Mọi thứ đều đã được sắp sẵn. Chúng tôi đi đến cái đống rác ở sân sau, lục lọi tìm được cái chậu giật cũ bằng thiếc, đêm vá lại những chỗ thủng để lấy cắp ít bột mì cho đầy vào đấy. Sau đó, chúng tôi đi lên nhà, ăn sáng, lại nhặt được vài cái đinh đóng thuyền. Thằng Tom bảo cái đó rất tốt cho tù nhân dùng để viết tên mình và những điều đau khổ của mình lên giường nhà giam. Chúng tôi bỏ một cái đinh vào túi áo làm bếp của di Saly đang vắt trên ghế, còn cái đinh kia thì giắt vào băng mũ của chú Silas để trên bàn giấy, vì chúng tôi thấy bọn trẻ nó là sáng nay bố mẹ nó sẽ đến thăm tên da đen bỏ trốn. Tôi lại bỏ một cái thià vào túi áo ngoài của chú Silas nữa. Dì Saly vẫn chưa đến, chúng tôi phải ngồi chờ một lúc.
Một lúc sau, dì Saly đến, mặt đỏ phừng phừng. Một tay rót cà phê, một tay cốc vào đầu đứa bé ngồi gần đó nhất, và nói:
– Tao lục lọi khắp nhà mà không tìm thấy một cái áo sơ mi đâu cả.
Tim tôi như rụng xuống, miếng bánh nuốt vào cổ họng như tắc lại và làm bật ra tiếng ho, miếng bánh bắn ra, bay qua bàn, trúng ngay vào mắt đứa bé ngồi trước mặt, dính đét vào đấy. Nó hét lên một tiếng. Còn thằng Tom thì mặt tái xanh đi một lát, nhưng sau đó lại trở lại như thường. Rồi lại một sự kiện nữa làm chúng tôi lạnh toát cả người. Chú Silas nói:
– Lạ thật, tôi nhớ rõ ràng là đã cởi áo ra rồi, vì…
– Tôi biết ông đã cởi nó ra, vì hôm qua nó còn ở ngòai dây phơi, chính tôi trông thấy. Nhưng lại mất rồi. Thôi ông đi lấy cái áo khác mà mặc, rồi tôi may cho ông cái áo khác. Ông phải giữ gìn quần áo cho cẩn thận chứ.
– Tôi biết, Saly ạ, nhưng cái đó không hoàn toàn lỗi tại tôi. Tôi có trông thấy cái áo sơ mi ấy đâu trừ khi tôi mặc lên người, mà nếu tôi mặc vào người thì chả có lý gì lại mất được.
– Vâng, không phải lỗi tại ông nếu như ông không biết. Mà không phải chỉ mất có một cái áo thôi đâu. Như vậy cũng chưa hết. Mười cái thìa, bây giờ còn chín. Có thể con bê nó tha cái áo đi, nhưng chả bao giờ bê lại tha cái thìa đi được. Chắc chắn như vậy.
– Còn cái gì mất nữa, Saly?
– Mất sáu cây nến nữa, có thể là chuột tha nến đi. Nhưng tôi không hiểu tại sao nó lại vào được, vì ông vẫn luôn luôn bịt những lỗ hổng và nó không thể chui vào được. Nếu nó mà chui nữa thì nó còn chui cả vào trong tóc ông ngủ nữa ấy.
– Thôi, tôi biết là lỗi của tôi rồi. Dạo này tôi lơ là quá, đến mai tôi sẽ không còn để một lỗ nào không bịt nữa
– ồ, chả vội đâu, sang năm cũng được…
Tiếng tay đập một cái xuống bàn, đứa bé đang sục ngón tay vào bát đường vội rút ra. Vừa lúc đó một người đàn bà da đen bước vào nói:
– Thưa bà, một khăn trải giường cũng bị mất rồi.
– Mất khăn trải giường! Quái lạ chưa?
– Để hôm nay tôi sẽ đi bịt các lỗ ngay.
– Thôi đi ông. Chuột nào đi tha khăn trải giường? Mất ở đâu? Lize!
– Thưa bà, tôi không biết được ạ. Hôm qua, nó còn ở trên dây phơi, mà bây giờ đã thấy mất rồi, không còn nữa.
– Thế này thì loạn cả rồi. Tôi chưa hề thấy thế bao giờ, từ thuở bé đến nay, áo sơ mi rồi khăn trải giường; rồi thìa; rồi…
Một thằng bé ở đâu bước vào:
– Thưa bà, lại mất một chân nến bằng đồng nữa ạ.
– Cút ngay đi, đồ chết tiệt, không thì tao nện cho bây giờ.
Dì Saly giận sôi sùng sục. Tôi ngồi khấn thầm trong bụng, định lẻn ra ngoài để đi trong rừng chờ cho đến khi không khí dịu đi một chút. Mọi người đều im lặnh, sợ sệt. Cuối cùng, chú Silas ngẩn người ra vì thấy cái thìa ở trong túi áo mình. Dì Saly đứng sững lại, giơ tay lên, há cả miệng ra. Còn tôi thì chỉ muốn chui tọt xuống đất. Dì Saly nói:
– Tôi biết ngay mà. Thế là ông vẫn để nó trong túi áo. Không chừng cũng có cả những cái khác nữa trong túi ấy. Sao nó lại vào đấy được?
– Tôi thật sự không biết. Có lẽ ăn sáng vì mải đọc kinh nên tôi bỏ chiếc thìa vào túi mà cứ ngỡ là quyển thánh kinh. Để tôi đi xem nào, nếu cuốn kinh có còn ở chỗ đó hay không. Có thể tôi đã bỏ cuốn kinh xuống và đã nhặt lên cái thìa, và…
– Ôi thôi, mọi người hãy đi đi, đừng có ai đến gần tôi trong khi tôi đang điên tiết đây.
Nếu như dì ấy chỉ nói nhỏ một mình thôi thì tôi cũng đã nghe thấy rồi, huống hồ ở đây lại quát tháo lên thế nữa thì giá có chết rồi tôi cũng nhỏm dậy mà nghe. Chúng tôi đi qua phòng ngủ, thấy ông chú cất mũ đi lên, cái đinh thuyền giắt ở mũ rơi xuống sàn nhà. Chú ấy chỉ lẳng lặng nhặt lên để vào cái thanh mắc áo, không nói gì và cứ thế bước ra. Tom thấy thế mới lại nhớ ra cái thìa. Nó nói:
– Thôi, có lẽ không thể tin cậy mà gửi đồ qua chú ấy được nữa đâu. Nhưng mà chú ấy lại làm ơn cho mình về chuyện cái thìa mà ông ta không biết, cho nên chúng ta cũng nên tạ ơn chú ấy bằng việc đi bịt đi các hang chuột.
ở dưới hầm có rất nhiều hang chuột nên chúng tôi phải mất đến một tiếng đồng hồ mới bịt hết, nhưng chúng tôi bịt rất cẩn thận. Bỗng có tiếng chân bước lên cầu thang chúng tôi vội tắt phụt đèn và nấp vào một chỗ. Chú Silas đến, tay cầm một cây nến, một tay cầm các thứ dụng cụ, mặt thẫn thờ. Chú ấy đi vòng từ hang chuột này đến hang chuột khác. Rồi chú ấy đứng dậy dừng lại mấy phút suy nghĩ. Chú ấy mê mẩn bước ra phía cầu thang, miệng lẩm bẩm:
– Mình không nhớ rằng mình đã bịt những lỗ này từ bao giờ. Mình phải đi nói với Saly ngay bây giờ, và như thế thì mình không có gì đáng trách về chuyện chuột cả. Nhưng thôi, có nói cũng chẳng ích gì.
Chú ấy vừa đi lên bậc thang thì chúng tôi chuồn theo ra. Chú ấy bao giờ cũng dễ thường.
Tom rất băn khoăn không biết làm thế nào để có cái thìa. Suy nghĩ một lúc, nó dặn tôi bây giờ phải làm như thế nào. Chúng tôi đi đến chờ ở chỗ để rổ thìa cho tới khi dì Saly tới. Tom đếm thìa để ra một bên, rồi thì chuồn một cái vào tay áo. Rồi thằng Tom nói:
– Di Saly, chỉ có chín cái thìa thôi đây.
– Thôi cháu đừng quấy rầy dì nữa. Dì biết rồi, chính dì đã đếm rồi.
– Dì ạ, cháu đã đếm lại hai lần mà vẫn chỉ thấy có chín cái thôi.
Dì ấy có vẻ sốt ruột không chịu được nữa, nhưng cũng đếm lại. Đếm xong, dì ấy bảo:
– Đúng là chỉ có chín cái – Quái lạ chưa, để đếm lại nữa xem nào.
Tôi khẽ thả tay bỏ trả lại cái thìa tôi đang cầm, rồi sau khi cô ấy đếm xong mới nói:
– Mười cái đây rồi!
Dì ấy vừa mừng rỡ lại vừa lo ngại. Nhưng rồi thằng Tom lại bảo:
– Không, dì ơi, làm gì có mười cái?
– Cháu không thấy dì vừa đếm hay sao?
– Cháu biết, nhưng mà…
– Được, di đếm lại nhé.
Tôi lại thủ đi một cái, đếm xong lại chỉ thấy có chín cái như lúc nãy. Thế là dì ấy tức quá sắp điên thật. Nhưng dì ấy vẫn đếm đi đếm lại mãi, đếm trong rổ rồi lại đếm ngòai rổ, lúc thì đủ, lúc thì thiếu. Tức quá, dì ấy cầm cái rổ thìa quăng ra góc nhà, văng cả vào con mèo đang nằm đó rồi quát bon tôi cút đi để cho dì ấy được yên. Thế là chúng tôi được cái thìa và bỏ vào túi áo làm bếp của dì trong lúc dì đang quát tháo đuổi chúng tôi đi. Đến gần trưa thì Jim nhận được cả cái thìa lẫn cái đinh. Chúng tôi rất thú vị về chuyện ấy. Nó bảo rằng sau khi cô ấy đếm như vậy trong ba ngày nữa thì dì ấy sẽ đành chịu bỏ, và ai còn bảo cô ấy đếm nữa thì dì ấy giết cũng chưa biết chừng.
Đêm đó, chúng tôi lại vắt cái khăn trải giường lên dây thép như cũ và đánh cắp một chiếc khác trong tủ. Rồi bỏ lại, rôi lấy đi, cứ như vậy liền mấy ngày, cho đến lúc dì ấy không biết được là có bao nhiêu khăn nữa, rồi không buồn đếm xem có bao nhiêu cái nữa. Bây giờ là chúng tôi yên trí. Yên trí về cái áo, cái khăn và những cây nến, nhờ có chuyện con bé, chuyện chuột và chuyện đếm lẫn, còn cái chân nến bằng đồng thì không thấy nói gì. Nhưng rồi chắc cũng sẽ nổ ra.
Nhưng làm được cái bánh thật là cả một công trình. Chúng tôi gặp hết khó khăn này đến khó khăn khác mới làm xong cái bánh ấy. Chúng tôi đem vào rừng, nấu trong đó nấu xong rất thích chí. Nhưng không phải làm trong một ngày mà đã xong đâu. Chúng tôi phải dùng đến ba cái chậu đầy bột, bị bỏng khắp người, mắt cay xè. Sau cùng, chúng tôi nghĩ ra là phải nhét cả cái thang dây vào trong bánh đã. Đêm sau chúng tôi bò vào chỗ Jim, lấy cái khăn trải giường xé nhỏ ra hình nhiều sợi dây xe lại với nhau, cho đến gần sáng, chúng tôi làm được một cái dây thừng rất đẹp, có thể chịu được sức nặng của một người. Gần trưa, chúng tôi ra ngòai rừng, nhưng không nhét vào trong bánh được. Dây làm bằng cả cái khăn trải giường như thế thì đến bốn mươi cái bánh mới chứa nổi, mà vẫn còn thừa để mà cho vào súp, vào nước chấm nữa mới hết. Nhưng chúng tôi không cần cái đó. Tất cả điều cần thiết là chỉ cốt nhét cho đủ vào cái bánh, chỗ còn lại, chúng tôi vứt cả đi. Chúng tôi không đun nấu gì bằng chậu, vì sợ thiếc chảy. Nhưng chú Silas lại có một cái lông ấp bằng đồng mà chúng tôi rất quý, vì đó là của tổ tiên để lại, có cán bằng gỗ, từ bên Anh gửi sang, chú ấy đem cất giấu ở tận trên khoang dưới mái nhà cùng với một lô những bình, lọ và nhiều thứ giá trị khác.
Thực ra nó cũng không đánh giá là mấy, nhưng vì nó là đồ cổ nên coi trọng như vậy thôi. Chúng tôi lấy đem ra ngòai rừng, nấu cái bánh thứ nhất thì bỏng, nhưng đến cái bánh sau thì được. Chúng tôi lấy ra lau chùi, lấy bột xát đi một lượt, cho lên bếp than, rồi chất những mẩu giấy vụn vào, để một cục bột ướt, đậy nắp lại, cho than hồng lên trên nắp. Sau đứng xa hơn một thước, tay cầm cái cán dài, nguội mát, và mười lăm phút sau đã có một cái bánh trông rất đẹp mắt. Nhưng người nào ăn chiếc bánh ấy sẽ bị đau dạ dày nằm liệt.
Lúc chúng tôi đặt cái bánh có ma quỷ ấy vào trong nồi để đem cho Jim thì Nat không dám nhìn. Rồi chúng tôi để ba cái đĩa sắt xuống đấy nồi, dưới các thức ăn khác. Thế là Jim có đủ các thứ rồi. Vừa nhận được những cái đó Jim bẻ ngay bánh ra lấy cái dây giấu xuống ổ rạ, rồi vạch một vài dấu hiệu lên đĩa sắt ném qua lỗ cửa sổ ra ngoài.