con tuấn mã khôn ngoan trở về đồn...
-... Mầu cờ được cứu thoát!
Cố tôi kết luận, tôi thì thở phào nhẹ nhõm. Mắt tôi sáng ngời vì hãnh diện và thán phục cố tôi.
- Cố ơi! Cố bị thương nặng lắm hả?
- Còn phải hỏi! Ông như tấm giẻ nhúng máu vậy đó. Robert ạ!
- Vì vậy nên từ đó mũi cố...
- Cháu rất thông minh, quả đúng như cháu nghĩ:
Một mũi tên tẩm độc được cắm giữa mũi cố.
Cố tôi gật gù bằng bộ dạng hết sức trang trọng, nói. Đoạn cố kéo mũ sụp xuống một chút cho đỡ chói nắng, thêm:
- Chính Hoàng hậu đã tỏ lời khen ngợi ông trong khi Ngài gắn huy chương cho ông, tại Balmoral (ông xoa xoa lên mũi). Mà này, đừng gọi ông cố nữa nghe! Gọi là ông, nhớ chưa?
Tôi dạ một tiếng, nhìn ông vô cùng khâm phục và thương yêu ông thập bội. Ông cố tôi phi thường quá, anh hùng quá! Nữ hoàng ban khen là phải. Trên đường về tôi nắm chặt tay ôngtôi hơn. Trời ơi! Giá lúc đó có tôi thì tuyệt biết chừng nào!
Về đến nhà, mẹ tôi đang đọc một bưu thiếp. Bà quay lại nói:
- Bà sẽ về ngày mai. Được thấy con ở đây, bà sẽ vui lắm, Robert!
Tôi thản nhiên đối với tin ấy, nhưng ông tôi thì khác hẳn, ông phản ứng bằng cách nhăn mặt khó chịu như phải nuốt viên thuốc đắng không bọc đường rồi lặng lẽ lên lầu không thốt nửa lời. Mẹ tôi hiểu ý cha, ngẩng lên nhìn ông, hỏi với giọng âu yếm:
- Con mang nước trà lên lầu cho ba nhé? Cha muốn dùng thêm chút trứng chứ?
- Thôi! Hannah, thôi! Nghe tin này thật cha chẳng còn lòng dạ nào mà uống trà, ăn trứng nữa, con ơi!
Vị anh hùng của Lữ đoàn Bạch Mã, cánh tay phải của Đại Tá Dougal, vị sĩ quan anh hùng, kẻ thù đáng sợ của bọn Zoulous bỗng mất hết anh hùng khí, oai dũng trong nháy mắt. Ông tôi bước vào phòng, buông mình trên ghế dựa, lò so kêu lên ken két dưới sức nặng của ông.
°
°
Dù phản ứng của ông tôi khác lạ như thế, tôi vẫn không có gì lo lắng nếu không muốn nói là rất vui. Hôm sau, vào buổi chiều thứ bảy, tôi nghe có tiếng xe ngựa mà tôi hết sức mong đợi ngừng trước thềm. Tôi đang nôn nao nên vội chạy ù ra cửa sổ, nhìn xuống.
Bà cố tôi – mẹ của ông ngoại – hơi cúi đầu, một tay thận trọng kéo váy bước xuống xe, một tay xách cái ví đen có đính hạt trai. Khi bà tôi trả tiền xe hình như người đánh xe không bằng lòng sao đó, bác ta giơ cả hai tay lên trời để phản đối, song cuối cùng, bác ta cũng chịu thua, lầm lì vác mấy va li vô nhà.
Ông tôi không báo cho tôi biết một lời đã bỏ đi chơi từ lúc nào rồi, thật bất ngờ. Dì Kate và cậu Murdoch lễ phép đón bà trên thềm cửa. Mẹ thì kêu to:
- Robert đâu? Ra giúp bà mang va li lên lầu nào!
Giữa sự rộn rịp đó, tôi đem những hành lý nhỏ, gọn lên lầu. Thỉnh thoảng, tôi nhìn trộm bà cố và nhận thấy bà cao lớn hơn cả ông ngoại, khuôn mặt dài, vẻ cương nghị, da nhăn nheo. Trên đầu bà phủ một chiếc mũ, áo choàng đen tra những đườn ren trắng toát. Tóc rẽ giữa vẫn còn giữ được màu nâu.
Trong lúc rối rít kể lại những điều xảy ra trong cuộc hành trình, bà để lộ hàm răng vàng quá to, gây khó khăn cho miệng bà không ít.
Cánh cửa bí mật trên lầu đã được mở ra, rồi trong khi bà cố còn nán lại uống trà ở dưới nhà, tôi tự do quan sát căn phòng mà lâu nay sự tò mò đã dày vò tôi không ngớt. Tôi ngồi dạng hai chân trên cái va li được đặt trước cửa ra vào, ngó quanh phòng, thầm thán phục sự ngăn nắp và sạch sẽ tại đây. Lại nghe thoang thoảng mùi long não và sáp. Dưới sàn gỗ có trải hai tấm thảm hình ô van nom như hai hải đảo trên mặt bể.
Giữa hai tấm thảm là cái giường đồ sộ bằng gỗ đào hoa tâm, chân giường chạm trổ công phu và rèm giường cũng như khăn trải giường tất cả đều được thêu tỉ mỉ.
Dưới gầm giường, trong một góc kín đáo đặt cái ống phóng bằng đồng sáng loáng, trong góc phòng có một máy may. Gần khung cửa sổ, một ghế dựa đong đưa khả ái. Trên tường treo ba tấm tranh lộng lẫy: "Samson phá hủy đền thờ", "Cuộc vượt bể Đỏ" và "Sự phán xét cuối cùng". Bên cánh cửa, tấm khung gỗ trầm nom như một tấm nắp mộ, là một bài điếu văn in trên giấy viền đen mang tựa đề "Ngày vinh quang" ca ngợi Abraham đã gọi Samuel Leckie trở về nước Chúa, mặc dù là như thế, vợ ông (tức là bà cố tôi) hết sức đau buồn.
Chợt, tôi nghe tiếng bước chân bà từ từ chậm rãi bước lên cầu thang, tôi theo bà vào phòng. Bà tỉ mỉ xem xét mọi vật trong phòng để biết có bị xê dịch chi chăng?
Và rồi, bà lắc đầu tỏ ý bất mãn. Đoạn bà mở túi hành trang lấy ra hộp kính đeo mắt, cuốn Thánh Kinh, vài lọ thuốc, và đặt tất cả lên bàn ngủ một cách trịnh trọng. Bàn ngủ phủ tấm khăn ren. Sau rốt bà quay lại nhìn tôi, hỏi bằng giọng hơi cưng cứng của người ở vùng quê:
- Trong lúc bà đi vắng cháu ngoan chứ?
- Thưa bà, vâng.
- Tốt lắm! Bà rất bằng lòng.
Và giọng bà thân mật hơn:
- Có cháu đây, cháu hãy giúp bà thu dọn lại cho ngăn nắp. Thực bực mình, hễ mà bà rời cái phòng này một ngày là y như có người làm lộn xộn liền.
Tôi vâng lời, giúp bà mở các va li và nhìn bà sắp những áo quần phẳng phiu, thẳng nếp vào tủ. Vừa làm việc bà vừa khuyên nhủ tôi rằng: " Sự sạch sẽ đưa ta đến con đường đạo đức" rồi bà đưa cho tôi một cái khăn mỏng bảo đi lau các chân giường bằng đồng và các vật trong phòng. Còn bà, bà dùng cái chổi lông gà vừa lôi trong tủ ra phủi bụi bám trên mấy conchó bằng sành đặt ở lò sưởi. Hình như bà rất hài lòng về cách làm việc của tôi nên bà tỏ ra dịu dàng hơn, bà âu yếm nhìn tôi:
- Cháu có vẻ ngoan đấy chứ! Bà cho cháu cái này, nhé?
Bà lấy trong ngăn kéo trên cùng một nắm kẹo bạc hà, cho một viên vào miệng, còn lại bà cho tôi tất cả, không quên dặn:
- Ngậm chớ đừng nhai, ngậm thế lâu tan hơn.
Rồi bà xoa đầu tôi ra dáng che chở:
- Này cháu, cháu sẽ làm bạn với bà, bà sẽ lo cho cháu. Chốc nữa hai bà cháu ta đi uống trà, nhé?
Như lời hứa, bà giữ tôi lại suốt ngày cạnh bà, hỏi chuyện tôi và kể cho tôi nghe chuyện của bà nữa. Bà tôi sinh trưởng trong một gia đình nông dân khá giả. Những tháng vừa rồi bà về thăm người cháu, trại chủ ở Ayrshire. Chồng bà là một vị Thánh. Chính ông đã dẫn bà đến con đường đạo hạnh. Một hôm, đó là ngày bà nhớ mãi – trong lúc ông băng ngang trong sân xưởng, chiếc cần trục làm rơi một tấm thiếc ngay trên đầu ông làm ông vỡ sọ tức thì. Ông là cai thợ trong xưởng đóng thùng thiếc ở Levenford. Tội nghiệp ông biết bao nhiêu! Bà chỉ còn được một niềm an ủi là tin ông vào thẳng thiên đàng. Anh em nhà Marshll cũng tỏ ra rất rộng rãi: cho đến chết, bà được hưởng một số tiền trợ cấp mỗi ba tháng một lần. Nhờ đó bà có thể trả tiền nhà, ăn tiêu các thứ mà khỏi nhờ vả vào ai.
Khoảng bốn giờ chiều, bà bảo tôi đi rửa mặt, rửa tay. Bốn rưỡi hai bà cháu lên đường đến làng Drumbuck.
Tôi rất khâm phục vẻ đạo hạnh, nghiêm nghị của bà tôi và muốn bà vui lòng, tôi giữ vẻ ngoan đạo của một con chiên hiền lành. Tôi bắt chước bà, ngay trong cả cái cách gục gặc đầu và đi cạnh bà, tôi thấy mình quan trọng hẳn lên. Mặc dù trời nóng, bà tôi vẫn mang đủ bộ lệ, khăn choàng v.v... Tay bà cầm một cây dù xếp như một cây trượng, cán dù bằng vàng khảm xà cừ lóng lánh. Ôi chao! Đi cạnh bà tôi hãnh diện biết bao! Đố đứa nào dám chòng ghẹo bà cháu tôi.
Khi hai bà cháu đến gần quán bán bánh kẹo nằm giữa lò rèn và quán nước, bà còn cẩn thận dặn dò tôi lần nữa:
- Cần nhất là cháu nhớ tỏ ra ngoan ngoãn nhé? Bà Minns là bạn thân của bà đấy, cháu ạ! Bà ấy vẫn đi xem lễ với bà. Đừng ồn ào khi uống trà và chỉ trả lời khi được hỏi thôi, nghe chưa?
Nhất nhất, tôi đều vâng dạ, lễ phép. Chao ơi! Những khi dán mũi vào tủ kính cửa hàng bà Minns tôi có bao giờ tưởng tượng được rằng có một ngày tôi sẽ là khách của bà này?
Bà tôi đẩy cửa vào trước, tôi theo bà bước xuống vài bậc cấp dẫn đến căn phòng nhỏ hơi tối, thoang thoảng mùi bạc hà, mùi kẹo hồi, mùi xà phòng thơm và mùi sáp.
Bà Minns lưng còng, mặc áo hàng dày màu đen, cặp kính gọng thiếc của bà được đẩy lên tận trên trán – thật kỳ cục! Mà tôi đâu dám phê bình? – Bà ngồi đan nơi quầy hàng. Trông thấy bà cháu tôi, bà ấy ngạc nhiên quá, kêu lên giọng âu yếm và kinh ngạc:
- Chúa ơi! Chị yêu quý! Có phải chính chị đó không?
- Phải! Phải! Chị Tibbie ơi! Chính tôi đây chớ còn ai nữa...
Bà tôi vui thích vì gây được bất ngờ cho bạn nên tỏ ra vui vẻ thái quá, khác hẳn với bản tính mình. Hai bà ôm nhau mừng rỡ một cách khá... ồn ào.
Rồi thì bà Minns đi lom khom – chả là bà ta bị tê thấp – đưa hai bà cháu tôi vào gian trong. Đoạn bà nhanh nhẹn sắp tách dĩa lên bàn tròn và đặt ấm nước lên bếp, vừa làm việc bà vừa chăm chú nghe bà tôi kể chuyện, câu chuyện xảy ra trong thời gian bà tôi đi nghỉ ở Kilmarnock. Bà tôi kể rõ từng chi tiết một, nhất là về những buổi lễ bà đi dự. Khi bà tôi kể xong, bà Minns gật gù:
- Tốt lắm! Chị không bỏ phí thì giờ. Tôi cũng thích nghe mục sư Dalgetty giảng lắm, song phải công nhận là chị biết thưởng thức hơn tôi.
Chủ nhà rót trà mời khách và tỉ mỉ kể lại những gì xảy ra trong thờigian bạn mình vắng mặt: chuyện sinh, tử, chuyện hôn lễ v.v... Bà cũng nhắc đến tên những bà có mang (điều này thú thật tôi không hiểu nổi nó có nghĩa gì).
Thế rồi, sau khi đã duyệt hết những tintức địa phương, hai bà cụ nhìn nhau. Cái nhìn tựa như những tay sành ăn đã thưởng thức bốn món ăn chơi và bấy giờ mới đúng vào lúc bắt đầu dùng món chính.
Bà cụ Minns vào đề thẳng thừng không cần quanh co chi cả:
- Thằng bé kháu chứ? Ăn thêm miếng bánh nữa đi, cháu! Ngon lắm!
Tôi sung sướng và hãnh diện vì được bà ta săn sóc chu đáo. Bà kê thêm một cái ghế cho tôi ngồi và còn đặt ngay trước mặt tôi dĩa bít quy. Nhận thấy tôi không uống trà, bà quay xuống lấy cho tôi một chai limonade có nhãn hiệu một lực sĩ khoác áo bằng da báo, vác tạ đôi!
- Nào! – giọng hiền từ, bà Minns hỏi tôi – Bây giờ cháu kể cho hai bà biết từ hôm về nhà ngoại đến nay, cháu làm gì? Cháu có thích ông cố ngoại không?
Tôi nhanh nhẩu, lễ phép đáp. Hai bà nhìn nhau, ra chiều biểu đồng tình:
- Làm bạn với ông vui không, hở cháu?
- Thưa bà, vui lắm. Cháu không rời ông...
- Vậy thì hai ông cháu làm được những gì nào? – giọng bà tôi như lạc đi.
- Thưa bà, nhiều lắm, nhiều lắm...
Tôi hăm hở đáp và nhai thêm một cái bánh nữa, rồi kể tiếp: nào ông cố bày tôi chơi banh với ông Boag, ông cố kể chuyện ông đánh bọn Zoulous... Nào ông cố bảo tôi vào vườn ông Dalrymphe hái trái cây. Tôi nhắc đi nhắc lại rằng ông Dalrymphe rất tốt, bằng lòng cho ông cháu tôi leo rào vô vườn chớ không cần đi cửa chính.
Tôi hãnh diện thấy hai bà chăm chú nghe cho nên tôi càng khen ông không tiếc lời. Tôi kể cả chuyện ông đi xe buýt không cần mua vé, chuyện ông dẫn tôi vào Lữ quán Drumbuck và cuối cùng, là chuyện ông cố trầm trồ về hai cô gái bán hoa trong buổi sáng đầu tiên hai ông cháu ra đường.
Im lặng khá lâu. Bà vẫn nhìn tôi vẻ thương xót làm tôi rất ngạc nhiên. Sau cùng, bà dịu dàng nhưng cương quyết – như một người cương quyết muốn biết điều tệ hại – hỏi tôi về quá khứ, về đời sống ở Dublin. Dáng điệu bà nhân từ cho đến nỗi tôi không ngại ngùng gì, kể tuốt ra một mạch về nền giáo dục đầu tiên của tôi. Khi tôi kể hết, hai bà nhìn nhau, sự im lặng lần này thật nặng nề.
Giọng bà Minns trầm trầm:
- Đó, chị thấy rõ đó! Chị thấy rõ tình trạng cháu đó! Hãy liệu...
Bà tôi trang trọng gật đầu, và quay sang tôi:
- Robert, con hãy ra ngoài chơi một chút, bà có câu chuyện bàn với bà đây.
Tôi vâng lời bà, song trong khi chờ đợi tôi hết sức ngại ngùng, bối rối
Một lát sau, khi ra về bà tôi không nói gì với tôi song bà nắm tay tôi thật chặt, dáng bộ âu yếm. Đến nhà, bà dắt tôi vào phòng ngay, đóng cửa lại, cởi áo khoác xong, bà hỏi tôi:
- Robert! Con cầu nguyện với bà nhé?
- Thưa bà, vâng!
Tôi sốt sắng đáp và hai bà cháu quỳ cạnh nhau trong một căn phòng mờtối dần. Bà tôi thành tâm, sốt sắng cầu nguyện cho tôi, thànhkhẩn xin cho linh hồn tôi được cứu rỗi. Mặc dù lo lắng, tôi vẫn xúc động vì những lời kinh thành khẩn của bà tôi – mắt tôi ướt đẫm khi nghe bà tôi ký thác tôicho Thiên Chúa nhân từ sau khi đã xin Ngài tha thứ cho kẻ tội lỗi là tôi và xin Ngài giúp bà tôi kiên nhẫn vượt mọi thử thách.
Xong rồi bà tôi đứng lên, tươi cười đi khép cửa sổ và thắp nến. Đột nhiên, bà kêu lên:
- Robert! Cháu mặc bộ áo quần trông ghê quá: Vô trường Trung học, họ sẽ nghĩ sao về cháu?
Bà gọi tôi đến gần, sờ vào cái áo vải vá của tôi tiếp:
- Ngày mai, bà sẽ may cho cháu một bộ áo quần, bà có máy may. Nào! Đến ngăn kéo lấy cái thước dây cho bà!
Tôi đứng im, thẳng băng như pho tượng trong khi bà đo ni tấc của tôi, bà dùng một cây bút chì thấm nước bọt ghi số đo trên một mẫu giấy nâu cắt ra từ tờ báo "Thời trang" của Weldon. Sau đó, bà mở tủ nhìn và nói lầm bầm.
- Xem nào: ta có một cái váy hàng xẹc còn tốt có thể dùng được...
Trong lúc bà đang lục trong ngăn tủ thì có tiếng gõ cửa và ông tôi lên tiếng:
- Robert! Đến giờ đi ngủ rồi!
Bà tôi tức thì quay lại:
- Để tôi cho Robert ngủ cũng được.
- Nhưng... nó ngủ với tôi.
- Không! Từ nay nó chỉ ngủ với tôi thôi!
Giọng bà cương quyết.
Im lặng một lúc rồi:
- Áo ngủ nó còn trong phòng tôi.
- Tôi sẽ cho nó áo ngủ khác.
Lại im lặng. Tôi đợi khá lâu không nghe động tĩnh gì, rõ ràng là ông cố tôi chịu thua, tôi nghe ông kéo lê dép trongkhi rút lui. Tôi hoảng hốt... bàtôi vốn tế nhị nhận ra điều này khi thấy mặt tôi tái và buồn thiu nên bà càng có vẻ hiền từ, che chở hơn. Bà dịu dàng cởi áo cho tôi, chế nước ra thau giúp tôi rửa ráy và sau đó túm tôi trong cái áo cánh bằng nỉ mỏng, đoạn đỡ tôi lên giường.
Ngồi trên đầu giường, bà vuốt trán tôi âu yếm, nét mặt đăm chiêu ra dáng như một người sắp phải thực hiện một nhiệm vụ lớn lao, khó nhọc.
- Tội nghiệp cháu tôi! – Bà thở dài ảo não – bà sắp làm cháu thất vọng. Nhưng không thể nào khác được: ông cố cháu thật ra chưa bao giờ đánh giặc, chưa bao giờ! Suốt đời ông, ông chưa đi khỏi Winton quá 50 dặm đường.
Ơ kìa! Bà tôi nói cái gì vậy chớ! Tôi kinh ngạc mở to mắt nhìn bà không chớp, bà chậm rãi tiếp:
- Tính bà không thích nói xấu ai, nhưng đây là một bổn phận, bổn phận thiêng liêng, nếu bà im lặng sẽ có ảnh hưởng đến cả tương lai cháu...
Bà tiếp tục chậm rãi nói, tôi cố gắng để gạt ra ngoài tai những lời bà, song nó vẫn chui vào mồn một, đứt khúc, loạn xạ... Trời ơi! Những lời độc ác biết ngần nào!
"... Thất bại trong tất cả mọi công việc, luôn luôn bị đuổi... Làm việc ở sở Quan thuế, sống nhờ vào thủ đoạn... vợ ông chết vì vậy... Rồi thì ông nghiện rượu... nhìn mặt ông là biết liền, nhất là nhìn cái mũi... Còn những kẻ mà ông giao du ư? Toàn là hạng chặt đầu cá, vá đầu tôm cả đấy: lão Boay đã sạt nghiệp ba bận, lão Dickie sống trong viện dưỡng lão, không một trinh dằn túi. Ông thì... ông sống nhờ vào lòng tốt của con trai bà..."
- Không! Không! Cháu không muốn biết, cháu...
Tôi van nài bà đừng kể nữa, bịt hai tai lại, vùi đầu vào gối. Bà kéo mền đắp cho tôi, từ tốn bảo:
- Cháu cần phải biết rõ sự thật, cần biết... Cháu không thể làm bạn với ông ấy. Đừng khóc! Cháu ngoan của bà! Bà sẽ chăm sóc cháu kể từ nay.
Rồi bà kiên nhẫn chờ cho tôi bình tĩnh lại mới đứng lên. Bà buồn rầu nói với tôi rằng bà cũng mệt lắm và không vui vì chuyện này, nhưng bổn phận bắt buộc. Bà đọc câu ngạn ngữ: "Ngủ sớm dậy sớm sẽ mang lại cho ta sức khỏe và thịnh vượng" đoạn bắt đầu thay áo.
Một chốc sau, bà tắt đèn, lên nằm cạnh tôi. Khác với ông cố, bà nằm thật yên lặng nhưng hai bàn chân bà chạm vào chân tôi, giá lạnh. Tôi nằm nghiêng. Trong bóng tối, tôi bàng hoàng nhìn sững hàm răng giả của bà ngâm trong cốc nước lã đặt trên bàn ngủ. Hàm rằng ngời sáng như dọa dẫm và chế giễu tôi (làm bằng kiểu xưa, rất xưa, có vẻ nặng và chắc chắn).
Chúa ơi! Ông tôi không có hàm răng như thế và có rất nhiều tính xấu, tôi vừa được biết do bà tôi tiết lộ, song tôi ao ước hết lòng được trở về nằm bên cạnh ông. Vâng! Có trời chứng: tôi ao ước hết lòng!