ại số nhà 62 phố Wilbraham Crescent, để tự động viên mình, bà Ramsay luôn miệng tự nhủ:
Chỉ còn hai ngày nữa thôi! Chỉ còn hai ngày nữa thôi!
Bà đưa tay gạt mớ tóc bết trên vầng trán đẫm mồ hôi. Có tiếng loảng xoảng trong bếp. Bà Ramsay không cảm thấy hào hứng để vào bếp xem xảy ra chuyện gì. Giá như không có chuyện đổ vỡ đó! Mặc tất! Chỉ còn chịu đựng hai ngày nữa thôi!
Đi đến cuối hành lang, bà đẩy mạnh cánh cửa, hỏi bằng giọng kém phần gắt gỏng so với ba tuần lễ trước đây:
Lại đánh vỡ cái gì đấy?
Mẹ tha lỗi, - cậu con trai Bill khẽ nói. - Con chỉ có chơi đánh đáo bằng mấy cái đồ hộp thôi. Không hiểu sao chúng lại lăn vào tủ bát đĩa.
Cậu bé nhất, Ted, nói:
Chúng con không cố tình.
Thôi được! Quét các mảnh vỡ cho vào thùng rác mau.
Mẹ để cho lúc khác.
Không được, dọn ngay lập tức.
Đấy là tội thằng Ted, - Bill nói.
Anh toàn đổ tội cho em.
Thì chính mày chứ còn gì?
Không phải em!
Mày!
Hai đứa trẻ túm nhau.
Cút hết cả đi! - bà Ramsay hét lên, đẩy hai đứa con ra khỏi bếp.
Sau khi đóng cửa bếp lại, bà ta bắt đầu dọn dẹp, xếp lại các đồ hộp, quét các mảnh bát đĩa vỡ.
Bà lẩm bẩm:
Chỉ phải chịu đựng hai ngày nữa thôi! Ngày kia khai trường rồi.
Ngày khai trường là một sự kiện giải thoát đối với những bà mẹ có con trai!
Đúng lúc đó, bên ngoài có một tiếng thét khủng khiếp, sau đó là một sự im lặng đến mức làm bà Ramsay sợ hãi. Bà đứng sững lại, cái chổi vẫn trên tay. Cửa bật mở, cậu Bill lao vào, nét mặt hớn hở và trịnh trọng chưa từng thấy.
Mẹ ơi, có một ông thanh tra cảnh sát đi với một người nữa đến nhà ta.
Bà Ramsay thở phào nhẹ nhõm.
Ông ấy hỏi gì?
Bảo muốn gặp mẹ. Chắc về vụ án mạng ở số nhà 19. Mẹ biết rồi đấy, ở nhà bà Pebmarsh ấy.
Cậu trai đi theo mẹ vào phòng khách. Hai ông khách đứng trong đó với Ted, con trai út bà. Mắt cậu bé lộ vẻ thán phục.
Bà là bà Ramsay?
Chào hai ông, - Bà nói. - Nếu hai ông đến gặp tôi để hỏi về chuyện xảy ra hôm qua bên nhà số 19, thì tôi không có gì để kể với các ông cả, - giọng bà bực dọc. - Thưa ông thanh tra, tôi không biết gì hết. Thậm chí tôi không hề biết các hàng xóm của tôi là những ai.
Bà có ở nhà trong quãng thời gian từ mười hai giờ rưỡi đến ba giờ chiều không?
Giờ ấy thì có, tôi bận vào bữa ăn trưa. Nhưng khoảng gần ba giờ thì tôi ra khỏi nhà, đưa mấy đứa con xem phim ngoài rạp.
Viên thanh tra lấy trong túi ra tấm ảnh.
Bà có biết người này không?
Bà Ramsay nhìn, mỗi lúc một chăm chú:
Không, - bà ta nói. - Chắc thế. Nhưng làm sao tôi nhớ hết được những người tôi đã nhìn thấy?
Người này không đến nhà bà mời mua bảo hiểm hay thứ gì đại loại như vậy chứ?
Không. - Lần này bà Ramsay đáp quả quyết hơn. - Không, tôi tin chắc như thế.
Chúng tôi nghi ông ta tên là Curry, - Hardcastle nói.
Bà Ramsay lại khẳng định thêm:
Với lại, trong vụ nghỉ hè thì tôi không còn bụng dạ quan tâm đến bất cứ thứ gì khác.
Viên thanh tra nói:
Tôi hiểu, nghỉ hè bà rất vất vả. Bà có hai cậu con trai sáng sủa, khỏe mạnh, tràn trề sức sống thế kia! Hẳn bà phải tốn nhiều công sức cho chúng lắm. Bao giờ hai cháu tựu trường?
Ngày kia.
Bà nên thuê một cô giúp việc người nước ngoài,
Colin gợi ý. - Cô ta vừa giúp việc, vừa dạy các cháu tiếng Pháp.
Tôi cũng đang nghĩ đến chuyện đó, nhưng tôi ngại thuê người nước ngoài lắm. Tôi cứ thấy không thể tin họ được, mặc dù ông chồng tôi luôn giễu tôi về cái tính đa nghi ấy. Chồng tôi luôn đi công cán nước ngoài, tất nhiên ông ấy có nhiều kinh nghiệm hơn tôi.
Lúc này ông nhà đang ở nước ngoài?
Vâng, ở Thụy Điển. Nhà tôi đi từ đầu tháng Tám, ông ấy là kỹ sư công chính.
Khoảng bao giờ ông ấy về, thưa bà?
Tôi không biết, - bà Ramsay buồn rầu đáp. - Mà ông ấy về thì cũng chẳng giúp được gì cho tôi.
Giọng bà run rẩy.
Thanh tra Hardcastle đứng dậy:
Chúng tôi không làm phiền bà thêm nữa. Các cháu đưa chúng tôi ra cổng được rồi.
Lúc ra ngoài, thanh tra Hardcastle hỏi hai đứa trẻ:
Bên này nhìn rõ số nhà 19 chứ, hai cháu? Nếu lên tầng hai hẳn còn nhìn thấy rõ hơn.
Bác nói đúng đấy, - Bill nói. - Nếu chúng cháu ở trên ấy hôm qua, hẳn chúng cháu thấy được nhiều thứ lắm.
Nhìn thấy một ống dẫn nước tưới chui vào lấp sau bụi cây tầm xuân ở góc vườn, Colin nhận xét:
Tầm xuân mà cũng cần tưới à?
Không phải đâu... - Bill nói, lộ vẻ lúng túng.
Colin cười:
Hẳn là khi trèo lên cái cây kia, có thể phun nước vào một con mèo đấy nhỉ?
Phun nước thì có gì đâu, còn hơn bị bắn súng cao su, - Bill nói thêm, vẻ mặt láu lỉnh.
Thỉnh thoảng hai cháu lại lách sang vườn nhà bên cạnh, đúng thế không? Các cháu sang bằng cách nào?
Cháu chỉ cần lách qua hàng rào, tụt xuống góc vườn nhà bà Pebmarsh, rồi lách sang vườn bà Hemmings. Đấy có một chỗ hàng rào thủng, - cậu bé Ted giải thích.
Làm ra vẻ lơ đãng, thanh tra Hardcastle hỏi:
- Từ lúc xảy ra vụ án mạng, hai cháu thường vào đó nghe ngóng, có phải không?
Hai đứa trẻ nhìn nhau.
Các cháu tìm thấy được cái gì mà chưa nói với các bác đấy? - Thanh tra Hardcastle hỏi:
Bill tỏ vẻ quyết định:
Ted, mày lấy ra đưa các bác ấy xem đi.
Thế là chú bé Ted chạy đi, lát sau quay về, tay cầm một chiếc khăn tay bẩn, thắt nút ở bốn góc. Đứng giữa hai đứa trẻ, thanh tra tháo nút buộc, giũ ra những thứ đựng bên trong.
Đó là một cái quai tách, một mảnh vỡ bằng men sứ Trung Hoa, một cái bay gẫy, một chiếc nĩa ăn han rỉ, một đồng tiền kim loại, một đinh khuy, và một mảnh kính mầu.
Rất hay đấy, - viên thanh tra nói giọng nghiêm nghị. Rồi thấy vẻ mặt tội nghiệp của hai đứa trẻ, ông nhấc lên mảnh kính vỡ. - Cho bác cái này. Biết đâu sẽ là một đầu mối đấy.
Còn Colin thì nhặt đồng tiền bằng kim loại, ngắm nghía.
Tiền nước ngoài đấy, không phải tiền Anh đâu,- chú bé Ted nói.
Cháu nói đúng, - Colin đáp. Rồi ngước lên nhìn viên thanh tra Hardcastle, anh ta nói: - Ta mượn cả đồng tiền này nữa nhé?
Thanh tra Hardcastle nói, giọng đồng lõa:
Các cháu phải giữ kín. Tuyệt đối không được nói với ai đấy.
Hai đứa trẻ rất khoái trá, trịnh trọng thề danh dự là sẽ không nói với bất cứ ai.